Xem mẫu

  1. Chính sách đào tạo giáo chức tiểu học ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 Nguyễn Kim Dung1 1 Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Email: nguyenkimdung1987@gmail.com Nhận ngày 6 tháng 7 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 10 năm 2019. Tóm tắt: Chính sách đào tạo giáo chức tiểu học ở miền Nam giai đoạn 1954-1965 chỉ kế thừa và tiếp tục nền tảng đã có từ thời kỳ trước. Thành công của giai đoạn này chính là hình thành được triết lý giáo dục (nền tảng quan trọng đối với bất cứ nền giáo dục nào). Giai đoạn 1965-1975, nhận thức vai trò then chốt của giáo chức đối với cải tổ giáo dục, Bộ Giáo dục Sài Gòn đã có chính sách bài bản, cụ thể và kiểm soát chặt chẽ hơn việc đào tạo giáo chức tiểu học. Mặc dù còn tồn tại không ít hạn chế, song chính sách đào tạo giáo chức tiểu học tại miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 cũng đạt được những thành tựu nhất định và có giá trị tham khảo cho công tác đào tạo giáo viên tiểu học ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Chính sách đào tạo, giáo chức tiểu học, miền Nam Việt Nam. Phân loại ngành: Giáo dục học Abstract: The policy of training teachers of primary schools in Southern Vietnam in the period of 1954-1965 only inherited and continued the foundation which had been in existence from the previous period. The success of the period was in the formation of an educational philosophy, which is the important foundation for any educational system. In the period of 1965-1975, aware of the key role of teachers in educational reform, the Saigon Ministry of Education carried out a thorough and specific policy, controlling more strictly the training of teachers of primary schools. Although there were many limitations, the policy of training the teachers in Southern Vietnam made certain achievements during the time from 1954 to 1975 and bear the values of references for the training of teachers of primary schools in Vietnam today. Keywords: Training policy, teachers of primary schools, Southern Vietnam. Subject classification: Educational science 110
  2. Nguyễn Kim Dung 1. Mở đầu tiểu học. Tất cả những cải tổ tốt đẹp hay thoái hóa, thành công hay thất bại, đều tùy Trong 21 năm (1954-1975), giáo dục tiểu thuộc ở Sư phạm Tiểu học, vì việc đào tạo học miền Nam đã trải qua hai giai đoạn với nhân sự để thi hành các sự cải tổ có tầm sự chuyển đổi căn bản về mô hình giáo dục. quan trọng cả trong đoản kỳ lẫn trường Giai đoạn 1954-1965 là giáo dục tiểu học kỳ” [5]. Đào tạo giáo chức tiểu học là truyền thống (theo mô hình giáo dục Pháp), điểm nổi bật trong nền giáo dục miền duy trì trên nền tảng của nền giáo dục tiểu Nam Việt Nam thời chính quyền Sài Gòn học được xây dựng từ thời Pháp thuộc, (1954-1975). Bài viết bàn về chính sách được củng cố vào thời Quốc gia Việt Nam; đào tạo giáo chức tiểu học tại miền Nam giai đoạn 1965-1975 đề cao hai yếu tố cơ Việt Nam giai đoạn 1954-1975. bản là giáo dục đại chúng và giáo dục thực dụng2 [21, tr.15-16]. Ngoài ra, Bộ Giáo dục Sài Gòn cũng áp dụng mô hình giáo dục 2. Chính sách đào tạo giáo chức tiểu tiểu học Mỹ vào hoàn cảnh Việt Nam, trên học miền Nam Việt Nam giai đoạn cơ sở đúc rút kinh nghiệm và tiếp thu các 1954-19653 yếu tố tiến bộ của nền giáo dục khác, như nền giáo dục của Nhật Bản [21, tr.65-81]. Trong những năm đầu tiên của giai đoạn Việc đào tạo giáo chức tiểu học phải tuân này, Bộ Giáo dục chưa thực sự chú trọng thủ những nguyên tắc căn bản của nền đến đào tạo giáo chức tiểu học. Việc đào giáo dục, đó là ba tôn chỉ đã được ấn định tạo giáo chức tiểu học vẫn theo quan niệm trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa năm của giáo dục truyền thống. Đó là đường lối 1967: Dân tộc, Nhân bản, Khai phóng giáo dục, thiếu phương pháp sư phạm; việc [22, tr.5]. thi cử trở thành một cực hình đối với học Đào tạo giáo chức tiểu học phải đáp ứng sinh, không chú trọng vào việc dạy nghề và mục tiêu của nền giáo dục tiểu học: “Chú hướng nghiệp. Trong buổi đầu xây dựng trọng đặc biệt đến việc giúp trẻ em: phát nền móng cho nền giáo dục mới, các nhà triển về thể chất cũng như về tinh thần, giáo dục miền Nam đã chú ý giải quyết thấm nhuần những điều cơ bản về đức dục được một số vấn đề cốt lõi của nền giáo dục và công dân giáo dục. Thâu thập những quốc dân như triết lý giáo dục, mục tiêu kiến thức và kỹ năng sơ đẳng thiết yếu cho giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo sự phát triển cá nhân cũng như đời sống khoa và phương tiện học tập, vai trò của hàng ngày của gia đình và sinh hoạt bình nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị thường của cộng đồng, xã hội. Có khả năng trường học, đánh giá kết quả học tập và tổ tiếp tục học hỏi thêm mãi hoặc theo đuổi chức quản trị. Trong số những vấn đề cốt cấp II phổ thông hoặc theo học các trường lõi nêu trên thì triết lý giáo dục có lẽ đóng chuyên nghiệp, hay tự học” [19]. vai trò quan trọng bậc nhất, vì đó là yếu tố Tăng cường giáo chức tiểu học về cả khởi đầu quyết định đường lối cùng sự chất lượng và số lượng là yêu cầu cấp thiết thành bại của cả một nền giáo dục. đối với hiện tại và tương lai của cả nền giáo Thành công của nền giáo dục giai đoạn dục. Bộ Giáo dục Sài Gòn khẳng định: này chính là xác định rõ được triết lý giáo “Nền giáo dục là một cái cây mà tiểu học là dục. Đại hội Giáo dục Quốc gia lần I năm cái rễ. Sư phạm Tiểu học có thể được coi 1958, quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, là chìa khóa của sự phát triển giáo dục thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện quân đội, 111
  3. Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2019 chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại cửa tiếp đón những trào lưu tư tưởng hay diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ của thế giới, những tinh hoa văn hóa của tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ nhân loại. Tinh thần khoa học chính xác đã thuật... đã chính thức đưa ra ba nguyên tắc: đem tính chất khai phóng đến cho nền giáo (1) Nhân bản (nền giáo dục Việt Nam phải dục ta. Chính nó đã khiến ta thâu thái được là một nền giáo dục nhân bản, tôn trọng giá óc dân chủ rộng rãi của Tây phương, ý thức trị thiêng liêng của con người, lấy chính con được quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do người làm cứu cánh, và như vậy, nhằm mục của con người...” [23]. đích phát triển toàn diện con người; (2) Dân Mặc dù đề ra những triết lý giáo dục tộc (nền giáo dục Việt Nam phải là một nền mang tinh thần tiến bộ, nhưng Bộ Giáo dục giáo dục dân tộc, tôn trọng giá trị truyền Sài Gòn không đưa ra nhiều chính sách cụ thống, mật thiết liên quan với những cảnh thể, sâu sát đối với đào tạo giáo chức tiểu huống sinh hoạt như gia đình, nghề nghiệp, học, số trường Sư phạm Tiểu học rất ít ỏi, đất nước và đảm bảo hữu hiệu cho sự sinh được mở rải rác qua các năm với số lượng tồn, phát triển của quốc gia dân tộc); (3) giáo sinh được đào tạo rất hạn chế. Đến Khai phóng (nền giáo dục Việt Nam phải năm 1965, toàn miền Nam chỉ có 5 Trường có tính cách khai phóng, tôn trọng tinh Sư phạm là: Trường Sư phạm Saigon thần khoa học, phát huy tinh thần dân chủ (thành lập năm 1955), Trường Sư phạm và xã hội, tinh hoa các nền văn hóa thế Long An (thành lập năm 1956), Trường Sư giới). Ba nguyên tắc này dùng làm nền phạm Banméthuot (thành lập năm 1957), tảng cho triết lý giáo dục của chính quyền Trường Sư phạm Vĩnh Long (thành lập năm miền Nam Việt Nam đã được ghi cụ thể 1961), Trường Sư phạm Quy Nhơn (thành trong tập tài liệu Những nguyên tắc căn lập năm 1963) [8]. Theo Tổng trưởng Bộ bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm Giáo dục Nguyễn Lưu Viên: “Với số 1959 [23]. Đây cũng là những nguyên tắc Trường Sư phạm trên, Bộ Giáo dục không được cụ thể hóa thành những nguyên tắc thể đào tạo đủ số giáo chức để dạy dỗ số của giáo dục tiểu học, là tiêu chí đạo đức học sinh Tiểu học ngày càng gia tăng, nhất nghề nghiệp và phNm chất chuyên môn là để thực hiện chế độ cưỡng bách giáo dục cũng như chức phận của người thầy giáo bậc tiểu học” [8]. Đến năm 1965, các đối với giáo dục tiểu học [22, tr.6-7]. Trường Sư phạm này vẫn chỉ là các Trường Đại hội Giáo dục Quốc gia lần II năm Trung cấp Chuyên nghiệp, chưa đạt ngang 1964 (gọi là Đại hội Giáo dục Toàn quốc hàng với các trường Cao đẳng Chuyên 1964) tiếp tục tái xác nhận ba nguyên tắc nghiệp [6], hằng năm chỉ cung ứng khoảng định hướng căn bản nhưng sửa lại thành: 1.000 giáo viên. nhân bản, dân tộc, khoa học. Đây là một Phần lớn các giáo chức tiểu học không điểm mới trong nhận thức nguyên tắc giáo được đào tạo tại Trường Sư phạm. Chỉ cần dục so với Đại hội lần thứ I. Nguyên tắc tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp hoặc văn khoa học nhấn mạnh: “Nền giáo dục Việt bằng tương đương hoặc Tú tài I và trải qua Nam phải tôn trọng tinh thần khoa học, dựa một khóa Sư phạm ngắn hạn hoặc đã dạy trên nền tảng khoa học, trên sự tiến bộ của Tiểu học được từ 18 tháng, thì đủ điều kiện nhân loại. Nó không thể tách rời ra khỏi ảnh dạy tiểu học [3]; thậm chí, nhiều giáo chức hưởng của văn minh thế giới. Vì tính chất Tiểu học chưa từng được trải qua một khóa chính xác, phổ biến không ranh giới của huấn luyện Sư phạm nào (con số này khá khoa học mà ta không ngần ngại mở rộng lớn, có thời điểm lên đến gần 2/3 số giáo 112
  4. Nguyễn Kim Dung chức tiểu học) [13]. Giáo viên Sơ cấp ngoại Chính sách Văn hóa Giáo dục (1972) đã ngạch, giáo viên ấp tân sinh chiếm gần 1/2 nhấn mạnh: nền giáo dục cơ bản có tính số giáo chức, chỉ tốt nghiệp tiểu học [3]; cách cưỡng bách và miễn phí phải được “Nhiều khi làm một bài tính nhân hay chia thực hiện để bảo đảm quyền được giáo dục là một điều nan giải đối với một số thầy tối thiểu của mọi công dân. Nền giáo dục cơ giáo nầy” [1, tr.23]. bản trong hiện tại gồm cấp I giáo dục phổ Chính phủ bận rộn với chiến sự, công thông và trong vòng 10 năm tới phải bao cuộc bình định, xác lập chính quyền và gồm ít nhất là cấp II giáo dục phổ thông. ngần ngại can thiệp, động chạm đến giáo Quốc gia phải áp dụng mọi biện pháp hữu dục, đặc biệt cấp Tiểu học (cấp giáo dục hiệu để chấm dứt thiếu nhi thất học và nạn nền tảng mà sự tác động của nó rất lớn, tráng niên mù chữ [24]. Đây chính là tiền vượt ra khỏi phạm vi nhà trường, đến mỗi đề để ra đời những chính sách mang tính gia đình và đến mọi tầng lớp xã hội), phần thiết thực hơn đối với đào tạo giáo chức nào động chạm đến cơ tầng hệ tư tưởng tiểu học. của một xã hội gần 100 năm chịu ảnh Về tổ chức, để hoàn thiện hệ thống Sư hưởng mạnh của nền văn hóa - giáo dục phạm Tiểu học và huấn luyện giáo chức, Pháp. Chiến tranh khiến những khiếm Bộ Giáo dục Sài Gòn thành lập Nha Sư khuyết của đội ngũ giáo chức khó được phạm, Tu nghiệp và Giáo dục Tráng niên. khắc phục. Trong giai đoạn đầu tiên của Nha này được tổ chức theo Nghị định số nền giáo dục (1945-1960), đã có 1.662 1692-GD/PC/NĐ ngày 6-12-1965 và bắt trường các loại ở miền Nam bị đốt phá do đầu hoạt động từ 3/2/1966 [7]. Đây là cơ chiến tranh [20, tr.55]. quan giáo dục có tính chất chuyên môn, quản lý hoạt động của ngành Sư phạm Tiểu học: “Nha Sư phạm đảm trách một 3. Chính sách đào tạo giáo chức tiểu học vai trò quan trọng trong việc xây dựng và miền Nam Việt Nam giai đoạn 1965-1975 cải thiện ngành giáo dục bậc tiểu học, một ngành căn bản của nền giáo dục Quốc Từ năm 1965, tất cả các trường tiểu học gia” [7]. miền Nam được chuyển thành tiểu học cộng Năm 1970, Nha Sư phạm, Tu nghiệp và đồng, mở đầu cuộc cải tổ toàn bộ nền giáo Giáo dục tráng niên gồm 15 trường Sư dục. Nhận thức vai trò then chốt của giáo phạm đào tạo Giáo học Bổ túc4: Trường Sư chức đối với cải tổ, Bộ Giáo dục đã có phạm Saigon5, Trường Sư phạm Long An, chính sách bài bản, cụ thể và kiểm soát chặt Trường Sư phạm Vĩnh Long, Trường Sư chẽ hơn việc đào tạo giáo chức tiểu học. phạm Quy Nhơn, Trường Sư phạm Huế Tiếp thu những thành quả đã đạt được trong (thành lập từ niên học 1969-1970), Trường hai kì Đại hội Giáo dục Quốc gia (1958 và Sư phạm Long Xuyên (thành lập từ niên 1964), Điều 11, Hiến pháp Việt Nam Cộng học 1969-1970), Trường Sư phạm Mỹ Tho hoà 1967 ghi rõ: “Văn hóa giáo dục phải (thành lập từ niên học 1969-1970), Trường được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản Sư phạm Nha Trang, Trường Sư phạm dân tộc, khoa học và nhân bản” [23]. Ngoài Đalat, Trường Sư phạm Sóc Trăng, Trường ra, Hiến pháp Việt Nam Cộng hoà cũng ghi Sư phạm Cần Thơ, Trường Sư phạm Phước rõ về việc chú trọng đều tư cho giáo dục: Tuy (5 trường này được mở từ niên khóa “Một ngân sách thích đáng phải được dành 1970-1971), Trường Sư phạm Tây Ninh, cho việc phát triển văn hóa giáo dục” [23]. Trường Sư phạm Đà Nẵng (2 trường này 113
  5. Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2019 chính thức mở từ niên học 1972-1973), Những nỗ lực nâng cấp Trường Sư phạm Trường Sư phạm Bổ túc Banméthuot (tách của Bộ Giáo dục đã đạt được kết quả nhất ra từ lớp Sư phạm Bổ túc đặt tại Trường Sư định. Theo Giám đốc Nha Huấn luyện và phạm Cao nguyên) và Trường Sư phạm Tu nghiệp Nguyễn Quý Bổng: “Kể từ niên Cao nguyên đặt tại Ban Mê Thuật đào tạo khóa 1973-1974, trên thực tế các Trường Giáo viên Tiểu học [8]. Các trường này Sư phạm có thể sánh ngang hàng các Đại được xếp vào Trường Chuyên nghiệp Đệ II học chuyên nghiệp Trung cấp và Đại học cấp [17]. Cộng đồng hiện có trong xứ…” [13]. Trên đà phát triển của bậc tiểu học và “Ngoại trừ trường Sư phạm Cao nguyên nhu cầu đào tạo giáo chức, năm 1975, Bộ đào tạo giáo chức sắc tộc” [13]. Tuy nhiên, Giáo dục Sài Gòn thiết lập một Viện Quốc đến năm 1974, vẫn chưa có một văn bản gia Sư phạm Tiểu học, để thay thế Nha Sư pháp lý nào được ban hành để xác nhận tình phạm đã bị bãi bỏ sau cải cách giáo dục trạng này [13]. năm 1974, có nhiệm vụ quản trị các trường Trên cơ sở chất lượng Trường Sư phạm Đại học Sư phạm Tiểu học trên toàn quốc, được nâng cao, năm 1974, Bộ Văn hóa tu nghiệp giáo chức Tiểu học, huấn luyện Giáo dục và Thanh niên đề ra Chương trình giáo sư Sư phạm, nghiên cứu về thiếu nhi đặc biệt trong năm 1975 thực hiện Biến cải Việt Nam, đặt cơ sở căn bản cho việc thành 15 Trường Sư phạm Bổ túc thành trường lập Viện Sư phạm Quốc gia trong tương Cao đẳng Sư phạm Tiểu học với tổng kinh lai… [13]. phí lên đến 181.813.510 đồng, tương đương Năm 1965, Bộ Văn hóa Giáo dục ban 259.734 USD, một khoản kinh phí rất lớn hành bộ Nội quy các Trường Sư phạm quy lúc đó [11]. chế tổ chức, chương trình, nội dung, Cuối năm 1974, Bộ Giáo dục chủ trương phương pháp, chất lượng đào tạo và thống xây dựng tại mỗi Trường Sư phạm một nhất hoạt động đào tạo giáo chức tiểu học trường Tiểu học Thực hành, vừa làm nhiệm trong toàn miền [12]. vụ giáo dục Tiểu học vừa làm điểm thực Từ năm 1968, trừ Trường Sư phạm Cao hành sư phạm cho các giáo sinh trước khi ra nguyên Ban Mê Thuột, có trình độ Trung nghề thành các giáo viên thực thụ. Điểm cấp Chuyên nghiệp, các Trường Sư phạm đặc biệt của các trường tiểu học này là chất khác đều có trình độ Cao đẳng Chuyên lượng giáo dục đảm bảo và thường xuyên nghiệp, thâu nhận giáo sinh bằng Tú tài I và cập nhật các phương pháp giáo dục mới Tú Tài II, hạn học 2 năm. Năm 1973, dù [14]. Trước đó, trực thuộc Nha Sư phạm đã giáo chức Tiểu học vẫn luôn thiếu hụt trầm có 3 trường Sư phạm Thực hành Sai gon, trọng nhưng Bộ Giáo dục không hạ tiêu Long An và Quy Nhơn [7], các trường sư chuNn và tăng số lượng giáo sinh để bù đắp, phạm khác không có trường sư phạm thực mà quyết định nâng trình độ tuyển sinh vào hành đặt tại trường thì đều mượn trường các Trường Sư phạm lên bằng Tú tài II sở của Ty Tiểu học làm nơi thực hành cho nhằm nâng cấp các Trường Sư phạm lên giáo sinh. trình độ ngang hàng Đại học Sư phạm Tiểu Bộ Giáo dục đưa ra các nghị định, chỉ thị học [13], [15]. Lúc đó, có được bằng Tú Tài quy định thể lệ thi tuyển, số giáo sinh trúng II rất khó khăn, phải là những học sinh giỏi tuyển vào Trường Sư phạm hằng năm, thể nhất bậc Phổ thông; người có bằng Tú tài II thức soạn đề thi mãn khóa, thể thức thi và hoàn toàn đủ năng lực để đi làm một chấm tốt nghiệp, thể thức sắp hạng giáo chuyên viên trong các công sở6. sinh trúng tuyển trong kỳ thi tốt nghiệp, thể 114
  6. Nguyễn Kim Dung thức bổ dụng giáo sinh tốt nghiệp Trường Nghị định số 2463-GD/PC/NĐ, ngày 25/11/1969, Sư phạm… Đây là cách thức Bộ Giáo dục cộng đồng hóa tất cả phương pháp giảng dạy; học sinh, giáo chức, phụ huynh học sinh cũng được quản lý chặt chẽ hoạt động đào tạo tại các cộng đồng hóa [2, tr.7]. Trường Sư phạm cả về số lượng lẫn chất 3 Chúng tôi không chọn mốc năm 1969 để chia giai lượng, trong đó chất lượng giáo sinh được đoạn khi phân tích về chính sách đào tạo giáo chức đặt lên hàng đầu. bậc Tiểu học bởi vì, trên thực tế, ở bậc Tiểu học, từ năm 1965, đường lối Giáo dục cộng đồng đã được phổ biến rộng rãi và niên học 1966-1967, tất cả các 4. Kết luận trường Tiểu học trên toàn miền đều biến cải thành trường Tiểu học cộng đồng. Mốc năm 1969 có ý nghĩa trên văn bản pháp quy, được Quốc hội thừa Nhìn chung, trong bối cảnh xã hội chiến nhận và thể hiện bằng Sắc lệnh số 660-TT/SL ngày tranh bất ổn của miền Nam, đào tạo giáo 1 tháng 12 năm 1969 cải biến toàn bộ hệ thống giáo chức tiểu học chưa đạt hiệu quả mong dục phổ thông của miền Nam, quy định: Hệ thống muốn. Bậc tiểu học nói chung và trường giáo dục quốc gia bậc Trung học và bậc Tiểu học trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa được sửa đổi đào tạo giáo chức tiểu học nói riêng vẫn thành một hệ thống duy nhất và liên tục 12 lớp trong trong tình trạng chưa hoàn thiện. Trong 21 12 năm, bao gồm Tiểu học cộng đồng và Trung học năm xây dựng nền giáo dục quốc gia, Bộ Tổng hợp. Phủ Tổng thống, Sắc lệnh số 660-TT/SL Giáo dục Sài Gòn nhiều lần hô hào cải cách ngày 1 tháng 12 năm 1969 sửa đổi Sắc lệnh số 096- giáo dục. Trên bục giảng, với tâm thế của GD ngày 29 tháng 12 năm 1949 tổ chức nền học người thầy giáo, các giáo chức tiểu học chính Việt Nam, riêng về nền học phổ thông bậc Trung học và Tiểu học [18]. luôn nỗ lực từng bước sửa chữa khiếm 4 khuyết nền giáo dục và việc làm đó thực sự Giáo học Bổ túc: một đẳng cấp trong giáo chức Tiểu học, có chỉ số lương từ 380 đến 750 theo đem lại hiệu quả cao hơn là một cuộc cải Nghị định số 2823-VHGDTN/NV/HCQC/Th/NĐ cách được hô hào trên diện rộng. Chính ngày 26 tháng 11 năm 1973, sửa đổi quy chế sách đào tạo giáo chức tiểu học tại miền ngạch Giáo học cấp Bổ túc. Giáo viên Bổ túc là Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 mặc hạng có trình độ và địa vị cao nhất trong ngạch dù tồn tại không ít hạn chế, song về cơ bản giáo chức Tiểu học. Giáo viên Tiểu học: một đẳng cấp trong giáo chức Tiểu học, có chỉ số lương từ những chính sách này đã góp phần nâng 270 đến 540 [4]. cao chất lượng đội ngũ giáo chức tiểu học 5 Trường tọa lạc tại 280 đường Thành Thái, nhằm thực hiện mục tiêu và triết lý giáo Saigon. Trường bắt đầu giảng dạy vào năm 1955, mà chính quyền đặt ra. Vấn đề chất lượng mang tên Trường Quốc gia Sư phạm. Trường đào tạo, phNm cách nhà giáo ngày càng được cải đổi thành Trường Sư phạm Saigon theo được đề cao ở các giai đoạn sau. Đây cũng Nghị định số 1006-GD/PC/NĐ ngày 18/6/1962 là những gợi ý cho công tác đào tạo giáo của Bộ Giáo dục [9]. Trường Đại học Sư phạm viên tiểu học nói riêng và và giáo viên nói Saigon trực thuộc Viện Đại học Saigon, đào tạo Giáo sư Trung học Đệ I cấp và Đệ II cấp, tọa lạc chung ở Việt Nam hiện nay. tại 22 Đại lộ Cộng hòa, Saigon. 6 Để có được tấm bằng Tú tài II, bằng cấp cao nhất của bậc Phổ thông, thí sinh phải trải qua kì thi rất chật vật. Chú thích Từ năm 1970 đến năm 1972, số thí sinh đỗ Tú tài I lần lượt là 37,76%, 36,26 %, 47,2%. Đỗ Tú tài I mới được 2 Trong thông điệp trước Quốc hội lưỡng viện, thi Tú tài II. Tỷ lệ đỗ Tú tài II (1970-1972) là 62,04%, ngày 6/10/1969, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa 53,43%, 87%. Tỷ lệ này tương ứng, cao nhất, chỉ khoảng đã xác định chính sách giáo dục bậc Tiểu học là 1/3 số học sinh học hết phổ thông có thể lấy được bằng Giáo dục cộng đồng. Bộ Giáo dục cũng ban hành Tú tài II. Do đó, bằng Tú tài II rất giá trị [16]. 115
  7. Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2019 Tài liệu tham khảo [14] Hồ sơ 634: Công văn số5107/VHGDTN/TCCB của Nha Tài chánh, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên v/v thiết lập 4 trường Tiểu học [1] Nguyễn Văn Cát (1969), Vấn đề giáo viên tiểu Thực hành thuộc các Trường Sư phạm Cao học hiện nay, Luận văn tốt nghiệp, Học viện nguyên Ban Mê Thuột, Mỹ Tho, Long Xuyên và Quốc gia Hành chính. Huế, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ [2] Dương Thị Hòe (1972), Giáo dục cộng đồng Chí Minh. Việt Nam đi về đâu, Luận văn tốt nghiệp, Học [15] Hồ sơ số 637: Nghị định số 1930-GD/SP/NĐ viện Quốc gia Hành chánh. ngày 11 tháng 8 năm 1973 sửa đổi Điều 9 [3] Hồ sơ 67: Nghị định số 1073- Nghị định số 1006-GD/PC/NĐ ngày 18 tháng GDTN/QCNV/NĐ ngày 28 tháng 6 năm 6 năm 1972 tổ chức Trường Sư phạm Saigon, 1968, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Vĩnh Long và Quy Nhơn, Trung tâm Lưu trữ Hồ Chí Minh. Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh. [4] Hồ sơ số 73: Nghị định số [16] Hồ sơ 3730: Hoạt động của khối Trung Tiểu 2740/VHGDTN/NV/HCQC/Th/NĐ ngày 20 tháng 11 học trong năm 1972, Trung tâm Lưu trữ Quốc năm 1973 sửa đổi quy chế riêng ngạch Giáo viên Tiểu học, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh. gia II, Tp. Hồ Chí Minh. [5] Hồ sơ số 579: Bài thuyết trình của ông Phụ tá [17] Hồ sơ 10432: Công văn số 1123- đặc biệt Tổng trưởng Giáo dục tại trường Sư P.Th.T/PC3-5 Saigon ngày 8 tháng 4 năm phạm Saigon, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. 1972 gửi ông Tổng Giám đốc Ngân sách và Hồ Chí Minh. Ngoại viên v/v xếp các Trường Sư phạm vào [6] Hồ sơ số 604: Chương trình hoạt động của loại Trường Chuyên nghiệp Đệ II cấp, Trung Nha Sư phạm, Tu nghiệp và Giáo dục Tráng tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh. niên trong năm 1968, Trung tâm Lưu trữ Quốc [18] Hồ sơ số 30286: Sắc lệnh số 660-TT/SL ngày 1 gia II, Tp. Hồ Chí Minh. tháng 12 năm 1969 sửa đổi Sắc lệnh số 096- [7] Hồ sơ 607: Tình hình và hoạt động của Nha Sư GD ngày 29 tháng 12 năm 1949 tổ chức nền phạm, Tu nghiệp và Giáo dục tráng niên 1969- học chính Việt Nam, riêng về nền học phổ 1970, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ thông bậc Trung học và Tiểu học, Trung tâm Chí Minh. Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh. [8] Hồ sơ số 611: Nghị định số 434-GD/PC/NĐ [19] Hồ sơ số 31335: Dự thảo Luật căn bản về Văn ngày 9 tháng 3 năm 1970, Trung tâm Lưu trữ hóa Giáo dục, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh. Tp. Hồ Chí Minh. [9] Hồ sơ số 619: Nghị định số 1006- [20] Vương Pển Liêm (1966), Giáo dục cộng đồng: GD/PC/NĐ ngày 18 tháng 6 năm 1962 của đường lối giáo dục nhằm giải phong dân tộc Bộ Giáo dục, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ra khỏi tình trạng chậm tiến, Nxb Lá Bối, Tp. Hồ Chí Minh. Saigon, 1966, tr.55. [10] Hồ sơ số 621: Công văn số 9008/VPThTr/N [21] Nguyễn Thị Liêng (1973), Vấn đề giáo dục ngày 5 tháng 12 năm 1970 v/v Hợp thức hóa Tiểu học tại Việt Nam Cộng hòa, Luận văn tốt các Trường Sư phạm tân lập, Trung tâm Lưu nghiệp, Học viện Quốc gia Hành chánh. trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh. [22] Trần Văn Quế (1964), Sư phạm thực hành, Bộ [11] Hồ sơ 626: Chương trình đặc biệt trong năm 1975, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Văn hóa Giáo dục, Sài Gòn. Chí Minh. [23] https://sites.google.com/site/ [12] Hồ sơ số 627: Nội quy các Trường Sư phạm namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/s-t-u-v/ thi hành từ ngày 16 tháng 1 năm 1965, Trung tran-van-chanh/giao-duc-mien-nam-viet-nam- tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh. 1954-1975-tren-con-duong-xay-dung-va-phat- [13] Hồ sơ 630: Tờ trình của Nha Huấn luyện và Tu trien nghiệp đề nghị thành lập Viện Quốc gia Sư phạm [24] https://vietbooks.info/threads/chinh-sach-van- Tiểu học ngày 14 tháng 8 năm 1974, Trung tâm hoa-giao-duc-nxb-sai-gon-1972-bo-van-hoa- Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh. 74-trang.15302/ 116
  8. Nguyễn Kim Dung 117
nguon tai.lieu . vn