Xem mẫu

  1. HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016 CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC GIẢNG DẠY VẬT LÍ CẤP THPT TẠI HÀ NỘI Hà Lam Sơn Sở Giáo Dục Hà Nội I. Những tồn tại 1. Về nhận thức của giáo viên Một số không nhỏ giáo viên vẫn coi mục tiêu giờ dạy trên lớp là “dạy hết những gì trong SGK viết”, dập khuôn cứng nhắc những bước mà SGK, SGV gợi ý hướng dẫn thực hiện; ỷ lại vào các trang thiết bị dạy học, những thí nghiệm đã mua sắm của nhà trường... dẫn đến quá tải trong việc thực hiện giờ dạy trên lớp. Bên cạnh đó tâm lý dạy học đối phó với các kì thi quốc gia, luyện cho HS quen với cách làm bài thi trắc nghiệm khách quan dẫn đến xa rời bản chất Vật lí trong bài dạy, hoàn toàn bỏ quên rèn luyện kĩ năng thực hành, kĩ năng hoạt động nhóm, kĩ năng nghiên cứu khoa học. 2. Về kiến thức môn học và trình độ đội ngũ Hệ thống các câu hỏi đánh giá trong SGK còn hạn chế, chưa chọn lọc, chưa liên hệ gắn liền với những vấn đề của thực tiễn như giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giáo dục ứng phó với sự biến đổi khí hậu, giáo dục kĩ năng sống...; chưa có sự vận dụng hiệu quả vào đời sống xã hội và gắn liền với cuộc sống hiện tại. SGK chưa thể hiện được sự phân công hướng dẫn giúp học sinh tự học, tự nghiên cứu ở nhà; các thí nghiệm, phương tiện hỗ trợ bài học còn chưa thật phù hợp với điều kiện dạy học ở các vùng miền và từng địa phương cũng như đối tượng học sinh. Năng lực của giáo viên trong việc tiếp cận đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá còn hạn chế, không đồng đều ở các trường, các nhất là năng lực hướng dẫn sử dụng các thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin và kĩ năng sử dụng thiết bị dạy học môn Vật lí. Phương pháp dạy học của giáo viên còn gượng ép, thiếu sự sáng tạo coi nặng hình thức, chủ yếu lên lớp là thầy dạy gì và chưa lấy người học làm trung tâm trong quá trình nhận thức, còn lặp lại nhiều tài liệu trong việc truyền đạt giúp học sinh tự xây dựng kiến thức, rèn luyện kĩ năng. Năng lực làm thí nghiệm và hướng dẫn thực hành của một bộ phận giáo viên rất hạn chế, những chế tài cho GV sử dụng, bảo quản và cải tiến thiết bị thí nghiệm, nhất là thí nghiệm tự làm và việc đầu tư cơ sở vật chất xây dựng phòng học bộ môn Vật lí... còn hạn chế 3. Về sử dụng các PPDH GV mới chỉ quan tâm đảm bảo đủ nội dung bài học, còn lúng túng trong vận dụng PPDH cho phù hợp với HS hay phát huy năng lực của tất cả các HS. Các GV vẫn còn thuyết trình nhiều, thậm chí áp đặt cách hiểu của mình tới HS. Nhiều GV còn lạm dụng phương pháp vấn đáp thậm chí cả giờ học chỉ tiến hành hỏi và cho HS đọc SGK để trả lời. 40
  2. HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016 Tổ chức hoạt động thảo luận nhóm được sử dụng nhiều nhưng còn hạn chế vì : chia nhóm quá đông; chỉ một vài cá nhân trong nhóm được tham gia; thời gian thảo luận quá nhanh; các câu trả lời thường có sẵn trong SGK nên HS chỉ cần chép lại một cách thụ động. Mặc dù trình độ nhận thức của HS không đồng đều nhưng dạy học vẫn tiến hành chung cho cả lớp, không thấy rõ sự phân loại từng đối tượng HS. 4. Về điều kiện cơ sở vật chất, TBDH Sự hỗ trợ của các TBDH mang lại hiệu quả cao trong các giờ học, kích thích hứng thú học tập cho HS. Nó giúp học sinh chủ động nắm bắt kiến thức, tin vào chân lí khoa học đồng thời giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, truyền thụ cho học sinh tri thức và các kĩ năng làm việc khoa học. Tuy được quan tâm trang bị về điều kiện CSVC và TBDH nhưng hệ thống các trường THPT ở Hà Nội còn các tồn tại sau đây: Điều kiện phòng học, phòng học bộ môn, kho thiết bị... ở một số nơi còn hạn chế. Thiết bị dạy học chưa được mua sắm đầy đủ, chưa được sử dụng hiệu quả. Môi trường thực hành chưa tốt, chưa thân thiện đối với GV và HS. Trong 208 trường THPT trên địa bàn Hà Nội hiện nay chỉ có 28 nhân viên phòng thí nghiệm Vật lí quen việc và được đào tạo ngắn hạn. Số còn lại đều là các nhân viên kiêm nhiệm, phải cùng lúc phụ trách trang thiết bị dạy học cho nhiều môn học. Viên chức làm thiết bị chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến GV quá mệt mỏi trong việc chuẩn bị phương tiện, thiết bị dạy học và nhiều thiết bị dạy học hiệu suất sử dụng không cao. Đa số các GV đã nhận thức và có ý thức sử dụng TBDH để tăng cường hiệu quả cho đổi mới PPDH tuy nhiên kĩ năng sử dụng của GV còn hạn chế. Hầu hết các GV lớn tuổi lúng túng khi sử dụng các thiết bị hiện đại; các giáo viên trẻ tuổi không có kinh nghiệm sử dụng đồ dùng thí nghiệm và không thể khắc phục những trục trặc thường gặp. Điều kiện tham quan dã ngoại tìm hiểu thực tiễn còn hạn chế về thời gian và kinh phí. 5. Thực trạng về kiểm tra – đánh giá kết quả dạy học môn Vật lí Đầu giờ, GV thường kiểm tra việc nhớ bài cũ, soạn bài mới của HS. Nếu HS nói đúng hoặc thuộc lòng GV thường cho điểm cao và ít khi hỏi thêm. Ở những hoạt động này, GV thường không nhận xét kĩ năng của học sinh như kĩ năng trình bày, kĩ năng giao tiếp..... Trong giờ học việc kiểm tra đánh giá học sinh thường được GV thực hiện bằng nhiều hình thức như gọi lên bảng, trả lời câu hỏi hay chữa bài tập, viết câu trả lời vào phiếu hỏi của GV. Câu hỏi phát vấn hoặc bài tập GV đưa ra trong giờ thường không quá khó hoặc có sẵn câu trả lời trong SGK. HS chỉ cần nêu lại đầy đủ những gì có trong SGK là GV chấp nhận. GV ít phân tích những câu trả lời hay sửa lỗi trả lời cho HS mà chủ yếu nhắc lại câu trả lời của HS (nếu đúng) và không kiểm tra xem học sinh ghi chép thế nào. Một số ít GV có chú ý tới việc khuyến khích HS theo dõi, nhận xét và sửa lỗi câu trả lời của các bạn. Số GV này mạnh dạn khen ngợi HS cho dù câu trả lời của các em là đúng hay chưa đúng vì theo họ, HS khi nhận xét, trả lời sai không cảm thấy tự ti, chản nản mà vẫn tích cực suy nghĩ tìm ra câu trả lời đúng. 41
  3. HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016 GV thường cho điểm cá nhân HS trong kiểm tra miệng đầu tiết học, ít cho điểm HS trong quá trình tham gia xây dựng bài. Đôi khi GV cũng cho điểm với cả nhóm HS. Tuy đánh giá HS trong giờ học không phải là yêu cầu bắt buộc song các GV đều nhận thức được “bên cạnh các bài thi và kiểm tra định kì, đánh giá trong giờ học có vai trò quan trọng đối với hoạt động dạy học” và họ đã nỗ lực thực hiện nhưng gặp nhiều khó khăn: chưa được hướng dẫn cụ thể, HS chưa được rèn luyện kĩ năng tự đánh giá, thời gian cho một tiết học không linh hoạt... Trên thực tế, HS chỉ nhận được điểm số cuối cùng và những lời nhận xét sơ lược của GV ở mỗi bài kiểm tra. Với các HS làm đúng các em không biết cách làm thế nào để lần sau có kết quả tốt hơn. Đối với bài làm sai HS có thể biết hoặc không biết lí do dẫn đến sai sót đó. Nguyên nhân chính là do GV chưa đưa ra đáp án và yêu cầu đạt được ở mỗi câu hỏi, bài tập để học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. GV cũng chưa ý thức được tầm quan trọng của các lí giải cho những điểm số mang ý nghĩa sư phạm cao hơn và nó thực sự giúp HS cải thiện quá trình học tập. Việc thực hiện hoạt động đánh giá trong giờ học chưa nhuần nhuyễn, đôi khi mang tính hình thức nặng về trình diễn cho người dự giờ. II. Biện pháp đã triển khai 1. Chỉ đạo thực hiện xây dựng kế hoạch dạy học dựa trên chuẩn kiến thức kĩ năng môn học. Căn cứ vào Chuẩn KTKN để trong dạy học, chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực hành động, vận dụng kiến thức, tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống. Chỉ đạo các cuộc thi khoa học ứng dụng trong học sinh cấp trường, cụm trường, toàn thành phố nhằm dấy lên phong trào nghiên cứu các môn khoa học ứng dụng. Phát động Hội thi Giáo viên dạy giỏi môn Vật lí trong đó lấy việc tích hợp các kiến thức khoa học của các môn văn hóa khác là một tiêu chí đánh giá. Chỉ đạo trong nội dung sinh họat tổ, nhóm chuyên môn có thảo luận, trao đổi nhằm rà soát lược bỏ phần kiến thức trùng lặp, phối hợp hoạt động dạy học môn Vật lí với các môn khoa học khác. Tổ chức các cuộc hội thảo cấp trường, cụm trường, thành phố trong đó có sự góp mặt của các giáo viên các môn khoa học tự nhiên và các chuyên gia khoa học, chuyên gia giáo dục nhằm phát hiện ra những điều trùng lặp, những kiến thức chưa được giải thích rõ ứng dụng trong thực tế từ đó đưa ra những phương án tháo gỡ hợp lí. Tăng cường hoạt động ngoại khóa, tham quan những cơ sở khoa học bồi dưỡng cho học sinh năng lực vận dụng và khám phá tri thức. 2. Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm: Phương pháp giảng dạy, kĩ thuật dạy học, kĩ năng sư phạm. Bồi dưỡng trình độ chuyên môn: Các kiến thức chuyên môn, cập nhật các kiến thức hiện đại, liên hệ với thực tiễn 42
  4. HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016 Bồi dưỡng các kiến thức bổ trợ: tin học, ngoại ngữ, phương pháp nghiên cứu khoa học... Các nội dung này được bồi dưỡng thông qua chương trình bồi dưỡng thường xuyên do Bộ và Sở tiến hành, các khóa tập huấn, các sinh hoạt hội thảo, chuyên đề và quá trình tự học của mỗi GV. * Sở Giáo dục & Đào tạo Hà Nội tiến hành tập huấn cho giáo viên cốt cán có quan tâm đến: Mục tiêu, nội dung, đối tượng, điều kiện bồi dưỡng phù hợp với nội dung và thời lượng tập huấn. Xây dựng kế hoạch chi tiết đợt bồi dưỡng, tập huấn (thời gian, địa điểm, số lượng, yêu cầu) Xác định nhu cầu, đánh giá kết quả đợt bồi dưỡng thông qua các mẫu phiếu thăm dò, khảo sát ( trước và sau đợt bồi dưỡng)… Chú ý đến việc tổ chức các hoạt động của GV, giảng viên nói ít, tạo điều kiện cho tất cả GV đều được suy nghĩ nhiều, làm nhiều và nói nhiều. Tăng cường tính thực hành trong đợt tập huấn. Phát huy tính chủ động sáng tạo của GV trong đợt tập huấn. * Hoạt động bồi dưỡng tại cơ sở: Hoạt động dạy học hiện nay được hỗ trợ rất nhiều từ các hoạt động chuyên môn ở các cụm trường, khu vực quận huyện. Ở các cụm này được khuyến khích từ Sở và BGH các trường sinh hoạt chuyên đề hàng tháng. Nội dung các buổi sinh hoạt chuyên đề này thường là trao đổi kinh nghiệm dạy một bài học có nhiều tình huống; bài có nội dung khó; bài có phương án sử dụng TBDH hiệu quả; trao đổi đề và ma trận đề. Sở luôn khuyến khích các buổi sinh hoạt chuyên đề mà trong đó có sự trao đổi và chia sẻ về kinh nghiệm dự giờ, đánh giá giáo viên, đánh giá học sinh. Sở đã chỉ đạo các đơn vị giáo dục tăng cường trao đổi kinh nghiệm, thông tin, liên lạc qua mạng Internet cổng hanoi.edu. Đã có những trường tiến hành học tập và giao lưu trực tuyến với hệ thống trường THPT các tỉnh bạn và trên thế giới. Rất nhiều các giáo viên đã chia sẻ nguồn tài nguyên phong phú làm giàu kiến thức bản thân từ đó hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ khi đứng lớp. 3. Chỉ đạo đổi mới sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy học Tổ chức sinh hoạt chuyên môn định kì một cách nghiêm túc: Các nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn cần phong phú, thiết thực phục vụ cho công tác cải tiến, nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, động viên tinh thần cầu thị trong tự bồi dưỡng của giáo viên, giáo dục ý thức khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp. Đẩy mạnh hình thức sinh hoạt tổ chuyên môn theo các chuyên đề, đặc biệt là các chuyên đề về nâng cao, mở rộng kiến thức bộ môn; sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn theo nghiên cứu bài học chuyên đề về bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu; chuyên 43
  5. HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016 đề về ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo dục; chuyên đề về nghiên cứu khoa học, chuyên đề về sử dụng các phương tiện thiết bị dạy học… Trong bồi dưỡng cho GV về PPDH phải chú trọng huấn luyện các kĩ thuật dạy học tích cực và cách thức vận dụng chúng trong các điều kiện hoàn cảnh khác nhau; giúp GV biết lựa chọn các PPDH và tổ chức giờ học tích cực. Hướng dẫn GV soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp: Soạn bài là lao động sáng tạo của người GV nhằm tìm tòi, suy nghĩ, lựa chọn, quyết định mục tiêu (kiến thức, kĩ năng, thái độ), nội dung, phương tiện, phương pháp, hình thức lên lớp… của bài học phù hợp với các đối tượng HS của lớp, các lớp. Giúp GV xác định rõ đặc điểm học tập của HS là một trong những điều cần quan tâm để giúp GV có thể thực hiện dạy học tích cực và có chất lượng. Định hướng trong chuẩn bị tư liệu giảng dạy: Với mỗi bài giảng đã xác định rõ chủ đề và mục tiêu, GV phải chuẩn bị đầy đủ các tư liệu phục vụ cho bài giảng đó. Muốn vậy, cần giúp GV phải biết nguồn tư liệu (khai thác ở đâu) và mục đích sử dụng (khai thác cái gì) của những tư liệu đó. Qui định về viết kế hoạch bài giảng: Tổ trưởng có thể bàn bạc để đưa ra những quy định các bước soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp, chuẩn bị kiểm tra, đánh giá, xếp loại giáo án, kế hoạch giảng dạy, sổ báo giảng ; Tổ trưởng phải tham mưu đề xuất xây dựng thời khóa biểu khoa học, hợp lí để GV có thời gian soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp, sử dụng được thiết bị, đồ dùng dạy học trong cùng buổi dạy ở nhiều lớp; đồng thời tạo điều kiện để HS nắm vững bài cũ và chuẩn bị bài mới. Cùng với hướng dẫn giáo viên đổi mới PPDH phải thực hiện đổi mới hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người học. Hướng dẫn giáo viên thực hiện đánh giá theo quá trình. Đa dạng hoá các hình thức kiểm tra đánh giá; Kiểm tra đánh giá để phân loại học sinh, làm cơ sở cho việc áp đụng các phương pháp dạy học phù hợp; thực hiện dạy học cá thể hoá, hỗ trợ học sinh học tập. Hướng dẫn để giáo viên biết sử dụng kết hợp các hình thức và phương pháp đánh giá: trong giờ, ngoài giờ; chính thức, không chính thức; qua sản phẩm, báo cáo; kết hợp định tính và định lượng. Sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan; kết hợp kiểm tra cá nhân với kiểm tra theo nhóm; Kiểm tra theo chủ đề; kiểm tra không chỉ là viết ra giấy mà có thể là thể hiện cách hiểu, các kiến thức về bài học của mình qua tranh, ảnh, phim… 4. Tăng cường sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học, chú trọng thiết bị dạy học tự làm và ứng dụng phương tiện công nghệ trong dạy học. * Khai thác đồ dùng dạy học được trang bị trong nhà trường: Xây dựng qui định sử dụng thiết bị dạy học: Tất cả các giáo viên tham gia giảng dạy phải biết sử dụng thiết bị dạy học, phải ghi rõ tên thiết bị dạy học vào giáo án ở phần chuẩn bị. 44
  6. HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016 Việc sử dụng thiết bị dạy học là thực hiện quy chế chuyên môn, nếu giáo viên nào cố tình vi phạm sẽ bị xử lí theo quy định. Ban giám hiệu phải kí duyệt vào sổ đăng kí mượn đồ dùng dạy học của từng giáo viên, đánh giá nhận xét khen chê kịp thời. Gắn việc sinh hoạt chuyên môn với việc sử dụng thiết bị dạy học. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tuần, hàng tháng, các đồng chí tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn có trách nhiệm hướng dẫn, giới thiệu các đồ dùng dạy học của trường, có thể sử dụng hiệu quả trong các tiết dạy của tổ, nhóm, khối, lớp. Ban giám hiệu cần tăng cường công tác dự giờ thăm lớp để kiểm tra việc sử dụng thiết bị dạy học của giáo viên, tránh “dạy chay”. Phân công giáo viên trực tiếp dạy các phân môn sắp xếp đồ dùng dạy học theo các thứ tự tiết dạy. Tạo điều kiện về thời gian, kinh phí cho nhân viên phòng đồ dùng tham gia các lớp tập huấn để học tập nâng cao nghiệp vụ quản lí đồ dùng, trang thiết bị dạy học. Sau mỗi năm học phải có kế hoạch kiểm kê toàn bộ số đồ dụng thiết bị dạy học hiện có, đánh giá chất lượng của các thiết bị dạy học để có phương án bổ sung thay thế cho các năm học sau. Quan tâm, tạo mọi điều kiện kinh phí để mua sắm, bảo dưỡng trang thiết bị dạy học . * Chỉ đạo phong trào tự làm đồ dùng dạy học Phát động phong trào thi đồ dùng dạy học tự làm, đây là một hoạt động sư phạm mang tính sáng tạo cao, phù hợp với cuộc vận động của công đoàn giáo dục Hà Nội “ Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học sáng tạo”. Yêu cầu về thiết bị dạy học là rất lớn nhưng trong điều kiện kinh phí còn hạn chế thì phát động đồ dùng dạy học tự làm có ý nghĩa rất thiết thực. Đồ dùng dạy học tự làm thường bằng các nguyên liệu dễ lấy, dễ kiếm nhưng tính ứng dụng đạt hiệu quả cao. Thông qua hội thi phát huy tính sáng tạo trí tuệ, tâm huyết của giáo viên, đồng thời bổ sung được một số lượng đáng kể cho nguồn thiết bị dạy học được cấp còn thiếu, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Dần dần hình thành ý thức thường xuyên nghiên cứu tự làm đồ dùng dạy học của giáo viên. Các biện pháp: Phát động kế hoạch thi làm đồ dùng dạy học ở các Trường, tổ chuyên môn từ đầu năm học trong hội nghị Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm học. Đề nghị trong bảng điểm thi đua của công đoàn, chính quyền đánh giá giáo viên cuối học kì, cuối năm học: Có điểm cộng thưởng, điểm trừ giáo viên về tham gia phong trào tự làm đồ dùng dạy học Yêu cầu Nhà trường hỗ trợ kinh phí cho đồ dùng dạy học tự làm. Đưa những giáo viên có chuyên môn vững vàng, kinh nghiệm và đã có đồ dùng dạy học tự làm dự thi các cấp vào Ban giám khảo hội thi Đồ dùng dạy học. Ban giám khảo phải công tâm nghiêm túc, bám sát biểu điểm, tiêu chí, chấm chính xác, có định hướng tư 45
  7. HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016 vấn để chọn được những đồ dùng dạy học tự làm xứng đáng đạt giải nhất của trường, tham gia cấp quận và thành phố. Đảm bảo tính mục tiêu và phương pháp trong việc xây dựng hoạt động dạy học có sự hỗ trợ của phương tiện công nghệ (PTCN) gồm Mục tiêu hoạt động: Theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Mục tiêu của hoạt động phải rõ ràng, đúng trọng tâm bài giảng đảm bảo cả về kiến thức, kĩ năng cũng như thái độ hành vi và tích hợp các nội dung giáo dục khác trong bài giảng. Thiết bị và phương tiện dạy học: xác định được phương tiện dạy học trình chiếu, các tư liệu đã xây dựng, thiết bị thí nghiệm, đồ dùng dạy học cho các hoạt động. Thời gian thực hiện: phải đảm bảo tính khả thi. Phương pháp sư phạm: lựa chọn PP tổ chức, dự kiến các kênh dạy học linh hoạt. Trên cơ sở đó đưa ra được các hoạt động học của HS và hoạt động trợ giúp của GV trong quá trình tổ chức hoạt động nhận thức. Phương pháp KTĐG: Từ mục tiêu và tổ chức nhận thức, GV phải chú ý xây dựng và dự kiến phương pháp KTĐG kết quả học tập của HS. Xác định được các hoạt động dạy học có hỗ trợ của PTCN Thông thường để tổ chức hoạt động dạy học, GV cần tuân theo các ý tưởng sư phạm của mình. GV cần xem xét trong tất cả các hoạt động dạy học, hoạt động nào cần hỗ trợ của PTCN thì hiệu quả, hoạt động nào thì không cần thiết. Cần đánh giá nội dung sư phạm, tính chính xác khoa học, logic của sự nhận thức cũng như quỹ thời gian dành cho mỗi hoạt động dạy học, tích hợp các nội dung giáo dục khác vào bài giảng, vận dụng liên hệ thực hiễn một cách hấp dẫn sinh động làm phong phú cho bài giảng. Lựa chọn và xây dựng các tư liệu ảo: mô phỏng quá trình, thí nghiệm ảo phải đảm bảo sát thực tiễn, chính xác và mang tính khoa học. Cần vận dụng, kiểm nghiệm và liên hệ thực tiễn trong qua trình nghiên cứu những hiện tượng này, tránh ứng dụng PTCN làm HS hiểu sai tính khoa học và thực tiễn của sự vật hiện tượng. * Chú ý đến sự tương tác thầy - trò khi ứng dụng PTCN Đảm bảo được mối liên kết tương tác giữa thầy và trò thông qua tổ chức hoạt động bằng các phương tiện, tư liệu có sự hỗ trợ của PTCN. Việc sử dụng PTCN phải đảm bảo nhẹ nhàng, thú vị hứng thú, tập trung vào mục đích người học, tránh gây nên ức chế, ngắt quãng trong qua trình học tập của HS. Xây dựng hoạt động củng cố kiến thức, kiểm tra đánh giá tiếp thu bài giảng đảm bảo đúng trọng tâm và đánh giá được sự vận dụng sáng tạo của HS trong giải quyết các tình huống thực tiễn. Đảm bảo lựa chọn và sử dụng kênh chữ, kênh hình, kênh tiếng và thực hành thí nghiệm trong các hoạt động dạy học một cách thích hợp và hiệu quả 46
  8. HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016 Xác định và sử dụng linh hoạt có hiệu quả giữa các kênh tiếng, kênh chữ, kênh hình và thực hành thí nghiệm trong mỗi hoạt động dạy học: Việc khai thác hợp lí, có hiệu quả các đồ dùng dạy học và các phương tiện công nghệ trên lớp tạo ra một giờ học hiện đại, hấp dẫn không chỉ truyền thụ tri thức, trang bị kĩ năng cho học trò mà còn thắp được cho các em ngọn say mê khoa học. 5. Chỉ đạo đổi mới đánh giá kết quả dạy học nhằm khích lệ giáo viên dạy học hiệu quả * Đối với cán bộ quản lí: Xây dựng kế hoạch cụ thể về đánh giá chất lượng DH dựa trên cơ sở các văn bản hướng dẫn đánh giá, quản lí chất lượng của Bộ và Sở. Xây dựng các tiêu chí thi đua cụ thể đánh giá đúng, động viên khuyến khích GV, tăng cường nhận thức cho mỗi GV cần đổi mới cách kiểm tra, đánh giá HS. Tổ chức học tập, thảo luận trong GV các văn bản qui định về kiểm tra, đánh giá HS Huy động đội ngũ GV xây dựng ngân hàng đề đảm bảo chất lượng, tính phân loại. Tổ chức giám sát nghiêm túc các giờ kiểm tra, thi học kì, kiểm tra việc chấm bài và trả bài theo đúng qui chế; chỉ đạo tổ chuyên môn kiểm tra thường xuyên hồ sơ cá nhân của mỗi GV. Đổi mới hoạt động dự giờ để hỗ trợ chuyên môn cho GV: Dự giờ phải chú trọng đến việc tư vấn và thúc đẩy việc phát triển chuyên môn. Cán bộ quản lí phải giúp giáo viên có thái độ tích cực khi tham gia dự giờ và được dự giờ. Xây dựng kế hoạch tổ chức dự giờ khoa học, thực hiện tốt các khâu chuẩn bị dự giờ và sau dự giờ, nhất là các hoạt động tư vấn và sửa chữa sau khi có kết luận về giờ dự. Dự giờ không chỉ để đánh giá giáo viên mà còn là một hoạt động để hỗ trợ giáo viên về chuyên môn rất hiệu quả. Người quản lí chuyên môn cần tổ chức nhiều hình thức dự giờ khác nhau như: dự giờ báo trước, dự giờ đột xuất, dự giờ thao giảng… Sau mỗi tiết dự giờ, tổ trưởng phải tổ chức góp ý giờ giảng một cách nghiêm túc, thẳng thắn, dân chủ nhằm trao đổi kinh nghiệm cho nhau, học hỏi lẫn nhau góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên. Phải nói rằng, đây là một hoạt động quan trọng trong trường trung học nhằm cải tiến, ứng dụng các phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng của đội ngũ thầy cô giáo một cách hiệu quả và thiết thực. Đối với mỗi giáo viên, chất lượng của người giáo viên khi đứng lớp được đánh giá thông qua các nội dung: Nắm vững nội dung chuẩn KTKN, nguyên tắc đổi mới PPDH theo chuẩn KTKN, cách thức hướng dẫn HS lựa chọn phương pháp học tập, coi trọng tự học và biết xây dựng các tài liệu chuyên môn phù hợp. Phải nắm vững các qui định trong việc đổi mới đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của HS. Coi trọng và đề cao công tác học tập kiến thức và kinh nhiệm trong các kì tập huấn, thi giáo viên giỏi, giao lưu với các cơ sở giáo dục khác. 47
  9. HỘI NGHỊ GIẢNG DẠY VẬT LÍ TOÀN QUỐC Hà Nội, 06 – 11 – 2016 Nắm chắc điều kiện của trường để có thể khai thác hiệu quả việc truyền thụ kiến thức và đổi mới PPDH: CSVC; phương tiện, TBDH; tài liệu tham khảo... Biết và tranh thủ được những ai có thể giúp đỡ mình trong việc đổi mới PPDH, nâng cao kiến thức : đồng nghiệp, lãnh đạo tổ chuyên môn, lãnh đạo trường có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn vững vàng, sâu sắc. Biết cách tiếp nhận những thông tin phản hồi từ sự đánh giá nhận xét xây dựng của HS về kiến thức truyền đạt trên lớp, PPDH và GD của mình; kiên trì phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu, tự tin, không tự ti hoặc chủ quan thỏa mãn. Hướng dẫn HS về phương pháp học tập: biết cách tự học; tiếp nhận kiến thức và rèn luyện kĩ năng, tự đánh giá kết quả học tập; tự giác; hứng thú học tập. III. Kết luận. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, Bộ môn Vật lí của Sở SG&ĐT Hà Nội đã có quy mô phát triển, chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn tương đối ổn định, phát triển, đáp ứng được nhu cầu học tập ngày càng cao. Các tiêu chí đánh giá của Bộ đề ra đều đạt được ở mức độ cao. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá đã được các đơn vị thực hiện nghiêm túc, có chất lượng. Thực hiện nghiêm túc hướng dẫn cho điểm và đánh giá xếp loại học sinh đảm bảo theo đúng hướng dẫn của Bộ GDĐT; công tác tổ chức các kì thi giáo viên dạy giỏi, thi học sinh giỏi QG, thi THPTQG hàng năm đảm bảo duy trì chất lượng đại trà và phát triển mũi nhọn. Tổ chức các kì tuyển chọn học sinh giỏi nghiêm túc, đạt kết quả tốt, đặc biệt là tuyển chọn các đội tuyển Hà Nội thay mặt Việt Nam dự thi các môn khoa học trẻ Quốc tế, thi Olympic Quốc tế năm 2016 đạt kết quả cao. 48
nguon tai.lieu . vn