- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Chính sách gắn doanh nghiệp với giáo dục nghề nghiệp - góc nhìn từ trường đào tạo của doanh nghiệp
Xem mẫu
- CHÍNH SÁCH GẮN DOANH NGHIỆP VỚI GIÁO DỤC
NGHỀ NGHIỆP - GÓC NHÌN TỪ TRƯỜNG ĐÀO TẠO
CỦA DOANH NGHIỆP
Trần Ngọc Tính*
TÓM TẮT:
Bài viết trình bày những đánh giá khái quát thực trạng chất lượng nguồn nhân lực,
tình hình đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, tính kết nối giữa đơn vị sử dụng lao động và
các đơn vị giáo dục nghề nghiệp..., trên cơ sở đó chỉ ra những dự báo trong tương lai liên
quan đến công tác giáo dục nghề nghiệp. Qua đó, bài viết đề xuất một số giải pháp để nâng
cao hiệu quả của quá trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới.
Từ khóa: giáo dục nghề nghiệp, thực trạng, giải pháp, doanh nghiệp, nguồn nhân lực.
Phát triển giáo dục nghề nghiệp (GDNN) để thực hiện mục tiêu phát triển
Việt Nam thành một nước phát triển trong tình hình hội nhập quốc tế sâu rộng,
mọi mặt của xã hội, trong đó có hội nhập phát triển kinh tế, sản xuất công nghiệp.
Để phát triển GDNN trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ hiện
nay và trong tương lai một trong những vấn đề cần giải quyết là gắn kết doanh
nghiệp (DN) với GDNN. Để thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia đào tạo GDNN
của DN rất cần những hành lang pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi, khuyến
khích, thúc đẩy và gắn kết sự tham gia của DN trong công tác đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao cung cấp cho thị trường lao động toàn xã hội.
1. Thực trạng gắn kết doanh nghiệp với giáo dục nghề nghiệp
1.1. Vấn đề thực tiễn thứ nhất: Nguồn nhân lực
1.1.1. Thực trạng
Việt Nam được đánh giá cao khi có tỷ lệ dân số vàng trong độ tuổi lao động,
một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế. Đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam cũng ngày một tăng nhanh do thị trường lao động giá rẻ tại
Việt Nam, song trong thời gian qua với sự phát triển kinh tế cùng với sự phát triển
đào tạo dạy nghề song đến nay lao động Việt Nam vẫn là lao động có chất lượng
thấp theo đánh giá về các chỉ số lao động Việt Nam của ngân hàng thế giới (WB).
Cũng theo nhiều tài liệu, báo cáo đã công bố năng suất lao động của người Việt
Nam thấp so với ngay tại khu vực ASEAN. Tất cả những sự thấp kém của nguồn
* Nguyên Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Viglacera
373
- nhân lực tại Việt Nam chủ yếu do chưa được đào tạo đầy đủ, hoặc được đào tạo
nhưng chất lượng giáo dục đào tạo cũng như GDNN của chúng ta còn chưa học
đi đôi với thực hành nghề. Chất lượng lao động của chúng ta chưa tốt cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn tới năng suất lao động không cao.
Bức tranh nguồn nhân lực tại Việt Nam hay người lao động Việt Nam bao
gồm nhiều thành phần: Lực lượng lao động được đào tạo ở nước ngoài về thông
qua du học sinh, thông qua thực tập sinh hay xuất khẩu lao động. Lực lượng lao
động được đào tạo qua trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp dưới 3 tháng
do Bộ GD&ĐT quản lý; lực lượng lao động được đào tạo qua trình độ cao đẳng,
trung cấp, sơ cấp dưới 3 tháng do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý;
lực lượng người lao động được chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp do
chính sách thu hồi đất làm khu công nghiệp; lực lượng lao động phổ thông, lao
động tự do. Tất cả các thành phần lao động trong xã hội rất nhiều, ngay trong một
DN cũng sử dụng cùng lúc nhiều thành phần lao động. Do tính chất và đặc thù
của lao động như vậy nên mức độ đào tạo, thời gian đào tạo, chất lượng đào tạo v.v
rất khác nhau dẫn tới chênh lệch chất lượng lao động ở các thành phần này hoàn
toàn khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu này chỉ đề cập ở mức độ thành phần
lao động trực tiếp liên quan tại DN gồm: lao động ở bậc đào tạo trình độ cao đẳng
trở xuống.
1.1.2. Dự báo tương lai nguồn nhân lực
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay đang diễn ra rất mạnh mẽ trên
thế giới, với những nhận định sẽ làm thay đổi hoàn toàn các quan niệm cũng như
mọi mặt trong đời sống, một trong những vấn đề quan trọng là người lao động sẽ
mất việc làm, do có sự thay thế con người bằng rôbốt. Hiện tại đã có rất nhiều vị
trí việc làm ngay tại Việt Nam cũng đã xuất hiện rôbốt thay thế con người. Một
DN đầu tư một rô bốt có thể thay thế hàng chục lao động, như một rôbốt có thể
bốc, xếp sản phẩm suốt ngày đêm 24 giờ thay cho ba ca làm việc của công nhân
lao động, lại không ốm đau hay dễ ra lệnh điều khiển hơn con người. Sự đột phá
của cách mạng công nghiệp 4.0 còn nhiều bất ngờ mà người ta chưa thể đoán định
được, trong tương lai lao động của con người sẽ như thế nào. Tại VN do điều kiện
kinh tế cũng như sự phát triển công nghiệp còn ở mức thấp, chúng ta chỉ mới thoát
tình trạng kém phát triển nên tác động của cuộc cách mạng 4.0 chưa ảnh hưởng
đến nhiều mặt hoạt động của xã hội cũng như hoạt động sản xuất của DN, nhưng
nếu không chuẩn bị trước thì chúng ta có thể là bãi chứa rác công nghiệp cho các
nước phát triển.
Nguồn nhân lực trong thời gian tới tại Việt Nam cần được đào tạo ở các
ngành nghề mà máy móc chưa thể thay thế được con người trong tương lai, hoặc
các DN tại Việt Nam chưa thể có khả năng đầu tư máy thay thế con người, đối với
các ngành nghề hay vị trí làm việc mà hiện nay cũng như trong tương lai không xa
374
- máy móc đã thay thế được con người thì phát triển đào tạo vận hành, duy tu, bảo
dưỡng, điều khiển các thiết bị thay thế con người.
Nhà nước cũng như DN cần thống nhất việc sử dụng lao động phải được
qua đào tạo tại các cơ sở GDNN trước khi thực hiện hợp đồng lao động với DN.
1.2. Vấn đề thực tiễn thứ hai: Tình hình sử dụng nguồn nhân lực tại DN
1.2.1. Thực trạng
Trong nền kinh tế hiện nay các DN chủ yếu tồn tại ở các dạng DN nghiệp
gồm: các DN có yếu tố Nhà nước, DN cổ phần và DN tư nhân, DN có vốn đầu tư
nước ngoài. Việc sử dụng nguồn nhân lực tại các DN cũng rất khác nhau.
Đối với DN Nhà nước, với đặc điểm là được sự bảo trợ của Nhà nước nên
thường bộ máy cồng kềnh, bố trí lao động thường là dư thừa và thông thường kết
quả sản xuất kinh doanh kém. Sự quản lý đánh giá chất lượng người lao động đối
với hiệu quả, chất lượng công việc cũng không được quan tâm, tình trạng người
làm được việc thì ít mà người không làm được việc thì nhiều. Ngay từ khâu tuyển
dụng nhân sự của khối DN Nhà nước cũng chưa thực chất, quan niệm coi trọng
bằng cấp hơn năng lực thực tế cũng như tuyển dụng thông qua các mối quan hệ
thân quen v.v dẫn tới mặt bằng chung nhân sự lao động không tốt. Việc đầu tư
công nghệ mới, đầu tư cho đào tạo phát triển đội ngũ của DNNN cũng chưa được
thực hiện nghiêm túc dẫn tới chất lượng lao động ngày càng giảm, hiệu quả sản
xuất kinh doanh của DN phần lớn thua lỗ.
Đối với DN cổ phần và DNTN, có thể nói đây là thành phần DN rất lớn trong
xã hội, Đảng và Nhà nước ta cũng xác định cần tạo cơ chế để khối DN này được
phát triển thuận lợi nhất, đây là thành phần kinh tế trong tương lai sẽ có những
đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước, cũng như phát triển nền kinh
tế thị trường. Việc sử dụng nguồn nhân lực ở khối các DN này thực chất hơn khối
DNNN, tuy nhiên do nhiều yếu tố khách quan từ việc phát triển kinh tế, đổi mới
hệ thống quản lý nhà nước đối với hoạt động của DN còn hạn chế cộng với sự dồi
dào nguồn nhân lực trong thời gian qua (số lượng DN không nhiều nhưng lực
lượng lao động lớn) giá nhân công lại rẻ, dẫn tới việc sử dụng nhiều lao động trong
DN vẫn hiệu quả hơn việc đầu tư công nghệ, thiết bị máy móc hiện đại. Đặc biệt
một số DN sử dụng nguồn lao động phổ thông, lao động thời vụ không qua đào
tạo nghề chính thức, chỉ thực hiện đạo tạo nội bộ mang tính đối phó với cơ quan
quản lý. Tình trạng sử dụng lao động thời vụ, không qua đào tạo đặc biệt phổ biến
ở các DN tư nhân với số lượng lao động thời vụ khá lớn. DN Cổ phần và DNTN
cũng không có chiến lược phát triển nguồn nhân lực, cũng như không muốn đầu
tư cho đào tạo lại, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho sự phát triển lâu dài, bền
vững của DN. Với tư tưởng kinh doanh có lợi nhuận càng cao, chi phí trong đó có
chi phí đào tạo càng thấp thì càng hiệu quả mang lại sự phát triển không bền vững
375
- cho khối DN này. Sự đầu tư cho phát triển nghiên cứu và đào tạo phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao mới là yếu tố phát triển bền vững của DN. Nhìn chung
các DN tại Việt Nam luôn coi việc đào tạo là một chi phí, không DN nào coi đào
tạo là một sự đầu tư cho phát triển bền vững của DN đó đó sử dụng lao động thời
vụ giá rẻ, với số đông vẫn mang lại lợi nhuận cho DN và giải quyết được các nhu
cầu trước mắt và trong ngắn hạn của DN.
DN có vốn đầu tư nước ngoài: Phần lớn các DN có yếu tố nước ngoài luôn
không coi trọng bằng cấp mà luôn có yêu cầu về chất lượng lao động như kỹ năng
làm việc và chuyên môn thực tế hơn khối các DN trong nước. Công tác tổ chức bộ
máy DN cũng như phân công và sử dụng lao động luôn vừa đủ với yêu cầu phát
triển, quy mô của DN. Các DN này cũng có quy trình tuyển dụng, đánh giá làm
việc và thực hiện đào tạo thường xuyên hàng năm và liên tục rất tốt. Các DN có
yếu tố nước ngoài thường có chiến lược nghiên cứu và đào tạo phát triển nguồn
nhân lực rõ ràng, gắn liền với hoạt động sản xuất của DN và chiến lược phát triển
trong dài hạn. Bộ máy tổ chức quản lý tinh gọn, lao động sản xuất có kỹ năng và
chuyên môn tốt, liên tục được đào tạo thường xuyên với công nghệ đào tạo tiên
tiến áp dụng từ nước ngoài đã tạo nên ưu thế cạnh tranh của DN nước ngoài có
phần tốt hơn của DN trong nước.
1.2.2. Dự báo tương lai
Trong thời gian gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế và sự tham gia hội
nhập với thế giới, các DN tại Việt Nam đã dần có những thay đổi trong vấn đề
nguồn nhân lực, đa số các DN đều thống nhất sự tồn tại của DN thời kì hội nhập
chính là vấn đề chất lượng lao động.
Với sự gia tăng số lượng các DN, cũng như nguồn nhân lực lao động trong
nước không còn được dồi dào như trước dẫn tới sự canh tranh lao động rất quyết
liệt hiện nay. DN có thể không tuyển dụng được lao động nếu có yêu cầu tuyển
dụng cao, ngay cả lực lượng lao động thời vụ phổ thông hiện nay cũng có rất nhiều
lựa chọn cho công việc thậm chí các ngành nghề lao động nặng nhọc không thể
tuyển dụng được lao động (Các DN sản xuất vật liệu xây dựng như nhà máy sản
xuất gạch tuynel, sản xuất gạch không nung... khó tuyển dụng được lao động).
Hiện nay các DN đã có giải pháp thay thế lực lượng lao động này bằng việc đầu tư,
cải tiến công nghệ cũng như thiết bị tự động hóa thay thế con người. Nhiều DN
sản xuất vật liệu xây dựng sử dụng tự động hóa hoặc rô bốt thay thế lao động, với
mức giảm lao động từ 20%-30%so với trước đây. Với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ trong thời gian tới thì việc phải sử dụng máy thiết bị làm việc thay thế
con người là một tất yếu. Hàng ngày trên các phương tiện thông tin, chúng ta đang
thấy sự thay đổi liên tục không ngừng.Ở các quốc gia dân số già rô bốt đã thay thế
con người làm việc ngay cả những công việc phức tạp nhất. Trong thời gian tới
các DN phần lớn vẫn phải sử dụng một lực lượng lao động nhất định để vận hành
376
- sản xuất, do đó đào tạo GDNN trong thời gian tới cần phát triển theo hướng đáp
ứng yêu cầu của DN trong phát triển ứng dụng kết quả của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0. Đạt được kết quả đào tạo này chắc chắn đòi hỏi sự tham gia cũng như
sự nhận thức của DN trong công tác đào tạo GDNN, đặc biệt sự gắn kết giữa Nhà
trường và DN là hết sức quan trọng.
1.3. Vấn đề thực tiễn thứ ba: Hoạt động đào tạo giáo dục nghề nghiệp
1.3.1. Thực trạng
Hoạt động đào tạo GDNN là một phạm vi đào tạo trong hệ thống giáo dục
quốc dân, trước đây là hoạt động dạy nghề theo Luật Dạy nghề, kể từ 01/7/2015 đã
được chuyển đổi sang hoạt động GDNN theo Luật GDNN.
Thời gian gần đây sau khi Luật Giáo dục nghề nghiệp đi vào hoạt động, hoạt
động đào tạo GDNN đã dần thay đổi, từ các cấp quản lý nhà nước đến các cơ sở
đào tạo GDNN và các DN đã chuyển động thay đổi rất mạnh mẽ đặc biệt các hoạt
động trao đổi tăng cường mối quan hệ với các DN. Nhiều cơ sở GDNN đã thành
lập các bộ phận chuyên xúc tiến quan hệ với DN. Từ mối quan hệ của Nhà trường
với DN ngày càng được đẩy mạnh việc đào tạo GDNN đã có địa chỉ hơn, sự tham
gia của DN góp phần nâng cao chất lượng tay nghề cho người lao động. Cơ sở vật
chất tại các cơ sở đào tạo được đầu tư chỉ rất cơ bản không thể đầy đủ, đa dạng
như thực tế tại các DN đang hoạt động sản xuất do vậy sự tham gia của DN đã góp
phần nâng cao chất lượng kỹ năng nghề cho người học.
1.3.2. Dự báo tương lai
Với đà phát triển trong việc tiếp xúc với DN gần đây của các cơ sở GDNN
cũng như trong thời gian tới, sự nhận thức và chuyển động của các Nhà trường
cũng đã xác định việc hợp tác gắn bó với DN là yếu tố quyết định chất lượng đào
tạo GDNN.
Thực tế qua tìm hiểu đào tạo GDNN ở nhiều nước phát triển trên thế giới,
cũng đều gắn liền hoạt động đào tạo tại Nhà trường kết hợp đào tạo ngay tại các
DN, như mô hình đào tạo kép của Cộng hòa Liên bang Đức hay ở Pháp, Anh cũng
tương tự như vậy.
Việc gắn kết được DN hợp tác được với cơ sở GDNN là một yếu tố có tính
quyết định đến chất lượng lao động sau khi tốt nghiệp. Nguồn lực có chất lượng
cao phải được qua đào tạo và đào tạo gắn liền với hoạt động sản xuất của DN từ
đó mới nâng cao được năng suất lao động cho DN.
Mô hình đào tạo GDNN theo mô hình “Đào tạo nghề kép” đã được thực hiện
bởi Trường Cao đẳng Viglacera, với sự phối hợp tham gia của các DN đã và đang
cho thấy sự phù hợp và đã trở thành xu hướng tất yếu sau khi Luật Giáo dục nghề
377
- nghiệp có hiệu lực.
1.4. Vấn đề thực tiễn thứ tư: Doanh nghiệp tham gia đào tạo và sự quản lý
nhà nước trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp
1.4.1. Thực trạng
Với nhiều mô hình hoạt động các DN có quan điểm tham gia công tác đào
tạo GDNN rất khác nhau, nhưng về cơ bản các DN trong nước không coi trọng
việc đào tạo DGNN cho người lao động đặc biệt đối với các lao động cùng ngành
nghề nhưng thuộc các doanh nghiệp khác, ngược lại DN có vốn nước ngoài thì
gần như ngược lại, rất quan tâm đến đào tạo trước khi vào dây chuyền sản xuất.
Mọi hoạt động đào tạo GDNN, đều diễn ra dưới sự quản lý của cơ quan
quản lý Nhà nước, cụ thể hoạt động GDNN dưới sự quản lý của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, hiện nay các văn bản quy định vấn đề gắn kết giữa DN
với Nhà trường chưa được cụ thể hóa, cũng như DN còn nặng tư tưởng sản xuất
kinh doanh là quan trọng hơn, hoạt động đào tạo DN không có nghĩa vụ chức
năng, không nhất thiết phải tham gia, DN vẫn sẵn sàng tuyển dụng và thực hiện
đào tạo lại.
Chương IV Luật GDNN quy định quyền và trách nhiệm của DN trong hoạt
động GDNN, tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu của Luật GDNN đã đề ra còn
liên quan đến nhiều bộ ngành khác như Bộ Tài chính, các Bộ ngành chủ quản của
các DN.
Qua khảo sát thông tin từ một số DN, thực tế hiện nay các khoản chi phí mà
DN dùng cho công tác đào tạo nguồn nhân lực đều được tính vào chi phí của DN,
như vậy DN sẽ có xu hướng tiết kiệm chi phí, hạn chế đào tạo.
Quản lý nhà nước chưa có những cơ chế, chính sách cụ thể để ràng buộc,
thúc đẩy và khuyến khích DN tham gia hoạt động GDNN, sự phối hợp giữa các
Bộ, ngành cùng đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để DN tham gia
hoạt động GDNN đồng thời giám sát và quản lý chất lượng GDNN khi DN cùng
Nhà trường tổ chức đào tạo GDNN.
1.4.2. Dự báo tương lai
Với sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế, cũng như sự nhận thức của
Đảng và Nhà nước về sự phát triển chậm chạp, tụt hậu của đất nước so với các
nền kinh tế khác. Trong thời kỳ hội nhập sâu rộng, mạnh mẽ như hiện nay nếu
chúng ta không có những thay đổi từ các cơ quan quản lý về cơ chế chính sách cho
đến các cơ sở đào tạo và các DN thì sự tồn tại của các DN Việt Nam khi hội nhập,
cạnh tranh với các DN trong cùng khu vực hay trên thế giới là rất khó khăn. Cạnh
tranh lao động trong đó có chất lượng nguồn nhân lực có yếu tố quyết định. Chính
378
- người lao động cũng sẽ phải cạnh tranh với các lao động từ nước ngoài đến Việt
Nam làm việc.
Nhà nước vẫn tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ thuận lợi cho DN
hoạt động trên các lĩnh vực, các Bộ, ban ngành cũng đang thay đổi mạnh mẽ theo
hướng phát triển tốt hơn, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau từ công tác thống kê, dự báo
nhu cầu đến tổ chức đào tạo theo địa chỉ, nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo sát
với thực tế sản xuất của DN hơn, hợp tác chặt chẽ với DN để đào tạo và tuyển dụng
sinh viên sau khi tốt nghiệp.
2. Giải pháp
2.1. Giải pháp 1: Đổi mới quản lý nhà nước để khuyến khích doanh nghiệp
tham gia đào tạo GDNN
Nhà nước tạo cơ chế khuyến khích và quy định mức độ DN phải tham gia
hoạt động GDNN, với các quy định về tổ chức, tài chính, thuế, phúc lợi xã hội
nhằm khuyến khích DN thành lập bộ phận đào tạo, cử cán bộ phụ trách và tham
gia đào tạo có đầy đủ các chế độ để tổ chức, cá nhân tích cực tham gia.
Đưa ra một số giải pháp thúc đẩy sự gắn kết bền vững giữa nhà trường với
DN, đầu tiên cần đổi mới và tăng cường công tác quản lý nhà nước để định hướng,
khuyến khích và hỗ trợ sự gắn kết bền vững giữa nhà trường và DN.
Nhà nước cần có chính sách, cơ chế phối hợp chặt chẽ về nguồn nhân lực
giữa nhà trường và DN. Tăng quyền tự chủ cho nhà trường, chủ động về quy mô
đào tạo, hình thức tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo, thu chi nguồn tài
chính.
Đồng thời, khuyến khích cạnh tranh giữa các cơ sở đào tạo để tăng động lực
phát triển giữa các nhà trường với nhau về chất lượng sản phẩm đào tạo, uy tín
cũng như hình ảnh, thương hiệu.
2.2. Giải pháp 2: Gắn kết với DN trong việc xây dựng chương trình đào tạo
Để nâng cao năng lực đào tạo, xây dựng chuẩn đầu ra cho người học, nhà
trường cần tham khảo nhu cầu của thị trường và DN. Từ đó, nhà trường xây dựng
chương trình giảng dạy cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, của từng giai đoạn
phát triển, đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại.
Nhà trường cần thực hiện tốt phương châm đào tạo những gì xã hội cần chứ
không đào tạo những gì nhà trường có. Vì vậy, chương trình đào tạo, nội dung,
phương pháp, giáo trình, tài liệu, cách kết nối của các trường phải thay đổi phù
hợp với thực tế sản xuất của DN.
Các trường dần không phải là nơi có chương trình đào tạo ở các chuyên
379
- ngành, mà trở thành nơi người học thu nhận, rèn luyện kiến thức, sau đó người
học bước ra môi trường làm việc cạnh tranh. Cá nhân người học tự quyết định, tự
cảm nhận, đó là cách học của tương lai.
Giáo dục bản chất là dịch vụ cung cấp nhân lực, sản phẩm tốt, nhà trường
sẽ mạnh lên và ngược lại. Động lực để phát triển mối quan hệ gắn kết giữa nhà
trường và DN đều tuân theo quy luật thị trường.
2.3. Giải pháp 3: Doanh nghiệp tạo điều kiện tiếp nhận các giảng viên, sinh
viên tham gia học tập, trao đổi kinh nghiệm
Đẩy mạnh mô hình hợp tác thông qua gắn kết việc điều hành nhân sự và
tham gia quá trình đào tạo bằng cách ưu tiên tuyển dụng những giảng viên có kinh
nghiệm làm việc trong các DN, xây dựng tiêu chuẩn đứng lớp đối với giảng viên
như căn cứ vào trình độ chuyên môn, chuyên ngành, kinh nghiệm thực tế.
Tùy thuộc học phần mà DN có sự phân công và lựa chọn giảng viên cho
phù hợp. DN tham gia đào tạo bằng cách góp ý kiến về xây dựng, đánh giá và cải
tiến chương trình đào tạo thông qua việc cung cấp thông tin, phản biện nội dung
chương trình đào tạo, qua đó nhà trường có thể chỉnh sửa cho phù hợp với thực tế.
DN cử các chuyên gia, kỹ sư, tham gia trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn thực
hành. Ngoài ra, các DN cũng cần tạo điều kiện tiếp nhận các giảng viên, cán bộ
quản lý đến DN học tập kinh nghiệm, trao đổi những vấn đề giữa chương trình
đào tạo và yêu cầu của thực tế.
Trong và sau quá trình đào tạo cần kiểm tra chặt chẽ, sâu sát chất lượng của
sinh viên qua việc thực hiện phương pháp đánh giá từ bên ngoài (người sử dụng
lao động) kết hợp với đánh giá bên trong (nhà trường).
2.4. Giải pháp 4: Đẩy mạnh hợp tác NCKH và thương mại hóa các kết quả
nghiên cứu
Mục đích của hình thức hợp tác này nhằm hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu
của nhà trường, thực hiện các dự án liên kết mà nhà trường và các DN cùng tiến
hành. Các trường có thể tìm kiếm sự hợp tác này bằng cách chủ động giới thiệu
với các DN những chương trình nghiên cứu có khả năng đem lại lợi ích trực tiếp
cho các DN.
Từ những kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, hai bên
cùng công bố các phát minh, đồng sở hữu và khai thác danh mục, các bằng sáng
chế, bản quyền.
3. Đề xuất, kiến nghị
3.1. Khuyến nghị 1
380
- Đổi mới và tăng cường công tác quản lý của nhà nước trong việc xây dựng
mối gắn kết bền vững giữa nhà trường và DN.
Nhà nước cần có chính sách, cơ chế phối hợp chặt chẽ về nguồn nhân lực
giữa NT và DN, Nhà nước cần có tổng hợp, thống kê số liệu, dự báo nhu cầu lao
động hàng năm từ nhu cầu của DN để Nhà trường cùng DN tổ chức đào tạo.
Nhà nước và DN cùng thống nhất, việc sử dụng nguồn nhân lực phải được
qua đào tạo GDNN trước khi thực hiện làm việc tại DN. Đặc biệt khối các DN
tư nhân. Đồng thời Nhà nước cũng giám sát chặt chẽ công tác sử dụng nguồn
nhân lực phải được qua đào tạo GDNN, cũng như các cơ quan liên quan khác cần
nghiêm minh trong quản lý hoạt động của các DN.
Nhà nước xây dựng cơ chế hỗ trợ về tài chính, thuế đối với các khoản chi phí
mà DN dành cho thực hiện đào tạo. Hay như DN hàng năm được phép trích một
khoản từ doanh thu để thực hiện chi phí cho công tác đào tạo, cho cán bộ tham gia
các hoạt động liên quan đến đào tạo.
Có cơ chế quản lý, giám sát hoạt động đào tạo GDNN trong mối quan hệ
giữa ba bên: Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp. Nhà nước và DN hỗ trợ tài
chính, cơ sở trang thiết bị nơi thực hành, thực tập, cán bộ kỹ thuật tham gia đào
tạo và đánh giá kiểm định chất lượng đầu ra. Nhà trường và DN phối hợp thực
hiện đào tạo.
3.2. Khuyến nghị 2
Nhà trường cần xây dựng bộ phận có trách nhiệm xúc tiến các mối quan hệ
với DN, liên tục kịp thời đáp ứng các yêu cầu về đào tạo hiện tại và trong tương lai
của DN. Chắp nối và thúc đẩy các mối quan hệ giữa nhà trường và DN cùng tham
gia công tác đào tạo GDNN.
Gắn kết với DN trong việc xây dựng chương trình đào tạo. nhà trường cần
phải tự mình nâng cao năng lực đào tạo, xây dựng chuẩn đầu ra cho người học cần
có sự tham khảo nhu cầu thị trường và DN. Từ sự tham khảo nhu cầu thị trường
và DN, nhà trường xây dựng khung chương trình giảng dạy, biên soạn và cải tiến
giáo trình giảng dạy cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và yêu cầu của từng
giai đoạn phát triển. nhà trường cần thực hiện tốt phương châm đào tạo những gì
xã hội cần chứ không đào tạo những gì nhà trường có, đào tạo lấy người học làm
trung tâm. Bên cạnh việc đào tạo theo nhu cầu của DN thì nhà trường cần phải
đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại của chương trình đào tạo, phải đào tạo ra những
con người có khả năng học tập suốt đời. Ngoài ra, từ việc trưng cầu ý kiến của DN,
nhà trường có thể nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo và mở các ngành đào
tạo phù hợp với nhu cầu của DN.
381
- Hình dưới là hình ảnh giảng viên Trường Cao đẳng Viglacera phối hợp cùng
cán bộ kỹ thuật Công ty Sứ Viglacera Bình Dường trao đổi thống nhất nội dung
chương trình đào tạo tại hiện trường sản xuất.
Kiểm tra chặt chẽ, sâu sát chất lượng của sinh viên, thực hiện phương pháp
đánh giá từ bên ngoài (người sử dụng lao động) kết hợp với đánh giá bên trong
(nhà trường).
Thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục, bằng việc liên kết về tài chính
và cơ sở vật chất, tạo điều kiện cho đội ngũ doanh nhân trực tiếp tham gia giảng
dạy. Gắn kết việc điều hành nhân sự và tham gia quá trình đào tạo bằng cách ưu
tiên tuyển dụng những giảng viên có kinh nghiệm làm việc trong các DN, xây
dựng tiêu chuẩn đứng lớp đối với giảng viên như căn cứ vào trình độ chuyên môn,
chuyên ngành, kinh nghiệm thực tế… Tùy thuộc học phần mà NT có sự phân công
và lựa chọn giảng viên cho phù hợp.
Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học và thương mại hóa các kết quả
nghiên cứu cũng như kết hợp trao đổi học tập thực tế sản xuất tại các DN. Sự trao
đổi giữa các giảng viên với các cán bộ kỹ thuật tại các DN nhằm nâng cao chất
lượng giảng viên cũng như công tác giảng dạy gắn liền với thực tế hoạt động sản
xuất tại các DN.
Nhà trường phối hợp với DN để tổ chức đào tạo trực tiếp trong môi trường
hoạt động sản xuất tại các DN, giúp người học được trải nghiệm nghề trên thực
tế sản xuất dưới sự đào tạo của cả Nhà trường và DN kể cả công tác đánh giá chất
lượng người học sau mỗi đợt học.
3.3. Khuyến nghị 3
DN cần có kế hoạch cụ thể và lâu dài trong việc phát triển nguồn nhân lực
cho DN, bằng nhiều cách thức khác nhau có thể là cử người đi học tại các trường,
trung tâm, đi tu nghiệp nước ngoài, mời hoặc tuyển dụng người có trình độ chuyên
môn tay nghề cao…nhưng có một cách hữu hiệu nhất là việc gắn kết chặt chẽ giữa
DN với NT trong việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Hàng năm, DN cần có
thống kê nhu cầu sử dụng lao động mới cũng như nhu cầu đào tạo lại để cơ quan
quản lý Nhà nước thống kê thông tin cho các Trường tổ chức tuyển sinh, xây dựng
chương trình và có kế hoạch đào tạo cho các DN, DN cùng tham gia đào tạo bằng
cách góp ý kiến về xây dựng, đánh giá và cải tiến chương trình đào tạo thông qua
việc cung cấp thông tin, phản biện nội dung chương trình đào tạo qua đó NT có
thể chỉnh sửa cho phù hợp với thực tế.
DN hỗ trợ tài chính cũng như cơ sở vật chất bằng các hình thức như hỗ trợ
học bổng cho sinh viên, ký kết các hợp đồng tư vấn, nghiên cứu khoa học. Mặt
khác, DN có thể hỗ trợ tài chính cho NT bằng việc thành lập các công ty, khu công
nghệ, khu thực hành, giảng đường, phòng thí nghiệm trang thiết bị cho giảng dạy
382
- và học tập. DN cử các chuyên viên, chuyên gia, kỹ sư, công nhân lành nghề tham
gia trực tiếp giảng dạy hoặc hướng dẫn thực hành tại NT hoặc tại DN. Ngoài ra,
các DN cũng cần có thiện chí và tạo điều kiện tiếp nhận các giảng viên, cán bộ
quản lý đến DN học tập, học hỏi kinh nghiệm hoặc trao đổi những vướng mắc
giữa chương trình đào tạo và yêu cầu của thực tế.
4. Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường phát triển, VN ngày càng phát triển và hội nhập
sâu rộng trong khu vực và trên thế giới, thì mối gắn kết giữa nhà trường và DN là
rất quan trọng, xuất phát từ yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, quy luật cung
cầu, đảm bảo hài hòa lợi ích từ ba bên: Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp.
Có thể khẳng định rằng mối gắn kết bền vững giữa nhà trường và DN có vị trí
đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm đào tạo
của nhà trường, đồng thời là nguồn nhân lực chất lượng đầu vào của DN. Vì vậy,
xây dựng và củng cố mối gắn kết bền vững giữa nhà trường và DN trong việc phát
triển nguồn nhân lực là yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ bắt buộc và là đòi hỏi của xã
hội. nhà trường và DN cần phải có những giải pháp đồng bộ và tối ưu nhằm xây
dựng và phát triển mối gắn kết bền vững này.
Cơ quan quản lý Nhà nước cần có chế độ, cơ chế, chính sách về tài chính,
thuế hỗ trợ khi DN và cán bộ của DN tham gia cùng nhà trường trong công tác
phối hợp, thực hiện đào tạo GDNN để mang lại lợi cho cả ba bên Doanh nghiệp -
Nhà trường – Nhà Nước. Tạo được sự tham gia tích cực, chủ động, có trách nhiệm
của các DN. Sự gắn kết của nhà trường và DN với sự thúc đẩy, khuyến khích của
Nhà nước, sẽ giúp công tác đào tạo GDNN chung của toàn xã hội tạo ra được lực
lượng lao động có chất lượng tốt góp phần thu hẹp khoảng cách về năng suất lao
động của chúng ta so với khu vực và trên thế giới cũng như thực hiện thành công
nền kinh tế công nghiệp trong tương lai./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội. (2014). Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014
2. Vũ Anh, http://www.academia.edu Gắn kết Nhà trường và DN.
3. Vũ Đình Luận, Giáo dục và đào tạo tháng 05-06/2015.
4. http://laodongthudo.vn - Gắn kết đào tạo nhà trường - Doanh nghiệp chưa hiệu quả: Giải
pháp nào để thực hiện?
5. https://giaoducthoidai.vn - Giải pháp tạo gắn kết bền vững giữa nhà trường và Doanh nghiệp.
383
nguon tai.lieu . vn