Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 7 (32) - Thaùng 9/2015 Chiến tranh Việt Nam trong văn học Mĩ Viet Nam war in American literature TS. Trần Thị Phương Lý Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Tran Thi Phuong Ly Sai Gon University Tóm tắt Sự can dự của Hoa Kì trong chiến tranh Việt Nam kết thúc vào tháng 4 năm 1975 khi những lính Mĩ cuối cùng rút về nước đã trở thành một chủ đề rộng lớn và phong phú cho các tác phẩm văn học. Bài viết đi vào khảo sát một số vấn đề cơ bản của văn học Mĩ viết về chiến tranh gồm các hệ chủ đề được phân chia theo từng giai đoạn chiến tranh và theo thể loại. Qua đó, bài viết khẳng định vai trò của bộ phận văn học này trong việc lưu giữ và làm sống lại bộ mặt thật của chiến tranh Việt Nam, góp phần tạo nên tiếng nói đa nghĩa về đất nước, văn hóa và ý thức con người Mĩ trong cuộc chiến tranh này. Từ khóa: chiến tranh Việt Nam, văn học, thơ, tiểu thuyết, phê bình văn học, hội chứng chiến tranh Việt Nam... Abstract The United States’ involvement in the Viet Nam War ended in April, 1975 when the last American soldiers were withdrawn, that has been the subject of an extensive and diverse body of creative works in literature. This article went on surveying some of the basics of American literature of war, including systems of theme divided according to the time of war and the genre of works. Thereby, the paper confirmed the role of the literary department in the storing, reviving the true face of war in Viet Nam and building the multi-sense voice about the American country, culture and human consciousness in this war. Keywords: Viet Nam war, literature, poetry, fiction, literary criticism, the Viet Nam syndrome ... 1. Giới thiệu chung nghĩa mà còn với các tác giả văn học, sử Chiến tranh tại Việt Nam kéo dài từ học, tâm lí học, chính trị gia và những nhà giữa thập niên những năm 1950 đến 1970 làm phim. là một sự sa lầy lớn nhất trong lịch sử nước Từ năm 1955 đến nay, hàng nghìn tác Mĩ, để lại những vết thương hậu quả nặng phẩm viết về sự tham gia của Mĩ và các nề cho đất nước này. Sự thất bại này cùng nước khác vào chiến tranh ở Việt Nam đã nỗi ám ảnh “Hội chứng chiến tranh Việt ra đời, hình thành nên một kho tư liệu lớn Nam” luôn là một chủ đề rộng lớn và vào cuối những năm 70 và sau đó đã trở phong phú cho một loạt các tác phẩm nghệ thành một phần quan trọng của ngành xuất thuật, thu hút sự quan tâm không chỉ với bản Mĩ. Thậm chí, có một số nhà sách người dân Mĩ, những người đã mất đi được mở chỉ để dành riêng cho ấn phẩm về 58.000 người thân trong cuộc chiến phi chiến tranh Việt Nam. Nhiều tác phẩm về 36
  2. TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ chiến tranh đã được trao giải thưởng. Đáng cho việc xây dựng những hồi kí về chiến chú ý nhất là các tác phẩm như Lính chó tranh và các tiểu thuyết tự truyện. Trong (Dog Soldiers-1974) của Robert Stone, Đi máu lạnh (In Cold Blood-1966) của sau Cacciato (Going after Cacciato-1978) Truman Capote hay Sự thú tội của Nat của Tim O’Brien, Những kẻ chiến thắng và Turner (The Confessions of Nat Turner- thất bại (Winners and Losers-1978) của 1967) của William Styron là những tiểu Gloric Emerson, Câu chuyện của Pacô thuyết đầu tiên về chiến tranh Việt Nam (Paco’s Story-1987) của Larry Heinemann được nuôi dưỡng trong kiểu không khí văn đã đạt giải thưởng Quốc gia Mĩ và giải học như thế. thưởng Pulitzer được trao cho Frances Fitz Đặc biệt, vào đầu năm 1988, khi Gerald với Lửa trong hồ (Fire in the Lake- Chính phủ Mĩ buộc phải chính thức thừa 1973). Theo đó, những tác phẩm này đã nhận rằng 15% (khoảng 50.000 người) cựu kéo theo sự xuất hiện của hơn một nghìn chiến binh Mĩ từ chiến tranh Việt Nam trở các chuyên luận nghiên cứu và phê bình về bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng vì đã văn học cũng như những hợp tuyển đặc từng tham chiến tại Việt Nam và bị ám ảnh biệt gồm tạp chí, đặc san tạp chí cũng như về tội ác họ từng gây ra, văn học Mĩ đã một số lượng lớn kỉ yếu hội thảo hiện được xuất hiện một trào lưu viết về Hội chứng lưu giữ tại thư viện hai trường Đại học chiến tranh Việt Nam, tạo được sự chú ý bang Colorado và Đại học La Salle. của dư luận thế giới. Sự ra đời số lượng lớn các tác phẩm Người ta nhanh chóng nhận ra rằng văn học Mĩ về chiến tranh Việt Nam xuất cuộc chiến tranh Việt Nam được phản ánh phát từ nhiều nguyên nhân. Trong hai thập trong các tác phẩm văn học là một cuộc kỉ giữa thời gian kết thúc Chiến tranh thế chiến hoàn toàn khác và sự thật của chiến giới thứ hai và tăng cường quân sự của Mĩ tranh chỉ có thể tìm thấy ở chiến trường, tại Việt Nam, hệ thống giáo dục Mĩ đã nơi mà những người trong cuộc, mới hiểu được phát triển đáng kể. Tỉ lệ nam, nữ rõ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam hơn ai thanh niên có học vấn cao góp phần làm hết. Chiến tranh Việt Nam trong con mắt gia tăng số lượng các tác phẩm phản ứng những người Mĩ đã từng tham gia quân đội với chiến tranh Việt Nam. Bên cạnh đó, là một cuộc chiến “phi lí” và ngay từ sau trình độ văn hóa của các sĩ quan trẻ trong năm 1967, 60% cựu chiến binh, đa số là quân đội cũng chiếm tỉ lệ khá cao, phần binh sĩ quân dịch, đã thú nhận họ đã chống nhiều trong số họ có kĩ năng để có thể biến lại cuộc chiến tranh này, hoặc không biết trải nghiệm thực tế thành tác phẩm văn chiến đấu để làm gì. Lời thú nhận của của học. Ngoài ra, một điều đáng lưu ý nữa là Larry Rottman, nguyên là lính bộ binh sư “mốt thời thượng” của văn học những năm đoàn 25: “(...) cái chết như một nỗi kinh 60 với những bài báo cá nhân ứng dụng hoàng cứ ám ảnh tôi. Cháy, bom đạn, tên nhiều kĩ thuật của tiểu thuyết đã thúc đẩy lửa, bụi bặm, bẩn thỉu, ẩm ướt, trì trệ, buồn sự hình thành một bộ phận phong phú các chán, nỗi nhớ vợ và đáng sợ nhất là tất cả tiểu thuyết ra đời. Quân đội của bóng đêm mọi người Việt Nam, kể cả trẻ con đều rất (The Armies of the Night-1968) của căm thù mình, đã làm tôi cực kỳ ghê tởm Norman Mailer là một điển hình của dạng chiến tranh” [4,12] cũng là sự thú nhận này. Một thể loại viết như vậy rất phù hợp chung của những người đã từng tham gia 37
  3. CHIẾN TRANH VIỆT NAM TRONG VĂN HỌC MĨ vào trận chiến này. Những trải nghiệm of Napalm-1999) đã phơi bày những kí ức khủng khiếp như thế đã được phơi bày rõ thời chiến cảnh xâm chiếm đất nước khác. trong các tác phẩm viết về chiến tranh từ Nhiều tác giả đã nỗ lực chia sẻ những đề nhiều hướng tiếp cận khác nhau trên nhiều tài này như một sự tìm kiếm ý nghĩa và sự thể loại đa dạng gồm tiểu thuyết, truyện thật cũng như bày tỏ sự thiếu niềm tin vào ngắn, kịch, hồi kí, sử kí, nhật kí và thư từ… các giá trị và hình thức truyền thống. Theo Khi mới ra đời, hầu hết tác phẩm đó, thơ viết về chiến tranh Việt Nam chủ hướng sự quan tâm đến những người lính yếu là thú- giải tội, mỉa mai và được viết Mĩ trắng (White American soldiers), sau theo sự trải nghiệm hơn là duy tâm hoặc đó, dần dần phát triển bao gồm cả nghiên siêu việt và những bài thơ thường tìm cách cứu về giới và dân tộc thiểu số (Minority khép lại truyền thống, như là Những cánh Ethnics), về những ảnh hưởng của chiến đồng lửa (Fields of Fire-1978) của James tranh đối với nước Mĩ và hậu quả của chiến Webb, Phía sau cuộc chiến của chúng ta tranh. Ngày nay, sự quan tâm ngày càng (After Our War-1974) của John Balaban, tăng lên trong nghiên cứu đa văn hóa, đặc Mang theo bóng tối (Carrying the biệt là đối với người Việt hoặc những Darkness- 1985) và Vùng phi quân sự: cựu người thuộc các vùng đất đã xảy ra chiến chiến binh sau chiến tranh Việt Nam tranh, với những người Việt đã di cư và (Demilitarized Zones: Veterans After nhập cư cũng như đối với những liên hệ Vietnam- 1976), Chiến tranh du kích văn học giữa cuộc chiến Việt Nam và các (Guerilla War), Sự im lặng vụng về (The cuộc xung đột ở Irad, Afghanistan. Awkward Silence), Về nhà (Coming 2. Các thể loại văn học chính trong Home) của W.D.Ehrart, v.v… bộ phận văn học Mĩ viết về chiến tranh 2.2. Văn xuôi 2.1. Thơ ca Những công trình quan trọng được Sự tham gia của Hoa Kì trong chiến biết đến nhiều nhất về văn học chiến tranh tranh Việt Nam đã trở thành một chủ đề Việt Nam tập trung chủ yếu vào văn xuôi rộng lớn và phong phú cho thơ ca. Chủ đề và một số tác phẩm đa thể loại, trong đó, thường thấy bao gồm bạo lực và tội ác tiểu thuyết là một hình thức phát triển hơn cũng như sự ghi lại chi tiết về cảm giác và cả. Với dung lượng dài và những đặc trưng trải nghiệm của người lính ở Việt Nam. riêng có thể giúp phản ánh sâu sắc, cơ bản Những nỗ lực để đương đầu với nỗi đau và nhạy bén nhất sự chuyển biến của hiện đớn, cảm giác tội lỗi, rối loạn căng thẳng thực chiến tranh, tiểu thuyết đã trở thành sau chấn thương, các xung đột giữa việc sử thể loại hữu hiệu hơn cả trong việc lưu giữ dụng ngôn ngữ nên thơ với chính trị và sự và làm sống lại bộ mặt thật của chiến tranh hóa giải của hồi ức với hiện tại là một Việt Nam, trở thành tiếng nói đa nghĩa về trong những chủ đề phổ biến của thơ. đất nước, văn hóa và ý thức con người Mĩ W.D.Ehrhart trong Cuộc chiến của thế hệ trong cuộc chiến tranh này. Tiểu thuyết về (The Generals’ War-1975) với đầy sự chiến tranh Việt Nam của Mĩ có chung khinh miệt đã chỉ ra sự khác biệt giữa việc nhiều mối quan tâm với thơ, đặc biệt là “đặt hàng trên giấy” với thực tế hiện thực việc tìm kiếm ý nghĩa của tầm quan trọng của họ trong viết về chiến tranh, trong khi về hành vi và kết quả của cuộc xung đột Bruce Weigl với Bài hát của Napalm (Song mà Việt Nam đã tác động đến trí tưởng 38
  4. TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ tượng của người Mĩ trong những cách thức sự thật chiến tranh Việt Nam với tất cả chủ mà không cuộc chiến nào khác có. đề. Tiểu thuyết Đi sau Cacciato (1978) của Người Mĩ đã chia thời gian thực hiện Tim O’Brien là sáng tác kết hợp những kí chiến tranh Việt Nam của họ thành 3 giai ức của nhân vật chính với cuộc hành trình đoạn: “Giai đoạn cố vấn” (1954-1965), tưởng tượng đến Pari với những nỗi kinh Giai đoạn: Chúng ta có thể chiến thắng hoàng của chiến tranh. Những cánh đồng không?” (1965-1968) và Giai đoạn “Chúng bốc cháy (1978) của nhà văn J. Weeffer thì ta thoát ra như thế nào đây ?” (1968-1973). đi sâu vào phân tích tâm lí những người Tiểu thuyết viết về chiến tranh Việt Nam lính bị thương trong chiến đấu. Bổ sung của Mĩ về cơ bản cũng có thể chia thành ba vào chủ đề này còn có các tác phẩm Tất cả bộ phận theo các mốc thời gian này với những thứ chúng ta có (1981) A. Skelltole hình tượng trung tâm là người lính, được tập hợp tất cả các câu chuyện của 33 người soi rọi từ nhiều góc độ, gắn liền với sự vận lính và những ngày tháng địa ngục của họ động thời gian- thời gian trong cuộc chiến ở Việt Nam hay Thung lũng thứ 13 (1982) và thời gian hậu chiến. của John Del Vecchio, Máy bay khu trục Một số tác phẩm nổi bật về chiến (1983) của R. Marson... Trong từng cuốn tranh ở giai đoạn đầu bao gồm tiểu thuyết tiểu thuyết, sự ác liệt của chiến tranh, hơi Người Mĩ trầm lặng (The Quiet American- nóng của bom đạn, sự đau đớn của người 1955) của nhà văn Graham Greene, Những bị thương, chết, nỗi kinh hoàng, suy nhược chiếc mũ nồi màu xanh lá (The Green tinh thần của người lính đều được mô tả Berets-1965) của Robin Moore, Tại sao “rất thực và sống động, vượt xa hẳn bất kì chúng ta ở Việt Nam (Why Are We in chương trình vô tuyến nào đã phát trong Vietnam-1967) của Norman Mailer, Một thời gian chiến tranh” [4,12]. ngày nắng gắt (One very hot day-1968) của Bên cạnh chủ đề phản ánh đau thương, David Halbatstam … Trong đó, tiêu biểu mất mát, một số tác phẩm còn xoáy vào nhất là tác phẩm Một ngày nắng gắt chủ đề số phận người lính da đen ở Việt (1968). Với dự cảm sớm thấy được nguy Nam và nạn phân biệt chủng tộc trong cơ của việc can thiệp sâu vào Việt Nam, quân đội Mĩ như Đơn vị xạ kích (1975) của thông qua nhân vật trung tâm Bob, David J. Kranzer và Anh em trai: Những người Halbatstam đã lên tiếng phản đối chiến lính da đen ở Việt Nam (1982) của S. tranh, nêu lên sự “kinh ngạc và căm phẫn Gowffer. Có thể khẳng định hầu hết các (một cách kín đáo) trước tính cách tàn bạo tiểu thuyết về chiến tranh như thế cuối và vô nghĩa lí của tất cả những việc đang cùng đều đã vượt xa những câu chuyện về diễn ra”. chiến đấu ở nước ngoài để cung cấp cái Các tác phẩm thuộc về phản ánh giai nhìn sâu sắc về sự phát triển của xã hội Mĩ đoạn hai của cuộc chiến tranh (1965-1968) trong suốt những năm 1960 và 1970. tập trung vào việc phản chiếu sự khủng Tiểu thuyết ở giai đoạn thứ ba ở cuộc khiếp của chiến tranh, sự hoài nghi tột chiến tranh (1968-1973) như tổng kết của cùng của người lính và những mâu thuẫn Nguyễn Hồng Dũng đã đặc biệt chú ý đến cơ bản của xã hội Mĩ và thậm chí những thể hiện tinh thần thảm bại của binh lính vấn đề đáng nguyền rủa của đời sống, tạo Mĩ, tiêu biểu là tiểu thuyết Bông hoa của thành một bức tranh hoàn chỉnh mô tả về con rồng (1972) của R. Boille viết về 39
  5. CHIẾN TRANH VIỆT NAM TRONG VĂN HỌC MĨ những vụ giết sĩ quan và nổi loạn trong ta của H. Russell, Sinh ngày 4 tháng 7 của quân đội hay Kết liễu cuộc đời (1968) của John Cowike thì nói về những thanh niên Michell đã đi sâu hơn nữa vào những nổi bị chiến tranh làm tàn phế và sự căm phẫn loạn của rất nhiều binh lính Mĩ ở Việt của họ đối với chính phủ Mĩ. Từ địa ngục Nam. Các tiểu thuyết Những điều sửa đổi – trở về của A. Murthy hay Người anh hùng 22 (1969) của D. Keller, Chiếc giường có một trăm gương mặt của J. Cambell, Câu tre (1969) của Yalker và Trung tâm chuyện Pacô của Larry Heneman đều Kachiater (1975) của T. Brael lại miêu tả chung âm hưởng nói về sự vô nghĩa, thất những hành vi kì quặc của người lính, kẻ bại của cuộc chiến tranh Việt Nam. thì thu mình lại, kẻ thì hóa điên. Bên cạnh đó, phần lớn tiểu thuyết Ngoài ra, còn có một số tác phẩm có cũng đều nói về một dạng chung thường giá trị khác như Quân đội màu xanh (Army thấy của “hội chứng Việt Nam”, đó là khai Blue-1989) của Lucian K. Truscott IV, Cái thác tâm lí phức tạp, hỗn loạn của cựu mề đay (The Mdallion-1989) của John chiến binh Mĩ, sự săn đuổi của quá khứ, sự Ams, Giấc mơ lửa (The Fire Dream-1989) dằn vặt về những tội ác mà mình đã gây ra. của Franklin Allen Leib, Những gì mà họ Hội chứng chiến tranh Việt Nam đã khiến mang theo (The Things They Carried- họ không hòa nhập được với cuộc sống 1990) của Tim O’Brien, Giấc mộng bình thường, bị ám ảnh bởi cuộc chiến, về Phantom (The Phantom Blooper-1990) của cái chết và cả những gì họ đã làm, họ mang Gustar Hasford... tâm hồn bị tổn thương bởi chiến tranh. Các tác phẩm khác, chẳng hạn như Những người lính Mĩ sau khi trở về mang Trong nước (In Country-1984) của Bobbie một thân thể tàn tạ, ý chí mệt mỏi, mất Ann Mason và Câu chuyện của Paco lòng tin vào đất nước, sống không có mục (Paco’s Story-1987) của Larry Heinemann đích. Nhân vật Ron (Sinh ngày 4-7), Steve lại chú tâm vào những câu chuyện về các (Trời và đất), Jeremy (Cuộc chiến trong gia cựu chiến binh cố gắng để hòa nhập lại với đình) sau khi trở về nhà, về với cuộc sống cuộc sống đời thường. Tuy nhiên, cũng đời thường đều có nỗi ám ảnh bởi những như phần đa sự phản ánh trong các tác cảnh giết chóc - một cơn ác mộng khủng phẩm hậu chiến khác, các nhân vật chính- khiếp luôn đi theo họ từng ngày. Có người những người lính trở về từ chiến tranh tự chữa trị cho căn bệnh tâm lí của mình trong những tác phẩm này đều nhận ra rằng bằng cách tìm một mục đích sống, một họ là nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn hành động nào đó để có thể dũng cảm đối khốc mà chính phủ Mĩ đã đẩy họ vào và mặt với quá khứ, thừa nhận quá khứ và dần đúng như S. Freedman đã từng nhận xét quên được quá khứ (nhân vật Michael, Ron rằng phần lớn họ: là những con người sống và Jeremy), nhưng cũng có người tự giải sót đã chiến đấu trong cảnh tồi tệ và trở về thoát bằng con đường tự sát (nhân vật sống trong một nước Mĩ kinh hoàng. Tiểu Steve), một cái chết bi thảm của một tâm thuyết Máu Mĩ của John Nicholair đã lên hồn tội lỗi không thể thoát khỏi cơn ác án sự tàn bạo của cuộc chiến tranh, chỉ mộng của mình. Đúng như nhận xét của thẳng “nước Mĩ là tên sát nhân của thế các nhà nghiên cứu, những người lính trở giới, là cái chợ bán thịt của trần gian”. về từ chiến tranh Việt Nam đã phản ánh hi Những năm tháng đẹp nhất của chúng vọng của một nền văn hóa Mĩ với sự sợ hãi 40
  6. TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ sâu lắng, và sự ghi nhận chắc chắn, xác TÀI LIỆU THAM KHẢO thực về đời sống nước Mĩ hiện đại. Họ là A. Tài liệu tham khảo tiếng Việt: những gương mặt, những hồi tưởng, kỉ 1. Lê Đình Cúc (1991), “Cựu chiến binh Mĩ trong niệm trong nghệ thuật và lịch sử về một chiến tranh Việt và một số tiểu thuyết Mĩ gần dân tộc tự nhận thức về mình. Và cho đến đây”, Tạp chí Văn học, số 5-1991. tận bây giờ, đề tài này vẫn đang được các 2. Nguyễn Hồng Dũng (2006), “Chiến tranh Việt nhà văn Mĩ tiếp tục khai thác. Nam trong văn học Mĩ – từ sự thật đến tác phẩm”, 3. Kết luận Tạp chí Sông Hương, số 205 - 03 – 2006. Kể từ đại thắng mùa xuân 30/04/1975 3. Báo Thanh niên, phát hành ngày 16.11.1997, của Việt Nam khép lại cuộc chiến tranh tàn Danh Đức dịch từ Bộ NAM. khốc, phi nghĩa của quân đội Mĩ tại chiến 4. Tạp chí Văn nghệ quân đội, số Tháng 12.1990 trường này, người Mĩ đã thu về những bài & số Tháng 5.1991. học đắt giá, cảnh tỉnh “người Mĩ phải sống 5. Viện thông tin KHXH (1991), “Việt và như thế nào và đừng để xảy ra một cuộc Apganixtan: Cuộc sống và văn học”, Cái mới chiến tranh nào giống như ở Việt Nam trong khoa học xã hội, số 17.1991. nữa”. Văn học đã làm tròn bổn phận của mình là tấm gương phản ánh trung thực B. Tài liệu tham khảo tiếng Anh: hiện thực cuộc sống và đời sống tâm hồn 6. Beidler, Philip D. (1982), American Literature con người. Những mất mát, đau đớn, tổn and the Experience of Vietnam, Athens: University of Georgia Press. thương, những bi kịch của con người trong 7. Hellmann, John (1986), American Myth and và sau chiến tranh được phản chiếu trong the Legacy of Vietnam, New York: Columbia bộ phận văn học về chiến tranh của Việt University Press. Nam, Mĩ và còn nhiều nước khác nữa trên 8. Herzog, Tobey C. (1992), Vietnam War thế giới nhắc chúng ta luôn ghi nhớ về sự Stories: Innocence Lost, London: Routledge. giữ gìn một cuộc sống hòa bình- đó mới 9. Taylor, Mark (2003), The Vietnam War in chính là huyền thoại lớn nhất và mãi mãi History, Literature, and Film, Tuscaloosa: mà con người hướng đến. University of Alabama Press. Ngày nhận bài: 30/12/2014 Biên tập xong: 15/9/2015 Duyệt đăng: 20/9/2015 41
nguon tai.lieu . vn