Xem mẫu
- HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2022-0013
Social Sciences, 2022, Volume 67, Issue 1, pp. 119-127
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU THANH ĐỐI VỚI TRIỀU TIÊN
TRONG HAI THẬP NIÊN CUỐI THẾ KỈ XIX
Đỗ Tiến Quân
Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Hùng Vương
Tóm tắt. Năm 1879, sau khi sát nhập Lưu Cầu, Nhật Bản uy hiếp trực tiếp đến an ninh của
Triều Tiên và quan hệ tông phiên giữa Triều Thanh và Triều Tiên. Lúc này, các cường quốc
như Mỹ, Anh, Pháp, Đức… cũng muốn mở toanh cánh cửa thông thương với Triều Tiên.
Nhằm duy trì trật tự tông phiên truyền thống, đảm bảo an ninh biên giới, triều Thanh đã
thực hiện chính sách can dự tích cực, chính sách này có ảnh hướng lớn đến cục diện chính
trị Đông Bắc Á thời bấy giờ.
Từ khóa: chính sách, triều Thanh, Triều Tiên, tông phiên.
1. Mở đầu
Từ binh biến Nhâm Ngọ (1882) đến trước chiến tranh Giáp Ngọ (1894), Trung Quốc thực
hiện chính sách mới đối với Triều Tiên. Quá trình thực hiện và diễn biến của chính sách này là
một chương rất quan trọng trong lịch sử quan hệ ngoại giao Trung Quốc thời cận đại, là nhân tố
quan trọng trong sự phát triển của tình hình chính trị tại Triều Tiên nói riêng và quan hệ giữa
Trung Quốc, Triều Tiên với các cường quốc nói chung.
Về các nghiên cứu hữu quan, có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu sau:
Đối với lập trường của triều Thanh những năm cuối thế kỉ XIX, Kim Cơ Hách cho rằng,
thái độ của triều Thanh đối với Triều Tiên những năm cuối thế kỉ XIX có sự thay đổi nhất định
qua từng thời kì, thời gian đầu là hợp tác với các nước lớn, kiềm chế Nhật Bản (1870-1874), sau
đó là tạo thế cân bằng tại Triều Tiên (1879-1882), cuối cùng là quyết đấu với Nhật Bản tại Triều
Tiên [1].
Về quan hệ tông phiên giữa Trung Quốc và Triều Tiên, Kim Tại Thiện cho rằng, quan hệ
này có lịch sử lâu đời, nhưng đến chiến tranh Giáp Ngọ giữa hai nước Trung-Nhật, quan hệ này
bị uy hiếp nghiêm trọng, và bị xóa bỏ hoàn toàn sau cuộc chiến này [2, tr 126]
Về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Triều Tiên đối với các nước, Đỗ Tiến Quân cho rằng,
là một quốc gia có vị trí chiến lược trong khu vực, Triều Tiên trở thành đối tượng để các cường
quốc tranh chấp, giành ảnh hưởng và quyền khống chế một cách quyết liệt. Việc tranh chấp này
xuyên suốt lịch sử cục diện chính trị Đông Bắc Á thời kì cuối thế kỉ XIX [3, tr 3].
Nguyễn Phương Mai cũng cho rằng, Triều Tiên với vị trí địa chiến lược quan trọng ở khu
vực Đông Bắc Á chính là mục tiêu sống còn của Nhật Bản, vì thế, chính sách đối ngoại xâm
lược Triều Tiên mà chính quyền Minh Trị thực hiện là một điều mang tính tất yếu [4, tr 75].
Về quan hệ Trung-Triều trong thời cổ đại và cận đại, Đỗ Tiến Quân [5, tr 50] chỉ ra, mối
quan hệ ngoại giao hai nước Trung-Triều mang nhiều nét đặc thù riêng, tư tưởng, văn hóa, chế
Ngày nhận bài: 2/1/2022. Ngày sửa bài: 29/1/2022. Ngày nhận đăng: 10/2/2022.
Tác giả liên hệ: Đỗ Tiến Quân. Địa chỉ e-mail: quandovn@yahoo.com
119
- Đỗ Tiến Quân
độ chính trị của vương triều Triều Tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của Trung Quốc.
Như vậy, có thể thấy, các nghiên cứu cũng đã có đề cập đến quan hệ Trung-Triều những
năm cuối thế kỉ XIX ở một mức độ và khía cạnh nhất định. Các nghiên cứu trên vẫn chưa đi sâu
nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể vể chính sách của triều Thanh theo góc nhìn chủ nghĩa
quốc tế, hoặc chưa có những phân tích cụ thể, chi tiết trên cơ sở sử liệu tổng hợp. Do đó, trên cơ
sở nghiên cứu chính sách can dự của Trung Quốc trong quan hệ với Triều Tiên và các cường
quốc thời Thanh, bài viết đưa ra một cách nhìn chi tiết hơn về bối cảnh, mục đích, diễn biến và
kết quả của chính sách này trong hai thập niên cuối thế kỉ XIX. Đây cũng là đóng góp mới của
bài viết đối với công tác nghiên cứu ngoại giao khu vực Đông Bắc Á thời cận đại.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Bối cảnh và mục đích thực hiện chính sách mới của Trung Quốc đối với
Triều Tiên
Sau khi triều Minh diệt vong, triều Thanh thành lập, Trung Quốc và Triều Tiên tiếp tục
thực hiện giữ mối quan hệ đặc thù được thể hiện qua chế độ tông phiên, triều cống truyền thống.
Điều kiện cơ bản của chế độ tông phiên là, các nước phiên thuộc tôn trọng lễ nghi, nạp cống
phẩm, nhận sắc phong của Trung Quốc; là nước tông chủ, Trung Quốc không thao túng hoặc
can thiệp vào công việc nội bộ và ngoại giao của nước phiên thuộc. Do đó về cơ bản, các nước
phiên thuộc độc lập hoàn toàn về mọi mặt, điều này cũng khác hoàn toàn với quy định của Công
pháp Quốc tế về vùng thuộc địa và các nước thuộc quốc. Thế nhưng, từ giữa thế kỉ XIX, do các
cường quốc Châu Âu thực hiện chính sách “ngoại giao pháo hạm”, chính trường quốc tế và khu
vực có nhiều biến động hết sức phức tạp, đặc biệt là sự thành lập của đảng Tiến Bộ và phong
trào độc lập do đảng này phát động tại Triều Tiên, triều đình nhà Thanh không thể không thay
đổi chính sách nhằm tiếp tục duy trì và tăng cường vị thế tông chủ của mình đối với Triều Tiên.
Ngoài ra, vấn đề Lưu Cầu cũng là nhân tố quan trọng thúc đẩy nhà Thanh thay đổi chính
sách đối với Triều Tiên. Sự thay đổi đó được bắt đầu từ năm 1879, khi Nhật Bản chính thức sát
nhập quần đảo Lưu Cầu, đây cũng là lúc Pháp xâm lược Việt Nam và có nguy cơ uy hiếp đến
biên giới phía Nam Trung Quốc. Đồng thời, Nga cũng đang chuẩn bị dùng vũ lực để giải quyết
tranh chấp vùng Yili, uy hiếp Trung Quốc từ phía tây bắc. Vì thế khi Nhật Bản sát nhập Lưu
Cầu, trong nội bộ triều Thanh có sự tranh luận gay gắt về đối sách với tình hình mới này. Phụ
trách phòng vệ phía nam, Tuần phủ Phúc Kiến Đinh Nhật Xương và Công sứ Trung Quốc tại
Đông Kinh (Tokyo ngày nay) cho rằng, nên mở cửa thị trường Triều Tiên, kí kết hiệp ước thông
thương với các nước châu Âu, từ đó kiềm chế sự xâm lược, uy hiếp của Nhật Bản và Nga đối
với Triều Tiên [6, tr 31-32]. Tổng đốc Lưỡng Giang Lưu Khôn cũng cho rằng, Triều Tiên phải
kí kết hiệp ước hợp tác hữu nghị với các cường quốc phương Tây, nhằm tránh sự dòm ngó của
Nhật Bản và Nga [7, tr 19]. Đại sứ Anh tại Trung Quốc Thomas Francis Wade cũng đưa ra kiến
nghị tương tự như vậy đối với Tổng Lý Nha môn [8, tr 31]. Triều Tiên là lá chắn cho an ninh
của Mãn Châu, Mãn Châu lại ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của Bắc Kinh, triều Thanh
nhận thức rất rõ về điều này, đồng thời cũng muốn củng cố địa vị tông chủ đối với Triều Tiên,
hi vọng dùng chính sách “dĩ Di trị Di” (dùng ngoại bang để trị ngoại bang) để kiềm chế sự bành
trướng xâm lược của Nga và Nhật Bản đối với Triều Tiên. Trong thời kì đó, triều Thanh giao
cho Lý Hồng Chương-Tổng đốc Trực lệ kiêm Bắc Dương đại thần, phụ trách hoạch định chính
sách của Trung Quốc đối với Triều Tiên. Lý Hồng Chương cũng cho rằng, Triều Tiên là tuyến
đầu trong phòng vệ của đất nước, để đảm bảo an ninh cho Triều Tiên, phương pháp tốt nhất là
giúp Triều Tiên xây dựng mối quan hệ ngoại giao và thông thương với các nước Châu Âu, tăng
cường lợi ích thương mại của các nước này tại Triều Tiên, từ đó mượn sức các nước này nhằm
kiềm chế Nga, Nhật, hình thành thế cân bằng chính trị tại Triều Tiên. Ngày 26/8/1879, Lý Hồng
Chương gửi thư cho đại nguyên lão vương triều Triều Tiên Lý Dụ Nguyên, chỉ ra dã tâm của
120
- Chính sách của triều Thanh đối với Triều Tiên trong hai thập niên cuối thế kỉ XIX
Nga, Nhật, đồng thời đề nghị Triều Tiên “lần lượt kí kết hiệp ước với Anh, Mỹ, Pháp, Đức,
nhằm kiềm chế Nhật Bản, phòng ngừa Nga” [9, tr 14-17]. Ngược lại, Lý Dụ Nguyên cho rằng,
chính sách “dĩ Di trị Di” là chiến lược ngoại giao của các nước lớn, không chắc phù hợp với
nước nhỏ yếu như Triều Tiên; trong quan hệ lợi ích với các cường quốc, chỉ có dùng Luật quốc
tế mới có thể phát huy được tác dụng, nếu không không thể thực hiện được [10, tr 273]. Lý Dụ
Nguyên cũng chỉ ra, mâu thuẫn của chính sách này nằm ở chỗ, Triều Tiên là nước nhỏ, các
cường quốc lại chỉ quan tâm đến lợi ích của họ, nên không để xảy ra xung đột lẫn nhau vì một
nước nhỏ được. Nhưng lý lẽ này không thuyết phục được Lý Hồng Chương, ông vẫn kiên trì
thuyết phục Triều Tiên mở cửa đất nước, đồng thời còn nhắc lại chuyện gần đây, trong chiến
tranh Nga và Thổ Nhĩ Kì, nhờ sự can thiệp có hiệu quả của Anh mà Thổ Nhĩ Kì tránh được kết
cục thảm bại hoàn toàn; ngoài ra còn có trường hợp của các nước nhỏ yếu tại Châu Âu như Bỉ,
Đan Mạch cũng được bảo vệ bởi các công ước quốc tế. Do đó, việc kí kết hiệp ước với Anh,
Mỹ, Đức sẽ đảm bảo tốt nhất cho an ninh cho Triều Tiên, tránh được sự xâm lược của Nga,
Nhật [11, tr 68-69].
Có thể thấy, trên cơ sở ý tưởng và thực tiễn nhất định, triều Thanh hoạch định chính sách
mới với mục đích bảo vệ Triều Tiên, khu vực có ý nghĩa quan trọng về mặt địa chính trị, chiến
lược và ngoại giao đối với Trung Quốc. Điểm mấu chốt của chính sách “cân bằng ngoại giao”
này nằm ở chỗ, Triều Tiên thực hiện triệt để việc xây dựng quan hệ điều ước với các cường
quốc Châu Âu, không cho bất kì nước nào độc chiếm Triều Tiên, từ đó hình thành một sự cân
bằng về quyền lực và lợi ích quốc tế tại Triều Tiên, đảm bảo an ninh cho Triều Tiên và duy trì
vị thế tông chủ của Trung Quốc đối với nước này.
2.2. Quá trình thực hiện và diễn biến
Từ năm 1854, sau khi kí kết hiệp ước Kanagawa với Nhật, Mỹ cũng đã có một số cuộc tiếp
xúc và đàm phán song phương với Triều Tiên, nhưng đều không đạt được thỏa thuận nào. Sự
thay đổi chỉ bắt đầu vào năm 1876, khi Nhật và Triều Tiên kí kết “Hiệp ước Giang Hoa”, theo
đó, Triều Tiên phải mở cửa cho ngoại thương Nhật Bản, đồng thời, Nhật Bản có quyền tài phán
lãnh sự trên đất Triều Tiên. Năm 1880, Mỹ phái đề đốc hải quân Robert W. Shufeldt đến Triều
Tiên nhằm đề nghị thông thương, nhưng bị từ chối. Sau đó, theo chỉ thị của chính phủ Mỹ,
Robert W. Shufeldt đề nghị Nhật Bản làm trung gian điều đình, giúp đỡ. Nhưng kế hoạch này
cuối cùng cũng thất bại. Sau khi biết tin này, lo rằng nếu Mỹ và Nhật kết thành đồng minh, sẽ
làm tổn hại đến địa vị của Trung Quốc tại Triều Tiên, uy hiếp mối quan hệ tông phiên Trung-
Triều. Triều Thanh quyết định, đẩy nhanh việc thực hiện chính sách “dĩ Di trị Di”, lợi dụng mâu
thuẫn giữa cường quốc, làm cho các nước này rơi vào tình thế kiềm chế lẫn nhau, giúp Triều
Tiên có được khoảng thời gian hồi phục sức nước trong thế cân bằng chính trị đó. Do đó, triều
Thanh đồng ý giúp đỡ Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ của nước này. Lý Hồng Chương mời Robert
W. Shufeldt đến Thiên Tân, đảm bảo với người Mỹ rằng ông sẽ hết sức ủng hộ họ để kí kết hiệp
ước với Triều Tiên [12, tr 7-10]. Robert W. Shufeldt vô cùng hài lòng, lập tức xin chỉ thị của
chính phủ để xúc tiến công việc tiếp theo. Cũng trong lúc này, tại biên giới tây bắc của Trung
Quốc, do mâu thuẫn lãnh thổ, quân đội Nga tập trung lực lượng quân đội lớn tại Vladivostok.
Xuất hiện nhiều tin đồn đoán rằng quân Nga sẽ tiến qua biên giới phía nam. Nhằm ngăn chặn ý
định này của người Nga, triều Thanh cho rằng, điều cần thiết là phải thúc đẩy Triều Tiên kí kết
hiệp ước với các cường quốc một cách nhanh chóng nhất.
Tháng 11 năm 1880, với sự nỗ lực của các quan chức triều Thanh, đặc phái viên Triều Tiên
Lý Đông Nhân đến Đông Kinh hội kiến với công sứ Trung Quốc tại Nhật Bản Hà Như Chương,
biểu thị ý nguyện muốn mở cửa đất nước và kí kết hiệp ước với các cường quốc, hi vọng triều
Thanh sẽ đứng ra làm trung gian điều đình. Trong báo cáo gửi cho Lý Hồng Chương, Hà Như
Chương cũng viết: “Khi kí kết hiệp ước với các cường quốc, nếu để cho Triều Tiên tự mình làm
việc đó, các nước khác sẽ cho rằng Triều Tiên hoàn toàn tự chủ, không còn là phiên thuộc của
121
- Đỗ Tiến Quân
Trung Quốc nữa,… điều này cần phải đề phòng”, Hà Như Chương cho rằng, “Hiện nay, Trung
Quốc cho phép Triều Tiên kí kết hiệp ước với nước ngoài, điều này không có vấn đề gì, chỉ có
điều triều đình phải thương nghị, nhanh chóng cử một quan chức tinh thông về lợi ích ngoại
giao đến Triều Tiên để chủ trì việc kí kết…”[13]. Trước yêu cầu của Triều Tiên, tháng 1 năm
1882, Lý Hồng Chương chủ trì khai mạc vòng đàm phán thông thương Mỹ-Triều. Đoàn Trung
Quốc đưa vào trong điều 1 dự thảo như sau:
Triều Tiên là thuộc quốc của Trung Quốc, nhưng công việc nội bộ, ngoại giao từ trước đến
nay đều tự chủ. Sau khi kí kết hiệp ước này, quốc vương Triều Tiên và tổng thống Mỹ đối xử
ngang hàng với nhau, nhân dân hai nước mãi mãi hữu hảo, nếu nước thứ ba đối xử không công
bằng hoặc coi thường một trong hai nước, thì hai nước phải ủng hộ bảo vệ lẫn nhau, hoặc giúp
nhau điều đình một cách có thiện ý, nhằm đảm bảo an ninh lâu dài [14, tr 105].
Như vậy, phần đầu điều khoản này nói rõ Mỹ thừa nhận quan hệ tông phiên giữa Trung
Quốc và Triều Tiên, cũng nhằm khắc chế Nhật Bản trước đây thông qua “điều ước Giang Nam”
thừa nhận Triều Tiên là nước có chủ quyền. Phần sau điều khoản này chủ yếu vận dụng tư
tưởng “dĩ Di trị Di” giống như trong “Điều ước Trung Nhật” (còn gọi là “Điều tu quy hảo
Trung-Nhật”) kí kết năm 1871. Nhưng điều khoản dự thảo này không được phía Mỹ chấp nhận.
Robert W. Shufeldt tuyên bố, nước Mỹ không đề cập quan hệ Trung-Triều như thế nào, mà sẽ kí
kết hiệp ước trên cơ sở bình đẳng với Triều Tiên. Cuối cùng, Mỹ đồng ý trong phần tuyên bố
trong phụ lục của phía Triều Tiên sẽ có phần ghi rõ Triều Tiên là phiên thuộc của Trung Quốc,
mà không nằm trong phần chính thức của hiệp ước. Từ chi tiết này có thể thấy, trên thực tế Mỹ
đã phủ nhận quan hệ tông phiên Trung-Triều, nhưng do lúc bấy giờ, ảnh hưởng của Trung Quốc
với Triều Tiên vẫn còn rất lớn, Mỹ không thể không mượn sức mạnh của Trung Quốc để dọn
đường cho việc kí kết hiệp ước thông thương với Triều Tiên, nên đồng ý đưa “Triều Tiên là
thuộc quốc của Trung Quốc” vào trong tuyên bố phụ lục. Đồng thời, Robert W. Shufeldt cũng
cho rằng, do tuyên bố này không nằm trong hiệp ước, nên không có tính bắt buộc. Thỏa thuận
này đã xử lý được sự tranh luận gay gắt giữa các bên. Như thế, đến ngày 18/4/1882, cuộc đàm
phán về nội dung hiệp ước đã hoàn tất. Ngày 23/4/1882, triều Thanh phái quan Nhị phẩm Mã
Kiến Trung đến Triều Tiên giám sát việc kí kết hiệp ước Mỹ-Triều. Ngày 22/5/1882, “Hiệp ước
hòa bình, hữu nghị, thông thương và hàng hải”, tức “Hiệp ước thông thương Mỹ-Triều” được kí
kết tại Incheon, Triều Tiên. Đây có thể coi là điểm khởi đầu cho chính sách can dự tích cực
Trung Quốc đối với Triều Tiên trong tình hình mới.
Do sự chỉ đạo của triều Thanh, “Hiệp ước thông thương Mỹ-Triều” đã khắc phục được vấn
đề thuế quan so với “Hiệp ước Giang Hoa”, đem lại một số lợi ích rõ rệt về kinh tế cho Triều
Tiên. Ngay sau đó, nhiều nước khác như Anh, Đức,… cũng lần lượt kí kết với Triều Tiên một
loạt các hiệp ước thông thương với nội dung tương tự. Mục tiêu nhằm xây dựng thế cân bằng
chính trị, ngoại giao tại Triều Tiên của triều Thanh đã được sơ bộ hình thành. Triều Thanh cảm
thấy rất hài lòng, nhưng trên thực tế, khi Triều Tiên mở toang cánh cửa quốc gia cho các nước
tiến vào, cùng với sự suy yếu của triều Thanh, Triều Tiên dần trở thành miếng mồi ngon cho
cường quốc xâu xé, thách thức quan hệ tông phiên truyền thống Trung-Triều, làm cho triều
Thanh sau này không thể không điều chỉnh chính sách đối với Triều Tiên, đây cũng là vấn đề
mà các lãnh đạo của triều Thanh trước đó chưa phán đoán hết được.
Ngày 23/7/1882, nổ ra cuộc binh biến Nhâm Ngọ, đây là cuộc bạo động vũ trang mang tính
chất phản phong kiến, chống xâm lược của một số quân dân Triều Tiên. Bạo động nổ ra chủ yếu
do các binh sĩ của Vũ Vệ Doanh và Tráng Vệ Doanh của Triều Tiên tại Hán Thành từ hơn một
năm trước đến lúc đó chưa được phát lương bổng, cộng với tâm lý thù ghét đối với người Nhật,
nhưng bản chất đó là do tâm lý thù địch của Triều Tiên đối với Nhật Bản từ sau khi kí kết “Hiệp
ước Giang Hoa”, và sự phẫn nộ đối với tệ nạn tham ô hủ bại của gia tộc họ Mẫn. Dù cuộc binh
biến nổ ra ngoài dự tính, nhưng triều Thanh nhanh chóng ra lệnh phái quân đội Trung Quốc đến
122
- Chính sách của triều Thanh đối với Triều Tiên trong hai thập niên cuối thế kỉ XIX
Triều Tiên để xử lý. Trong chỉ thị của mình đối với Quân vụ đại thần Ngô Trường Khánh -
người được phái đi Triều Tiên xử lý sự vụ, triều Thanh đặc biệt nhấn mạnh hai nguyên tắc: Một
là kết hợp quân sự và ngoại giao, hai là trấn áp loạn đảng. Hai nguyên tắc này nhằm: (i) Phòng
trường hợp Nhật Bản dùng sức mạnh uy hiếp Triều Tiên; (ii) Tranh thủ đạt được thỏa thuận
Trung-Nhật, duy trì vương triều Triều Tiên do hoàng đế Trung Quốc sắc phong. Về thực chất là
nhằm củng cố quyền tông chủ, tăng cường sự khống chế của Trung Quốc với Triều Tiên. Đồng
thời, căn cứ vào kiến nghị của quan cố vấn Tiết Phúc Thành, triều Thanh lệnh cho Ngô Trường
Khánh bắt giữ Hưng Tuyên Đại Viện Quân (Daewon-gun). Do quyết định và hành động nhanh
chóng, quân Trung Quốc đến Hán Thành trước quân Nhật. Ngày 26/8/1882, lấy cớ mời đến
thương nghị, bộ tướng của Ngô Trường Khánh là Viên Thế Khải lập tức bắt giữ Đại Viện Quân,
đưa lên giam giữ trên tàu chiến Trung Quốc, sau đó tấn công vào doanh trại của quân đội làm
binh biến, giết và bắt giữ nhiều nhân vật chủ chốt, từ đây, cuộc binh biến Nhâm Ngọ bị thất bại
hoàn toàn. Trong cuộc binh biến này, sứ quán Nhật Bản tại Triều Tiên bị san bằng, hơn 20
người Nhật bị giết hại. Mượn cớ này, Nhật Bản phái công sứ Hanabusa Yoshitada đem theo
1500 binh sĩ vũ trang đầy đủ và 4 tàu chiến đến Hán Thành, ép buộc Triều Tiên kí “Hiệp ước Tế
Vật Phố” ngày 30/8/1882, từ đó giành quyền đóng quân tại Triều Tiên, củng cố, tăng cường sức
mạnh quân sự, kinh tế và chính trị tại đất nước này. Như vậy, sau binh biến Nhâm Ngọ, cả
Trung Quốc và Triều Tiên đều có quân đội tại Hán Thành, đây là nguyên nhân trực tiếp làm cho
nguy cơ xung đột quân sự bùng phát mạnh mẽ trong tương lai, và cũng là bối cảnh, nguyên
nhân quan trọng của chính biến Giáp Thân (1884).
Về phía nhà Thanh, thời kì này phái diều hâu trong triều đình cho rằng, phải áp dụng chính
sách tích cực hơn đối với Triều Tiên. Phái này cho rằng, lực lượng hải quân của Nhật không
phải là đối thủ của hải quân Trung Quốc, trước đây sở dĩ Nhật giành được một số ưu thế khi
thách thức triều Thanh, chủ yếu là do phía Trung Quốc chủ trương tránh chiến tranh và nhẫn
nhịn. Vì thế, phái diều hâu chủ trương phát động một cuộc chiến nhằm giải quyết tận gốc những
vấn đề nổi cộm với Nhật như Lưu Cầu, Triều Tiên. Đại diện cho phái này là Viên Thế Khải và
Trương Kiển. Trong “Sáu sách lược xử lý vấn đề Triều Tiên”, Trương Kiển kiến nghị đặt Triều
Tiên dưới sự giám sát của một đại thần Khâm sai do hoàng đế Trung Quốc cử đến, điều này liên
quan mật thiết đến lợi ích quốc gia của Trung Quốc [15, tr 35-36].
Thế nhưng, binh biến Nhâm Ngọ cũng đem lại một cơ hội tốt cho Trung Quốc trực tiếp can
dự vào chính trường Triều Tiên và tiếp tục thực hiện chính sách tông phiên của mình. Triều
Thanh cho rằng, phải vận dụng sức mạnh của Trung Quốc tại Triều Tiên một cách thật linh
hoạt, khéo léo và bí mật. Nhằm thực hiện ý định này, triều Thanh phái Trần Thụ Đường- người
từng đảm nhiệm chức vụ lãnh sự Trung Quốc tại San Francisco làm Ủy viên thương vụ Trung
Quốc đến Hán Thành. Lấy danh nghĩa thương mại, Trần có thể thương nghị mọi việc với chính
quyền Triều Tiên, từ đó đảm bảo sự kiểm soát của Trung Quốc với Triều Tiên. Về mặt ngoại
giao, triều Thanh thuê một lãnh sự người nước ngoài tên là P.G. Von Mollendoff để xử lý các sự
vụ ngoại giao và hải quan, đồng thời còn phái thêm một số quan chức khác làm đại diện chính
trị đến Triều Tiên. Về quân sự, triều Thanh cung cấp vũ khí, cho phép Ngô Trường Khánh huấn
luyện quân sự cho quân đội Triều Tiên. Về kinh tế, triều Thanh cung cấp các khoản vay cho
Triều Tiên, nhằm đề phòng trường hợp Triều Tiên xin sự giúp đỡ đối với Nhật [17, tr 57-60].
Bằng hàng loạt các biện pháp trên, Trung Quốc đã can dự mạnh mẽ vào tình hình Triều Tiên,
tiêu biểu là sự kiện tháng 10 năm 1882, Trung Quốc và Triều Tiên kí kết “Hiệp ước thương mại
thủy bộ Trung-Triều”. Hiệp ước này thể hiện cho thế giới biết rõ về địa vị tông chủ và đặc
quyền của Trung Quốc với Triều Tiên. Xét theo góc độ này, hiệp ước có ý nghĩa chính trị nhiều
hơn là ý nghĩa kinh tế.
Ngày 4/12/1884, một cuộc chính biến đẫm máu đã xảy ra tại Triều Tiên. Được sự giúp đỡ
của Nhật, đảng Khai hóa dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Kim Okgyun đã phát động cuộc chính
biến với hai mục đích chính: (i) Lật đổ chính quyền họ Mẫn, thoát ly Trung Quốc; (ii) Cải cách
123
- Đỗ Tiến Quân
thể chế. Đảng Khai hóa đã giết hại 7 đại thần của phái bảo thủ, công bố chính cương mang màu
sắc tư bản chủ nghĩa, vì thế đây cũng có thể coi là một phép thử của cách mạng giai cấp tư sản
lần đầu tiên tại Triều Tiên. Trên thực tế, cuộc chính biến không được sự ủng hộ về quân sự thực
sự của Nhật, do đó, ngày 6/12/1884, khi Viên Thế Khải chỉ huy quân đội Trung Quốc tiến hành
trấn áp, cuộc chính biến nhanh chóng bị dập tắt, nhưng ảnh hưởng của nó vẫn rất lớn.
Sau đó, triều Thanh nhanh chóng đưa ra tuyên bố về nguyên tắc giải quyết vấn đề Triều
Tiên, hi vọng giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, đồng thời định ra một chính sách mới,
đó là trên nguyên tắc phân tích thấu đáo những sự hiểu nhầm giữa Trung-Nhật, ưu tiên giải
quyết các tranh chấp, chủ yếu là dẹp loạn. Triều Thanh cũng lo lắng về sự liên minh giữa Nhật
và Pháp, cho nên quyết định tăng cường một tiểu đoàn bộ binh và hai tàu chiến cho lực lượng
Trung Quốc đóng ở Masan, Triều Tiên [18, tr 17-26].
Sau cuộc chính biến, ngày 09/01/1885, Nhật Bản ép Triều Tiên kí kết “Hiệp ước Hán
Thành”, theo đó Triều Tiên phải bồi thường cho những người Nhật bị giết, xin lỗi chính thức
bằng văn bản, cho phép duy trì 1000 lính vũ trang Nhật tiếp tục đóng tại Hán Thành. Ngày
03/4/1885, Lý Hồng Chương đại diện cho triều Thanh gặp mặt toàn quyền Nhật Bản Ito
Hirobumi tại Thiên Tân để tiến hành đàm phán. Phía Nhật Bản yêu cầu ba điểm chính: (i) Trung
Quốc trừng phạt sĩ quan chỉ huy tại Triều Tiên; (ii) Bồi thường cho người Nhật; (iii) Rút quân
đội khỏi Triều Tiên. Mục đích chính của Nhật Bản là đòi Trung Quốc rút quân. Lý Hồng
Chương và triều Thanh kiên quyết không chấp nhận yêu cầu thứ nhất, nhưng lại đồng ý nhanh
chóng rút quân. Ngày 18 tháng 4, hai bên kí kết “Hiệp ước Thiên Tân Trung-Nhật”, quy định
hai nước phải rút quân khỏi Triều Tiên trong vòng 4 tháng, sau này không được phái người đến
Triều Tiên huấn luyện quân sự. Điều quan trọng nhất là, trong tương lai, khi Triều Tiên có biến
cố hoặc sự kiện quan trọng, hai nước hoặc một trong hai nước xuất quân, thì phải thông báo cho
nhau bằng văn bản [19, tr 128]. Bằng hiệp ước này, địa vị của Nhật Bản tại bán đảo Triều Tiên
đã được đưa lên ngang tầm với Trung Quốc, đây là một thắng lợi lớn về ngoại giao của Nhật
Bản. Tuy vậy, sau sự kiện này, triều Thanh vẫn không ngừng nỗ lực nhằm tăng cường quyền
tông chủ của Trung Quốc tại Triều Tiên.
Thái độ của nước Anh đối với quan hệ Trung-Triều cũng là một trong những cơ sở quan
trọng để triều Thanh tiếp tục thực hiện chính sách của mình đối với Triều Tiên. Nhằm kiềm chế
thế lực của Nga mở rộng sang phía Đông Á, đặc biệt là Triều Tiên, Anh hết sức giúp đỡ Trung
Quốc tăng cường quyền tông chủ đối với Triều Tiên. Cho dù cũng trong thời gian này, Anh vẫn
đang thực hiện những hiệp ước bất bình đẳng với Trung Quốc, nhưng nước này lại có quan
điểm rằng, việc tăng cường địa vị của Trung Quốc với Triều Tiên sẽ là sách lược tốt để làm cho
Trung Quốc trở thành vật chướng ngại đối với con đường Nam tiến của nước Nga. Vì thế, công
sứ Anh tại Trung Quốc luôn thúc giục triều Thanh tăng cường sự kiểm soát, ủng hộ vai trò tông
chủ của Trung Quốc với Triều Tiên. Việc ủng hộ này được kéo dài liên tục cho đến trước chiến
tranh Trung Nhật năm 1894 [16, tr 249]. Sau này, khi Anh thay đổi thái độ, ủng hộ Nhật Bản,
đồng ý chấm dứt hiệp ước bất bình đẳng với Nhật, thay đổi chính sách từ liên minh với Trung
Quốc để kiềm chế Nga sang liên minh với Nhật. Trên thực tế, đây cũng là nguyên nhân quan
trọng làm cho Trung Quốc thất bại trong chiến tranh Trung-Nhật.
Về phía Nga, cho dù Nhật Bản, Trung Quốc và Anh đều lo lắng về sự uy hiếp xâm lăng của
Nga đối với Triều Tiên, nhưng trên thực tế, trong thời kì này, Nga không hề có ý đồ xâm lược
Triều Tiên, mà chỉ hi vọng giữ nguyên hiện trạng, không muốn quan hệ của Triều Tiên với các
nước khác uy hiếp đến biên giới phía đông của Nga. Vì thế, Nga cũng không phản đối quan hệ
tông phiên giữa Trung Quốc và Triều Tiên. Do đó, triều Thanh cũng muốn lôi kéo Nga đứng về
phía mình, nhằm chống lại kế hoạch xâm lược Triều Tiên của Nhật. Nga cũng cho rằng, nếu
Trung Quốc xâm lược Triều Tiên, thì mối uy hiếp đối với Nga có thể còn hơn cả khi Nhật xâm
lược Triều Tiên. Vì thế, tháng 9 năm 1886, Tham tán sứ quán Nga tại Bắc Kinh N.F.
124
- Chính sách của triều Thanh đối với Triều Tiên trong hai thập niên cuối thế kỉ XIX
Ladyzhenskii tiến hành đàm phán với Lý Hồng Chương, phía Nga nhất trí ý kiến của Lý rằng,
Trung-Nga phải kí kết một Thỏa thuận bí mật không xâm lược Triều Tiên. Thỏa thuận sơ bộ ghi
rõ: Chính phủ hai nước cam kết không thay đổi hiện trạng tại Triều Tiên, không có ý đồ xâm
chiếm đất đai Triều Tiên [20, tr 16-17]. Nhưng triều Thanh lại cho rằng, điều khoản này sẽ hạn
chế hành động của Trung Quốc sau này khi có sự thay đổi về vấn đề thuộc quốc trong quan hệ
tông phiên với Triều Tiên, vì thế, điều khoản này không được ghi trong thỏa thuận chính thức,
mà được bảo lưu trong thỏa thuận miệng giữa Lý Hồng Chương và N.F. Ladyzhenskii (còn gọi
là “Thỏa thuận miệng Thiên Tân 1886”). Có thể thấy, thái độ của Anh và Nga trong vấn đề
Triều Tiên là nguyên nhân quan trọng để triều Thanh tiếp tục thực hiện chính sách can dự tích
cực đối với Triều Tiên.
Về phía Mỹ, cho dù ảnh hưởng của Mỹ đối với Triều Tiên không bằng Nga và Nhật, nhưng
suốt thời gian này, Mỹ luôn nhấn mạnh đến quyền độc lập tự chủ của Triều Tiên, ủng hộ cuộc
đấu tranh của đảng Tiến Bộ Triều Tiên đối với quyền tông chủ Trung Quốc, tư tưởng và chính
sách của Mỹ đối với Triều Tiên cũng có một số tác động nhất định, nhưng không làm thay đổi
chính sách của triều Thanh đối với Triều Tiên.
Tháng 8 năm 1890, Viên Thế Khải phân tích tình hình Triều Tiên như sau:
Lòng người Triều Tiên đã tan, không tụ kết với nhau được, trong nước không có thế để giữ,
ngoài nước không có nguồn chi viện, Người Mỹ chỉ mong giữ được hiện trạng, không có kế
sách gì lâu dài, Anh, Pháp, Đức không có ý đồ thực sự. Nhật Bản đang bàn tính gấp gáp, nhưng
cũng lại sợ hỏng việc. Nga chưa sửa xong đường sắt, lại đang lo nghĩ về biên giới phía Tây, chỉ
ngấm ngầm có ý đồ nhưng chưa thể hiện ra [21, tr 2810].
Có thể nói, đây là nhận xét rất xác đáng và sát với thực tế. Trong điều kiện thuận lợi như
vậy, chính sách can dự tích cực của triều Thanh đối với Triều Tiên được thể hiện bằng đường
lối Lý Hồng Chương, người thực hiện Viên Thế Khải đã được hình thành một cách rõ nét.
Trong vòng hơn 10 năm từ 1894 đến 1894, chính sách này được triển khai ở một cấp độ cao
hơn, được Viên Thế Khải - người phụ trách sự vụ cụ thể tại Triều Tiên quán triệt thực hiện một
cách tuyệt đối. Tháng 10 năm 1885, Viên Thế Khải hộ tống Đại Viện Quân về Triều Tiên.
Tháng 11, Viên được phong làm Đại thần của Thủ tướng Trung Quốc chuyên trách xử lý các sự
vụ thông thương và giao thiệp tại Triều Tiên, tương đương với quan tam phẩm, lúc này Viên
mới 26 tuổi. Nhiệm vụ của Viên tại Triều Tiên là, trong điều kiện thông thương, quan hệ với các
nước khác, làm cho Triều Tiên phải “hiểu rõ lễ nghĩa thân thuộc, ổn định lòng dân, bên trong
khắc phục về chính trị, đặt mối bang giao với bên ngoài” [22], nói một cách khác là tăng cường
mối quan hệ tông phiên giữa Trung Quốc và Triều Tiên, đề phòng khuynh hướng đòi độc lập tự
chủ của Triều Tiên và sự lăm le xâm lược của Nga, Nhật. Về cơ bản, trong thời gian 12 năm tại
Triều Tiên, Viên hoàn thành sứ mệnh này một cách tương đối thành công. Một phần là do tài
năng của Viên, một phần, cũng là do nguyên nhân Viên muốn nỗ lực để báo đáp sự tin tưởng
của Lý Hồng Chương đối với bản thân (Năm 1888, quốc vương Cao Tông (Joseon Gojong)
thông qua sứ quán Triều Tiên tại Trung Quốc yêu cầu Lý Hồng Chương rút Viên Thế Khải về
nước, một số đại thần triều Thanh như Trương Giản, Trương Bội Luân cũng có ý kiến như vậy,
nhưng Lý Hồng Chương kiên quyết không tán thành).
3. Kết luận
Sở dĩ Trung Quốc thực hiện chính sách can dự tích cực vào Triều Tiên trong những năm
cuối thế kỉ XIX, là bởi vì họ cho rằng, sau khi Nhật Bản sát nhập Lưu Cầu, tình hình Đông Á
đang phát sinh những biến động to lớn, ngoài sự uy hiếp của Nhật Bản với dã tâm ngày càng
công khai, thì mối nguy do nước Nga có ý đồ tiến về phía Nam cũng hết sức nghiêm trọng. Qua
hàng loạt những biến cố trong và ngoài nước, triều Thanh ý thức được tầm quan trọng của “lá
chắn” Triều Tiên đối với cửa ngõ đất nước, nên thực hiện chính sách can dự mới đối với Triều
125
- Đỗ Tiến Quân
Tiên, thuyết phục và thúc đẩy nước này kí kết một loạt các hiệp ước mở cửa thông thương với
cường quốc Châu Âu, dùng chính sách “dĩ Di trị Di” nhằm tạo thế cân bằng trong khu vực,
đồng thời cũng hi vọng mượn sức mạnh của nước ngoài để củng cố quan hệ tông phiên với
Triều Tiên.
Trong suốt những năm tháng biến động đó, chính sách can dự tích cực của Trung Quốc với
Triều Tiên được thể hiện bằng hàng loạt hành động cụ thể. Trong ứng phó với binh biến Nhâm
Ngọ, là nước tông chủ, Trung Quốc lập tức phái quân đội đến ứng cứu nước phiên thuộc theo
nghĩa vụ, lấy danh nghĩa chính quyền Triều Tiên để trấn áp phiến loại, nhưng mục đích chính là
kiềm chế Nhật Bản. Đây rõ ràng là một hành động can dự rõ rệt và tích cực của Trung Quốc, là
điểm chuyển ngoặt trong chính sách của triều Thanh đối với Triều Tiên.
Sự ủng hộ to lớn của Trung Quốc đối với đảng Sự đại Triều Tiên cũng là nguyên nhân
quan trọng làm cán cân quyền lực chính trị tại Triều Tiên bị thay đổi rõ rệt, do đó, đảng Tiến Bộ
thân Nhật đã tiến hành chính biến Giáp Thân nhằm lật đổ chính quyền thân Trung Quốc, nhưng
do sự can thiệp mạnh mẽ của Trung Quốc, cuộc chính biến đã thất bại hoàn toàn. Từ đây, Trung
Quốc tiếp tục duy trì chính sách can dự tích cực đối với Triều Tiên nhằm quy trì quyền tông chủ
của mình. Lúc này, dù Mỹ không thừa nhận chính thức nhưng cũng không có hành động thực sự
phản đối triều Thanh trong thực thi quyền tông chủ với Triều Tiên, còn Anh và Nga trong thế
đối kháng, đề phòng lẫn nhau. Sau năm 1884, Nhật Bản tạm thời áp dụng chính sách kiềm chế,
tích lũy sức mạnh để đợi thời cơ. Vì thế, trong hai thập niên cuối thế kỉ XIX, triều Thanh tận
dụng triệt để điều kiện quốc tế thuận lợi đó để thực hiện chính sách can dự của mình, đây là
nguyên nhân quan trọng và chủ yếu để từ đó củng cố được quyền tông chủ của Trung Quốc đối
với Triều Tiên trong thời kì này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Kim Cơ Hách, 1995. Mục đích của chính sách Lý Hồng Chương đối với Nhật Bản và Triều
Tiên thời kì 1870-1882. Tuyển tập Nghiên cứu Hàn Quốc, số 1, tr 80-99 (bản tiếng Trung).
[2] Kim Tại Thiện, 1997. Quan hệ tông phiên Trung-Triều trước chiến tranh Giáp Ngọ và
tranh luận của Trung-Nhật-Triều về vấn đề phiên thuộc của Triều Tiên. Học báo ĐHSP Tứ
Xuyên, số 1, tr 126-134 (bản tiếng Trung).
[3] Đỗ Tiến Quân, 2014. Triều Tiên trong cục diện chính trị Đông Bắc Á thời kì cuối thế kỉ
XIX. Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 164, tr 3-11.
[4] Nguyễn Phương Mai, 2015. Vấn đề Triều Tiên trong chính sách đối ngoại xâm lược thuộc
địa của Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 10, tr 68-75.
[5] Đỗ Tiến Quân, 2015. Quan hệ Trung Quốc-Triều Tiên thời Minh xét dưới góc độ trao đổi
các đoàn sứ thần. Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 10, tr 50-59.
[6] Sử liệu ngoại giao Triều Trung Nhật thời Thanh Quang Tự, quyển 1, ngày 21 tháng 8 năm
1879 (bản tiếng Trung).
[7] Sử liệu ngoại giao Triều Trung Nhật thời Thanh Quang Tự, quyển 1, ngày 16 tháng 12
năm 1880 (bản tiếng Trung).
[8] Sử liệu ngoại giao Triều Trung Nhật thời Thanh Quang Tự, quyển 2, ngày 19 tháng 2 năm
1881 (bản tiếng Trung).
[9] Sử liệu ngoại giao Triều Trung Nhật thời Thanh Quang Tự, quyển 16, ngày 26 tháng 8
năm 1879 (bản tiếng Trung).
[10] Vương Minh Tinh, 1998. Tuyển tập nghiên cứu Hàn Quốc, quyển 4. Nxb Nhân dân
Thượng Hải (bản tiếng Trung).
126
- Chính sách của triều Thanh đối với Triều Tiên trong hai thập niên cuối thế kỉ XIX
[11] Phòng nghiên cứu lịch sử cận đại Viện nghiên cứu Trung ương, 1972. Sử liệu quan hệ
ngoại giao Trung Nhật Hàn thời Thanh, quyển 11. Viện Nghiên cứu Trung ương (bản
tiếng Trung).
[12] Lý Hồng Chương. Lý Hồng Chương toàn tập, công hàm ngoại sự, quyển 13, ngày 25 tháng
3 năm 1882 (bản tiếng Trung).
[13] Vương Tín Trung, 1937. Bối cảnh ngoại giao Trung Nhật trong chiến tranh Giáp Ngọ.
Nxb Đại học Quốc lập Thanh Hoa (bản tiếng Trung).
[14] Trương Vệ Minh, 2011. Giữa thể chế tông phiên và luật quốc tế: Phác thảo lại trật tự quan
hệ Trung Triều thời cuối triều Thanh. Nghiên cứu học thuật, số 3 (bản tiếng Trung).
[15] Trương Hiếu Nhược, 1930. Truyền kí kèm bảng niên phổ của tiên sinh Trương Quý Trực
Nam Thông. Nxb Trung Hoa thư cục (bản tiếng Trung).
[16] Lâm Minh Đức, 1995. Chính sách tông phiên của Lý Hồng Chương đối với Triều Tiên
(1882-1894). Nghiên cứu Hàn Quốc, quyển 1 (bản tiếng Trung).
[17] Vương Tín Trung, 1937. Bối cảnh ngoại giao Trung - Nhật trong chiến tranh Giáp Ngọ.
Nxb Đại học Quốc lập Thanh Hoa (bản tiếng Trung).
[18] Sử liệu ngoại giao Triều Trung Nhật thời Thanh Quang Tự quyển 5, ngày 21 tháng 12 năm
1884 (bản tiếng Trung).
[19] Phó Khởi Học, 2007. Lịch sử ngoại giao Trung Quốc, quyển 2. Nxb Công ti trách nhiệm
hữu hạn Thương vụ Ấn thư quán (bản tiếng Trung).
[20] Sử liệu ngoại giao Triều Trung Nhật thời Thanh Quang Tự, quyển 69, ngày 24 tháng 10
năm 1886 (bản tiếng Trung).
[21] Phòng nghiên cứu lịch sử cận đại Viện nghiên cứu Trung ương, 1972. Sử liệu quan hệ
ngoại giao Trung Nhật Hàn thời Thanh, quyển 5. Viện nghiên cứu trung ương (bản tiếng
Trung).
[22] Lạc Bảo Thiện, 2013. Viên Thế Khải tại Triều Tiên. Trung Quốc cận đại, ngày 5 tháng 7
(bản tiếng Trung).
ABSTRACT
The policy of Qing dynasty to North Korea in the two decades at the end of the 19th century
Do Tien Quan
Faculty of Foreign Language, Hung Vuong University
In 1879, after the merger of Ryukyu, Japan directly threatened North Korean security and
the bilateral relationship between the Qing and North Koreans. At this time, the great powers
like America, Britain, France, Germany ... also want to open the door of trade with North Korea.
In order to maintain the traditional order of suzerain-vassal relationship and ensure border
security, the Qing Dynasty implemented a policy of active engagement, which had a great
influence on the political landscape of Northeast Asia at that time.
Keywords: Policies, Qing dynasty, North Korea, suzerain-vassal relationship.
127
nguon tai.lieu . vn