Xem mẫu
- Chính sách khuyến khích ứng dụng công nghệ cao
trong nông nghiệp tại Việt Nam
Hoàng Thị Hương, Nguyễn Thị Lan Hương
Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển nông nghiệp công nghệ cao (CNC) đã, đang và sẽ là xu
hướng phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn tiếp theo, không chỉ tại các nước
phát triển, mà còn tại các nước đang phát triển, trong đó Việt Nam cũng
không đứng ngoài xu thế chung này.
Có thể thấy hiện nay ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản chính sách nhằm định hướng, khuyến khích phát triển CNC trong lĩnh
vực nông nghiệp, có thể kể đến như: Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày
17/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát
triển công nghệ cao đến năm 2020; Quyết định số 575/QĐ-TTg ngày
04/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể khu và
vùng nông nghiệp ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030; Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 16/11/2017
của Thủ tướng Chính phủ về Nâng cao giá trị gia tăng, tính cạnh tranh,
nâng cao thu nhập của người nông dân và bảo vệ môi trường... Các chính
sách nêu trên sau một thời gian triển khai thực hiện khá dài, rất cần được
xem xét, phân tích đánh giá để nhận diện, làm rõ kết quả, tác động của
chúng đối với thực tiễn. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để đề xuất, khuyến nghị
sửa đổi, bổ sung chính sách nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào
nông nghiệp, góp phần bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nông nghiệp
Việt Nam trong thời gian tới. Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi đề
cập đến một số vấn đề chính sách có ảnh hưởng trực tiếp đến thúc đẩy ứng
dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, gồm: Tiếp cận đất đai; Tín dụng;
Ưu đãi thuế; Hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; Thúc đẩy nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao; Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh;
Bảo hiểm nông nghiệp.
277
- 2. CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
CAO TRONG NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM
2.1. Tiếp cận đất đai
Đất đai là nguồn lực sản xuất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp
(SXNN). Tại Việt Nam, nhằm thúc đẩy đầu tư và ứng dụng KH&CN vào
nông nghiệp, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi như: Nghị
định 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 về Cơ chế, chính sách khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số
46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 Quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt
nước. Cụ thể, theo quy định tại Nghị định 57/2018/NĐ-CP, bất kỳ doanh
nghiệp nào có các dự án nông nghiệp thuộc diện ưu đãi đầu tư, khuyến
khích đầu tư và và đặc biệt ưu đãi đầu tư đều được miễn hoàn toàn tiền thuê
đất trong 11-15 năm đầu tiên kể từ khi bắt đầu, và được giảm 50% tiền thuê
đất trong vòng 5 - 7 năm tới. Chính phủ cũng hỗ trợ đối với các doanh
nghiệp thuê đất từ các hộ gia đình/cá nhân hoặc các doanh nghiệp nhận đất
làm cổ phần cho nông dân đầu tư vào các phân ngành được khuyến khích
hoặc khuyến khích đặc biệt. Giá trị hỗ trợ là lên tới 20% tiền thuê đất trong
5 năm đầu, tương đương 10 tỷ đồng. Bên cạnh chính sách trên, trong bối
cảnh đất SXNN manh mún, Chính phủ đã thực thi chính sách tích tụ, tập
trung đất. Đây được coi là một trong những giải pháp góp phần thúc đẩy
ứng dụng CNC vào nông nghiệp.. Viện nghiện cứu quản lý kinh tế Trung
ương năm 2017 đã cho rằng: để thúc đẩy tích tụ tập trung ruộng đất, tạo
điều kiện ứng dụng KH&CN thì vai trò của thị trường quyền sử dụng đất
nông nghiệp là rất lớn. Tuy nhiên trên thực tế chính sách trong vấn đề này
còn khá nhiều bất cập, ảnh hưởng đến thị trường quyền sử dụng đất
(QSDĐ) nông nghiệp như: (i) Quy định về quy hoạch ảnh hưởng đến tính
chất hàng hóa, cung và cầu của thị trường. Những quy định về quy hoạch
đang ảnh hưởng đến tính chất hàng hóa, cung và cầu của thị trường. Nguyên
nhân chủ yếu là do các quy định về quy hoạch đang quá chi tiết đến từng
nhóm đất, từng loại cây trồng (Quốc Hội, 2013).
Việc thực hiện điều chỉnh quy hoạch lại khó khăn, nhiều thủ tục.
Những quy định về hình thức giao đất, cho thuê đất đang tạo nên sự thiếu
công bằng trong các tác nhân; nguồn cung, cầu không không vận hành theo
cơ chế thị trường. Nguyên nhân chính là do sử dụng hình thức giao đất, đặc
278
- biệt là hình thức giao đất không thu tiền; (ii) Những quy định về quyền của
chủ thể sử dụng đất đang hạn chế một số chủ thể gia nhập thị trường; tạo
nên sự sự không đồng nhất về tên gọi "mua - bán" giữa thị trường QSDĐ
nông nghiệp với nhiều loại thị trường khác. Nguyên nhân là từ tên gọi và
sự phân biệt quyền của một số chủ thể (như doanh nghiệp, hộ phi nông
nghiệp thì không được nhận chuyển nhượng sử dụng đất lúa); (iii) Quy định
về quyền của chủ thể sử dụng đất làm hạn chế một số chủ thể gia nhập thị
trường... (iv) Quy định về hạn mức sử dụng đất ở mức thấp làm ảnh hưởng
đến đáp ứng nhu cầu của các hộ gia đình, đặc biệt là các hộ có tiềm lực; (v)
Quy định về thời gian sử dụng làm vai trò của đất nông nghiệp chưa phát
huy tối đa kể cả vai trò là công cụ, tư liệu sản xuất cũng như tài sản; đồng
thời làm giảm cầu trên thị trường… (vi) Quy định về thu hồi đất đang làm
giảm cầu trên thị trường, đồng thời làm giảm giá trị hàng hóa ảnh hưởng
đến lợi ích người sử dụng đất... (vi) Quy định về cấp giấy QSDĐ chưa hình
thành một hạ tầng thị trường mạnh nên việc hoàn thiện các thủ tục sau khi
chuyển QSDĐ rất khó khăn. Sau mỗi lần chuyển nhượng lại có một lượng
hàng hóa không được cấp Giấy chứng nhận làm cho khối lượng hàng hóa
tham gia vào thị trường giảm... (CIEM- GIZ, 2019).
2.2. Tín dụng nông nghiệp
Thời gian qua, có khá nhiều chương trình, chính sách tín dụng ưu đãi
khác nhau trong hỗ trợ SXNN được Chính phủ ban hành như: (i) Chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định
55/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 116/2018/NĐ-
CP); (ii) Chính sách tín dụng hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch theo Quyết
định số 68/2013/QĐ-TTg; (iii) Chương trình cho vay thí điểm đối với các
mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp,
các mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ cao trong sản xuất nông
nghiệp theo Nghị quyết 14/NQ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2014 của Chính
phủ. tại Quyết định 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014; (iv) Chính sách tín
dụng khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC, nông nghiệp
sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN, và mới đây là Nghị định
57/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn. Trong đó, tại Nghị định 55/2015/NĐ-CP, cá nhân, hộ
gia đình, hợp tác xã, hoặc chủ trang trại có thể vay từ ngân hàng thương
279
- mại từ 50 triệu đồng đến 3 tỷ đồng không thế chấp. Doanh nghiệp, hợp tác
xã, hoặc liên hiệp hợp tác xã tham gia hợp đồng canh tác áp dụng công
nghệ hiện đại có thể vay mà không cần thế chấp một khoản tiền lên tới 70%
giá trị của dự án. Ngoài các chính sách trên, ngày 07/3/2017 của Chính phủ
ban hành Nghị quyết số 30/NQ-CP triển khai gói tín dụng 100.000 tỷ đồng
cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng CNC. Theo đó, để triển
khai Nghị quyết này, Bộ NN&PTNT đã ban hành Quyết định số 738/QĐ-
BNN-KHCN cụ thể danh mục CNC ứng dụng trong nông nghiệp được
hưởng chính sách hỗ trợ. Ngân hàng Nhà nước cũng triển khai cho vay với
lãi suất ưu đãi hỗ trợ nông nghiệp CNC và sạch tại Quyết định 813/QĐ-
NHHH ngày 24/4/2017. Cụ thể, những khoản tín dụng được phân phối bởi
8 ngân hàng thương mại để cho vay với lãi suất thấp hơn 0,5-1,5% so với
giá thị trường cho các doanh nghiệp nông nghiệp CNC.
Mặc dù thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ tín
dụng cho doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng CNC, song đã phát sinh
những khó khăn, vướng mắc như: (i) Đầu tư tín dụng nông nghiệp, nông
thôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thiên tai, dịch bệnh, thị trường sản phẩm không
ổn định, xuất khẩu nông sản phải đối mặt với rào cản thương mại ngày càng
phức tạp, khắt khe, nhưng thiếu các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi
ro… (ii) Năng lực sản xuất, điều hành, tài chính của doanh nghiệp, hộ nông
dân, hợp tác xã trong nông nghiệp còn hạn chế, quy mô nhỏ lẻ, phương án
sản xuất kinh doanh thiếu khả thi… đã ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận vốn
tín dụng. (iii) Chưa hình thành hệ thống dịch vụ phát triển nông nghiệp ứng
dụng CNC. Hiện nay, số lượng doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng CNC
được công nhận còn ít (Bộ NN&PTNT, 2019), nhiều doanh nghiệp có
phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, khả thi, song vướng vào quy định
về doanh nghiệp nông nghiệp CNC nên không được vay vốn. (iv) Tài sản
hình thành trên đất nông nghiệp phục vụ SXNN có giá trị lớn nhưng không
được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản để thế chấp vay vốn; mặt
khác tính thanh khoản của các tài sản này không dễ thực hiện, gây khó khăn
cho doanh nghiệp và ngân hàng trong việc định giá và nhận thế chấp tài sản
bảo đảm cho khoản vay. Nhìn chung, hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp đầu tư và ứng dụng KHCN nói chung, công nghệ cao trong nông
nghiệp nói riêng còn khó khăn. Số doanh nghiệp nông nghiệp tiếp cận được
280
- chính sách còn ít, quy mô tín dụng nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn
của doanh nghiệp trong khi lãi suất vay thương mại hiện còn khá cao.
2.3. Ưu đãi thuế
Đối với doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng KH&CN, ứng dụng
CNC được hưởng các ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, thuế doanh nghiệp,
thuế xuất nhập khẩu, được quy định cụ thể tại: Luật Thuế GTGT 2008, Luật
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật thuế GTGT, Nghị định số
209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế
tiêu thụ đặc biệt, Luật Quản lý thuế… Cụ thể, áp dụng thuế suất 10% trong
15 năm, miễn thuế tối đa 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm
tiếp theo đối với các đối tượng gồm: doanh nghiệp thực hiện dự án trong
khu nông nghiệp ứng dụng CNC, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng
CNC, doanh nghiệp KH&CN trong nông nghiệp được hưởng ưu đãi tối đa
(Quốc Hội, 2013). Ngoài ra, đối với giống cây trồng trong nước chưa sản
xuất được, cần thiết nhập khẩu theo quy định của cơ quan quản lý nhà
nướccó thẩm quyền sẽ được miễn thuế nhập khẩu.
Tuy nhiên, thực tế tình hình hiện nay cho thấy nhiều doanh nghiệp
nông nghiệp đang gặp phải vấn đề khấu trừ thuế mà không được hoàn thuế
trong khâu xuất khẩu nông sản. Theo đó, các doanh nghiệp xuất khẩu nông
sản phải đóng thuế GTGT trước, khoản thuế này sẽ được khấu trừ vào thuế
xuất nhập khẩu các kỳ sau đó. Nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa
là nông sản thuộc diện chịu thuế 0% (Bộ tài chính, 2013) nên khoản tiền
thuế GTGT doanh nghiệp đóng trước đó không lấy lại được. Điều này dẫn
đến nhiều doanh nghiệp bị giữ số tiền thuế GTGT lớn trong khi không có
vốn để xoay vòng, không lưu thông được nguồn vốn.
2.4. Hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Hiện nay, lao động nông nghiệp được đánh giá có năng suất thấp,
kém hiệu quả, đặc biệt khó đáp ứng yêu cầu của nông nghiệp ứng dụng
CNC. Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã có các chính sách nhằm hỗ
trợ phát triển nguồn nhân lực cho lao động nông thôn, hỗ trợ đào tạo nghề
trực tiếp cho doanh nghiệp, như: Nghị định 57/2018/NĐ-CP ngày
17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
281
- nông nghiệp, nông thôn, Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 Phê
duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, Quyết
định số 971/QĐ-TTg ngày 1/7/2015 sửa đổi Quyết định số 1956/QĐ-TTg...
Theo đó, hỗ trợ cho doanh nghiệp trực tiếp đào tạo nghề cho lao động với
mức hỗ trợ 02 triệu đồng/tháng/lao động, thời gian hỗ trợ là 3 tháng; trường
hợp DN tham gia liên kết chuỗi giá trị: hỗ trợ tổ chức đào tạo và hướng dẫn
kỹ thuật cho nông dân, mức hỗ trợ 500 ngàn đồng/nông dân được đào tạo
trong 03 tháng...
Ngoài ra, lao động nông thôn thuộc diện ưu tiên được hỗ trợ chi phí
đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo dưới ba tháng với mức tối đa 03 triệu
đồng/người/khóa học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian đào
tạo thực tế); hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000 đồng/ngày thực học/người; hỗ
trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa 200.000
đồng/người/khóa học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở
lên; Lao động nông thôn thuộc hộ cận nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề
ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa
2,5 triệu đồng/người/khóa học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời
gian học nghề thực tế); Lao động nông thôn khác được hỗ trợ chi phí học
nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối
đa 02 triệu đồng/người/khóa học; Lao động nông thôn học nghề được vay
để học theo quy định hiện hành về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Lao
động nông thôn làm việc ổn định ở nông thôn sau khi đào tạo được ngân
sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản vay để học nghề; Lao động nông
thôn sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm.
Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ, nhưng thực tế lĩnh
vực đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn còn thiếu sự phối
hợp, gắn bó chặt chẽ giữa các cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp nông nghiệp
(IPSARD, 2019). Hầu hết các cơ sở dạy nghề chưa tiếp cận với doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp nông nghiệp nói riêng để nắm bắt nhu
cầu tuyển dụng, ngược lại, các doanh nghiệp cũng chưa đặt ra tiêu chí yêu
cầu người lao động phải có tay nghề trước khi tuyển dụng. Phần lớn các
doanh nghiệp không tuyển được lao động đã qua đào tạo; nếu tuyển thì phải
trả mức lương cao hơn 7% so với chưa qua đào tạo... Mặt khác, với xu
282
- hướng và tâm lý tham gia lao động phổ thông có thu nhập ngay không tốn
thời gian và tiền bạc học nghề, khiến cho nhiều lao động nông thôn không
muốn học nghề dù đã được tuyên truyền, tư vấn, nên lực lượng lao động có
tay nghề khu vực nông thôn ngày càng ít.
2.5. Thúc đẩy nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Với kỳ vọng nâng cao được năng suất và khả năng cạnh tranh, Nhà
nước đã khuyến khích việc cung cấp hỗ trợ cho ứng dụng công nghệ hiện
đại thể hiện trong Luật Công nghệ cao năm 2008, Quyết định số 176/QĐ-
TTg năm 2010 phê duyệt Chương trình thúc đẩy nông nghiệp CNC đến
năm 2020. Quyết định số 5171/QĐ-BNN-KHCN ngày 11/12/2017 phê
duyệt Kế hoạch nghiên cứu và chuyển giao công nghệ phục vụ cơ cấu lại
ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2018-2025.
Nhiều chương trình khác cũng đã được ban hành, gồm: Chương trình phát
triển nông nghiệp ứng dụng CNC thuộc Chương trình quốc gia phát triển
CNC đến năm 2020 (Chính phủ, 2012); Chương trình trọng điểm phát triển
và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển
nông thôn. Gần đây nhất là Quyết định số 130/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình Quốc gia phát triển Công nghệ
cao đến năm 2030 với 3 Chương trình: (i) Chương trình nghiên cứu, ứng
dụng, phát triển công nghệ cao, phát triển sản phẩm và dịch vụ công nghệ
cao do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì (ii) Chương trình phát triển một
số ngành công nghiệp công nghệ cao do Bộ Công Thương chủ trì (iii)
Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng do Bộ NN&PTNT chủ trì.
Bên cạnh đó, theo Nghị định 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018, doanh
nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp CNC cũng được Nhà nước hỗ trợ
phát triển công nghệ sau khi có các dự án chọn, tạo được giống cây trồng
được nghiệm thu; có giống cây trồng mới được tạo ra sau 3 năm kể từ khi
kết thúc dự án nghiên cứu; hoặc hỗ trợ dự án nhân giống cây trồng bằng
công nghệ nuôi cấy mô với dự án có quy mô từ 1 triệu cây/ năm trở lên,
quy mô dự án tăng thì mức hỗ trợ tăng tương ứng; hỗ trợ đầu tư hạ tầng các
khu, vùng, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hỗ trợ doanh nghiệp
có dự án đầu tư cơ sở bảo quản nông sản…
283
- Tuy có khá nhiều chính sách được ban hành, nhưng không ít doanh
nghiệp thuộc diện được hỗ trợ chính sách khuyến khích đầu tư dự án nông
nghiệp CNC có rằng quy trình, thủ tục để nhận và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ
từ ngân sách nhà nước quá phức tạp, không rõ ràng, khó xác định… mất
nhiều thời gian, chi phí của doanh nghiệp. Ngoài ra, nguồn lực thực hiện các
chính sách trên cũng là một trở ngại rất lớn làm cho tính khả thi và hiệu quả
của các chính sách bị hạn chế. Riêng Nghị định 210/2013/NĐ-CP, tại Điều
17 quy định hằng năm các địa phương phải bố trí tối thiểu từ 2-5% ngân sách
địa phương để hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn (tức
khoảng 9.000 tỷ đồng/năm ở mức tối thiểu 2%), song hầu hết các địa phương
đều không bố trí ngân sách thực hiện (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018). Hiện
nay, Nghị định này đã được thay thế bằng Nghị định 57/2018/NĐ-CP, nhưng
thực tế triển khai vẫn chưa có kết quả rõ nét.
2.6. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
Để cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh
của Việt Nam, năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 19/NQ-
CP, gần đây là Nghị quyết số 19/NQ-CP năm 2018 về tiếp tục thực hiện
những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh và
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan tiến hành rà soát
để giảm số lượng các điều kiện thành lập một doanh nghiệp mới, đơn giản
hóa thủ tục đăng ký và thực hiện Chính phủ điện tử. Trong phạm vi quản
lý của mình, Bộ NN & PTNT đã thực hiện: gỡ bỏ/sửa đổi/đơn giản hóa 241
trong tổng số 345 điều kiện thành lập doanh nghiệp trong tất cả các phân
ngành nông nghiệp; giảm 76% tổng số hàng hóa phải được Hải quan kiểm
tra đặc biệt trước khi xuất khẩu; thành lập các cơ sở để cung cấp dịch vụ
công trực tuyến ở mức tối đa - cấp độ 4 cho 18 thủ tục hành chính, đến năm
2018, Bộ này đã triển khai 10 thủ tục hành chính trực tuyến khác, đưa tỷ lệ
thủ tục thông quan có thể được thực hiện trực tuyến đến 95% (Bộ
NN&PTNT, 2018).
Mặc dù vậy, tính đến thời điểm tháng 9-2018, cả nước chỉ có khoảng
49.600 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm 8% tổng
doanh nghiệp cả nước, trong đó số doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ chiến
284
- trên 95% (Bộ NN&PTN, 2018). Cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cơ
sở hạ tầng cho khu nông nghiệp ứng dụng CNC, thủ tục rườm rà, thiếu
hướng dẫn chi tiết nên chưa đủ hấp dẫn để thu hút các doanh nghiệp đầu tư
vào các khu, vùng phát triển nông nghiệp CNC. Các địa phương chạy đua
trong việc xây dựng khu phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC nhưng
nguồn lực có hạn, trông chờ chủ yếu vào ngân sách Trung ương. Nhiều địa
phương đề xuất bổ sung, điều chỉnh quy hoạch tổng thể khu phát triển nông
nghiệp ứng dụng CNC nhưng chưa có sự chuẩn bị về căn cứ pháp lý cũng
như nguồn lực để xây dựng; chưa chủ động trong quy hoạch, bố trí đất sạch,
xây dựng chính sách đặc thù của tỉnh trên cơ sở khai thác lợi thế, nên cũng
ảnh hưởng đến việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án nông
nghiệp CNC.
2.7. Bảo hiểm nông nghiệp
Từ năm 2011, Chính phủ Việt Nam đã áp dụng chương trình thí điểm
cung cấp bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) tại 20 tỉnh với sự tham gia của 2
công ty bảo hiểm lớn: Bảo Việt và Bảo Minh. Tuy nhiên, chương trình
không thành công do nông dân rất hạn chế tham gia. Năm 2018, Chính phủ
tiếp tục ban hành Nghị định số 58/2018/ND-CP để điều tiết BHNN tiếp thị
và hỗ trợ cho nông dân, trong đó quy định các đối tượng bảo hiểm được hỗ
trợ đã mở rộng ngoài cây lúa, vật nuôi như tại Quyết định 315/QĐ-TTg,
còn có cao su, hồ tiêu, điều, cà phê, cây ăn quả, và rau. Hộ gia đình mà
thuộc nhóm nghèo hoặc cận nghèo (được phân loại bởi chính quyền) sẽ
được hỗ trợ cho 90% phí bảo hiểm. Các hộ gia đình khác được hỗ trợ lên
tới 20% phí bảo hiểm. Bất kỳ hình thức nào của hợp tác giữa nông dân để
sản xuất trên quy mô lớn, hoặc giữa nông dân và doanh nghiệp ở chuỗi giá
trị áp dụng công nghệ hiện đại để sản xuất sạch, an toàn. và thân thiện với
môi trường sản phẩm được hỗ trợ 20% phí bảo hiểm.
Nghị định này không giới hạn các địa phương triển khai BHNN theo
cơ chế bảo hiểm thương mại. Tuy nhiên, lĩnh vực nông nghiệp nhiều rủi ro,
SXNN lại nhỏ lẻ, manh mún, nếu không có hỗ trợ, bảo đảm bằng hình thức
tái bảo hiểm từ nhà nước, BHNN tại địa phương sẽ khó thực hiện, vì không
có doanh nghiệp bảo hiểm nào muốn tham gia, do vậy, doanh nghiệp tại
các địa phương khó tiếp cận được với chính sách BHNN. Mặt khác chính
285
- sách hỗ trợ tham gia BHNN nhằm sản xuất hàng hóa lớn chưa được Nhà
nước chú trọng. Chính sách hiện nay chỉ nhằm tạo lưới an sinh xã hội cho
người nghèo. Nghị định 58/2018/NĐ-CP và Quyết định 22/2019/QĐ-TTg
tập trung vào nhóm các hộ nghèo, cận nghèo, doanh nghiệp chỉ được hỗ trợ
20% phí BHNN khi có hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với
các đối tượng được hỗ trợ. Trong khi các hộ nghèo, cận nghèo, và các cá
nhân sản xuất khác đồng thời là đối tượng được hỗ trợ thiệt hại tại Nghị
định 02/2017/NĐ-CP (Chính phủ, 2017), còn doanh nghiệp không thuộc
đối tượng hỗ trợ của Nghị định này. Có thể thấy, với chính sách BHNN
như hiện nay chưa bao phủ, tính đến việc bảo hiểm rủi ro bất khả kháng
cho đại đa số doanh nghiệp, hộ sản xuất đã, đang và sẽ đầu tư và ứng dụng
KH&CN nói chung và CNC nói riêng vào nông nghiệp.
3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐIỀU CHỈNH, BỔ SUNG CHÍNH SÁCH
NHẰM THÚC ĐẨY NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO CHO VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Có thể thấy rằng các chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ cho ứng
dụng CNC trong nông nghiệp đã bao phủ trên khá nhiều lĩnh vực, chiều
cạnh, cả về việc tạo ra môi trường cũng như tác động trực tiếp nhằm thúc
đẩy nông nghiệp CNC phát triển. Điều này thể hiện sự nỗ lực cũng như
trách nhiệm trong thực hiện vai trò của Nhà nước đối với nông nghiệp CNC.
Tuy nhiên,những vấn đề bất cập và khoảng trống chính sách trong lĩnh vực
này đã hiện diện rất rõ nét trong thực tiễn, rất cần được nhanh chóng có giải
pháp khắc phục, trong đó nổi lên là: (i) Việc tiếp cận tín dụng, nguồn vốn
hỗ trợ, tiếp cận đất đai, hay BHNN đối với các đối tượng SXNN nói chung
và nông nghiệp CNC nói riêng còn rất nhiều khó khăn; (ii) Nhiều chính
sách, giiar pháp hỗ trợ thúc đẩy phát triển nông nghiệp CNC được cho là
đúng và trúng, nhưng quá trình thực thi còn nhiều điểm bất cập, nguồn lự,
nhất là nguồn lực tài chính thực hiện chính sách không được đảm bảo...
dẫn đến hiệu quả, hiệu lực, tác động của chính sách, giải pháp không như
kỳ vọng mục tiêu đặt ra, cá biệt còn gây cản trở quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nông nghiệp CNC; (iii) Việc ứng dụng CNC vào
nông nghiệp ở Việt Nam còn nhiều khó khăn khi vốn đầu tư cho hoạt động
KH&CN còn thấp và khó huy động; nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của
CNC; SXNN còn phân tán nhỏ lẻ... gây ra những thách thức lớn trong quá
286
- trình phát triển nông nghiệp cao ở nước ta... Những hạn chế, thách thức
trên cần sự phải được giải quyết đồng bộ, từ xây dựng chiến lược, kế
hoạch đến các lựa chọn giải pháp chính sách cụ thể để tháo gỡ các khó
khăn và thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo, chủ động của khu vực sản xuất.
Điều đó đặt ra yêu cầu đối với Chính phủ cần phải có sự điều chỉnh, bổ
sung chính sách nhằm thúc đẩy nông nghiệp CNC trong thời gian tới như
sau:
1) Chính sách thúc đẩy tích tụ, tập trung đất đai cho sản xuất nông
nghiệp
(i) Cần nhanh chóng sửa đổi luật, các văn bản dưới luật để tăng thời
hạn sử dụng đất nông nghiệp nhằm đảm bảo quyền sử dụng đất được ổn
định lâu dài, không giới hạn đối tượng được nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nông nghiệp; cân nhắc các quy định về hạn điền và thời gian sử
dụng đất...;
(ii) Quy hoạch các khu, vùng SXNN tập trung theo lợi thế và tiềm
năng thị trường để định hướng và đảm bảo sự ổn định, hợp lý cho vùng sản
xuất nông nghiệp nói chung và CNC nói riêng;
(iii) Áp dụng công nghệ thông tin, kết nối mạng trong quản lý đất
nông nghiệp đảm bảo tiếp cận mở các thông tin cơ bản về đất đai, quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất một cách thuận lợi, nhanh chóng và dễ dàng;
(iv) Giải quyết dứt điểm việc xác định và thu hồi các diện tích đất dôi
dư, đất sử dụng không hiệu quả của các công ty nông, lâm nghiệp để chuyển
giao cho chính quyền địa phương quản lý nhằm tạo quỹ đất sạch cho việc
đấu thầu quyền sử dụng đất nông nghiệp theo cơ chế thị trường.
2) Chính sách hỗ trợ nguồn vốn cho đổi mới và ứng dụng CNC trong
nông nghiệp
(i) Đối với nguồn vốn tín dụng, cần có cơ chế thế chấp bằng giá trị
tài sản hình thành trên đất, các tài sản sở hữu trí tuệ; điều chỉnh giảm mức
lãi suất vay vốn để giúp giảm chi phí cho các đối tượng vay vốn đầu tư ứng
dụng cao vào nông nghiệp;
287
- (ii) Dòng vốn cho tín dụng phát triển nông nghiệp CNC nên được
thực hiện thông qua dòng tiền riêng với việc ủy thác hay thuê 1-2 ngân
hàng thực hiện để đảm bảo nguồn tiền ổn định và các ngân hàng có động
lực cho vay tín dụng trong lĩnh vực này;
(iii) Đối với nguồn vốn hỗ trợ, cần hình thành các quỹ đầu tư mạo
hiểm, quỹ bảo lãnh tín dụng với sự đầu tư, góp vốn ban đầu của Nhà nước,
nhưng được quản lý và điều hành trực tiếp bởi các tổ chức tư nhân chuyên
nghiệp độc lập, nhà nước không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành các
quỹ này;
(iv) Hỗ trợ nguồn vốn cho ứng dụng CNC trong SXNN không chỉ
cho các đối tượng trực tiếp SXNN mà cần hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân
tham gia sản xuất, cung ứng các sản phẩm CNC phục vụ SXNN nhằm làm
giảm giá thành công nghệ, qua đó giảm chi phí đầu tư cho ứng dụng CNC;
(v) Đảm bảo nguồn vốn dành cho các chính sách khuyến khích ứng
dụng CNC vào lĩnh vực nông nghiệp theo đúng quy định của chính sách;
qua đó đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của chính sách, củng cố niềm tin của
khu vực sản xuất vào các định hướng và cam kết của nhà nước trong phát
triển nông nghiệp. (vii) Ban hành quy trình, thủ tục rõ ràng các bước làm
hồ sơ nhận vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp
CNC.
3) Chính sách về ưu đãi thuế cho nông nghiệp công nghệ cao
(i) Khẩn trương giải quyết các thủ tục thanh toán thuế cũng như ưu
đãi thuế, có chính sách nhanh chóng, gọn nhẹ, đúng quy định để các doanh
nghiệp khấu trừ thuế được nhanh chóng trong khâu hoàn thuế xuất khẩu
nông sản;
(ii) Áp dụng mức thuế ưu đãi tối đa về thuế cho các hoạt động SXNN
ứng dụng công nghệ cao, chuyển giao, chuyển nhượng các CNC ứng dụng
trong SXNN
4) Chính sách hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp
CNC
288
- (i) Cần gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của doanh nghiệp, nhu cầu của
thị trường; xã hội hóa các hoạt động đào tạo lao động, khuyến nông cho
ngành nông nghiệp thông qua việc tư nhân hóa, cổ phần hóa, tự chủ hoàn
toàn của các đơn vị sự nghiệp công lập đang cung cấp các dịch vụ đào tạo
này;
(ii) Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở dạy nghề và doanh
nghiệp nông nghiệp, các doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư đào tạo công
nhân nông nghiệp, nâng cao chuyên môn về nông nghiệp, an toàn nông sản
trong SXNN,…;
(iii) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về công nghiệp nông
nghiệp; xã hội hóa các hoạt động đào tạo lao động công nghệ cao.
5) Thúc đẩy nông nghiệp ứng dụng CNC
(i) Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng cơ sở dữ liệu mở về thông tin liên
quan đến sản xuất, kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp, các sản phẩm,
công nghệ đầu vào phục vụ SXNN để cung cấp các thông tin cập nhật, đầy
đủ, chính xác và tin cậy cho các nhà sản xuất, các nhà đầu tư;
(ii) Huy động nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải,
logistic, hạ tầng kỹ thuật kết nối công nghệ cao trong nông nghiệp, đặc biệt
ở các vùng nông thôn, miền núi điều kiện khó khăn;
(iii) Tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng các
khu nông nghiệp ứng dụng CNC đã được quy hoạch và phê duyệt đầu tư,
trong đó chú trọng xây dựng các vườn ươm công nghệ cao phục vụ SXNN;
(iv) Gắn kết quả nghiên cứu công nghệ tại các đơn vị nghiên cứu,
trường đại học công lập với khu vực sản xuất thông qua việc tiêu chí hóa
kết quả nghiên cứu được chuyển giao ứng dụng tại khu vực sản xuất;
(v) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, kết nối internet, điện
toán đám mây... trong quản lý và giám sát các chương trình, chính sách hỗ
trợ của nhà nước cho thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp
nhằm minh bạch hóa, công khai hóa và hiện thực hóa giám sát nhân dân
đối với các chương trình, chính sách này;
289
- (vi) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giới thiệu các chính sách của
nhà nước để chính sách đến với người dân nhằm thu hút người dân tham
gia SXNN công nghệ cao.
6) Chính sách bảo hiểm nông nghiệp
(i) Chính sách BHNN cần mở rộng đối tượng (doanh nghiệp, người
dân; danh mục cây, con...) tăng mức hỗ trợ phí bảo hiểm cho các doanh
nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong SXNN;
(ii) Nhà nước cần đóng vai trò lớn hơn trong việc thúc đẩy phát triển
thị trường BHNN thông qua việc hỗ trợ nguồn vốn đầu tư cho các tổ chức
BHNN, là đối tác quan trọng thực hiện tái BHNN;
(iii) Thúc đẩy các tổ chức tài chính, tín dụng tham gia mạnh mẽ hơn
trong việc cấp nguồn vốn cho các hoạt động đầu tư ứng dụng công nghệ
cao vào lĩnh vực nông nghiệp.
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một số chính sách nhằm
hỗ trợ, khuyến khích nông nghiệp ứng dụng CNC với mục tiêu nâng cao
giá trị gia tăng, tính cạnh tranh, nâng cao thu nhập của người nông dân và
bảo vệ môi trường. Nhưng quá trình thực thi các chính sách vẫn còn nhiều
điểm bất cập, thiếu khả thi, dẫn đến kết quả, hiệu quả và tác động của chính
sách chưa đạt được như kỳ vọng, ứng dụng CNC trong SXNN ở Việt Nam
vẫn ở mức độ khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của một
quốc gia có thế mạnh về SXNN. Để khắc phục tình hình trên, thời gian tới
cần chú ý đến một số giải pháp thúc đẩy phát triển nông nghiệp CNC như:
Giải pháp chính sách đất đai như thúc đẩy tích tụ, tập trung đất đai cho sản
xuất nông nghiệp; hỗ trợ nguồn vốn cho đổi mới và ứng dụng CNC trong
nông nghiệp; ưu đãi thuế cho nông nghiệp; hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực; thúc đẩy nông nghiệp ứng dụng CNC; bảo hiểm nông nghiệp,...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ NN&PTN, 2017. Báo cáo 5 năm thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp giai đoạn
2013-2017.
290
- Bộ NN&PTN, 2018. Báo cáo xây dựng Chính phủ điện tử gắn với cải cách hành
chính và đổi mới công tác kiểm tra chuyên ngành nông nghiệp.
Chính phủ, 2012. Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17/12/2012 về việc phê duyệt
Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc
Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020.
Chính phủ, 2012. Quyết định số 1895/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt chương trình
phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC thuộc chương trình quốc gia phát
triển CNC đến năm 2020.
Chính phủ, 2014. Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 Quy định về thu
tiền thuê đất, thuê mặt nước.
Chính phủ, 2015. Quyết định số 575/QĐ-TTg ngày 04/5/2015 “Phê duyệt quy
hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng nông nghiệp công nghệ
cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”.
Chính phủ, 2017. Nghị định 02/2017/NĐ-CP ban hành về cơ chế, chính sách hỗ
trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên
tại, dịch bệnh.
Chính phủ, 2018. Nghị định 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 về Cơ chế, chính
sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn;
CIEM-GIZ (2019). Báo cáo tổng hợp nghiên ứu chuyển đổi/ tiếp cận nông nghiệp
4.0 ở việt nam: vấn đề và kiến nghị chính sách. Viện nghiên cứu quản lý
Trung ương.
Quốc hội, 2023. Luật đất đai 2013 về Quy hoạch đất quá chi tiết, khi cần chuyển
đổi mục đích sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (Điều 57), đất trồng lúa (Điều 134), Đối với đất nông nghiệp (Điều
54); Nhà nước cho thuê đất nông nghiệp có thu tiền thuê đất hàng năm
(Điều 56); Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất
nông nghiệp… (điều 191).
IPSARD, 2019. Kết quả điều tra hỗ trợ đào tạo lao động trong nông nghiệp của
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn 2019.
291
nguon tai.lieu . vn