Xem mẫu

CẢM QUAN VÀ CÁCH HÀNH XỬ VỀ THỜI GIAN
TRONG THƠ HÁT NÓI NGUYỄN CÔNG TRỨ
TRẦN THỊ THANH NHỊ
Trường Đại học sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Nguyễn Công Trứ là một tác giả có vai trò đặc biệt trong văn học
Việt Nam. Sự xuất hiện của ông đã góp phần hoàn thiện và làm phát triển lên
đến đỉnh cao thể loại hát nói. Trong thơ văn cổ điển, hiếm có tác giả nào có
nỗi niềm ám ảnh khôn nguôi về thời gian như Nguyễn Công Trứ. Thơ hát
nói của ông thể hiện sự cảm nhận về thời gian vũ trụ tuần hoàn và sự tự ý
thức về thời gian hữu hạn kiếp người. Lập công danh, vui chơi, hưởng lạc,
sống hết mình, sáng tạo nghệ thuật là những giải pháp, cách hành xử ông đề
xuất cho con người trong dòng thời gian tuôn chảy. Cuộc đời ông như là một
minh chứng cho sự làm chủ cao độ về thời gian để đạt được những kết quả
cao nhất không chỉ trong công danh, sự nghiệp mà cả trong sáng tạo nghệ
thuật, lưu danh thiên cổ.

Thời gian nghệ thuật là một phần cấu tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Thông qua cảm nhận
và cách xây dựng thời gian của tác giả trong tác phẩm, người đọc có thể một phần hiểu
được những thông điệp nghệ thuật tác giả muốn chuyển tải “thể hiện sự cảm thụ độc
đáo của tác giả về phương thức tồn tại độc đáo của con người trong thế giới” [2, tr.
323]. Nguyễn Công Trứ là một tác giả có vai trò đặc biệt trong văn học Việt Nam. Sự
xuất hiện của ông đã góp phần hoàn thiện và làm phát triển đến đỉnh cao thể loại hát
nói. Trong địa hạt này hồn thơ ông như cánh diều được bay lượn trong bầu trời xanh
khoáng đạt, tự do. Khác với các thể loại thơ trung đại khác thường nhằm chở đạo, hát
nói là thứ văn chương được viết ra nhằm nhu cầu giải trí, nó thường hướng đến những
giá trị nhân sinh, hưởng thụ, đời thường. Trong thơ văn cổ điển, hiếm có tác giả nào có
nỗi niềm ám ảnh khôn nguôi về thời gian như Nguyễn Công Trứ. Có lẽ chính sự ý thức
sắc nhọn về thời gian mà ông đã có một sự nghiệp lẫy lừng không chỉ trong chính trị mà
cả trong nghệ thuật như một cách lưu danh với đời. Chính vì thế mà hôm nay chúng ta
được biết đến ông - Nguyễn Công Trứ - “Ông hoàng thơ hát nói” (chữ dùng của
Nguyễn Viết Ngoạn).
1. SỰ TUẦN HOÀN CỦA THỜI GIAN VŨ TRỤ
Thơ hát nói Nguyễn Công Trứ mang cảm thức chung về thời gian trong thơ ca trung đại
như là sự đề cao vị trí chủ đạo của thời gian thiên nhiên vũ trụ bất biến tĩnh tại. Trong
cảm nhận con người, thời gian vũ trụ kéo dài không có kết thúc: Qua ngày mai lại có
ngày mai / Khen ai khéo khéo lo dài (Thú say sưa) *; Còn xuân mai lại còn hoa (Thú
rượu thơ). Vũ trụ tuần hoàn theo chu kì xuân sinh hạ trưởng thu liễm đông tàng, khi
mùa đông rét mướt trôi qua, vũ trụ mở ra một vòng quay, chu kì mới, con người như
*

Những dẫn chứng thơ hát nói Nguyễn Công Trứ được trích dẫn ở bài này đều nằm trong tài liệu: Đỗ
Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề (1994), Việt Nam Ca trù biên khảo, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 04(20)/2011: tr. 67-76

68

TRẦN THỊ THANH NHỊ

hòa vào nhịp quay của vũ trụ để tận hưởng niềm vui và sức sống mới: Thảnh thơi thủa
đông qua xuân đến / Ngấn hàn băng từng phiến tan không / Cỏ hoa đua muôn tía nghìn
hồng (Ngày xuân). Trong cái nhìn về thời gian, mùa đông của tác giả đượm màu sắc
triết học: Điểm điểm trong chừng lĩnh sấu / Phút tin xuân đã hé đầu cành / Đành hay
âm cực dương sinh (Vịnh mùa đông). Nhà thơ nhìn mùa đông ẩn tàng trong sự vận
động ngấm ngầm âm cực dương sinh.
Trong cảm quan về thời gian vũ trụ, con người cảm nhận thời gian ấy một đi không trở
lại, chỉ như mũi tên một chiều bay vút về phía trước “thệ giá như tư phù, bất xá trú dạ”
(Khổng Tử) (Dịch nghĩa: cứ chảy mãi vậy thôi, bất kể ngày đêm) khiến cho con người
hiện tại hoài cổ, ngưỡng vọng về quá khứ và tiếc nuối những giá trị xưa nay không còn.
Quá khứ ấy có thể là một thời đại, chế độ cũ còn trong hồi ức, còn lưu lại một chút vết
dấu trong hiện tại: Hoa thảo kỷ kinh xuân đại tạ / Giang sơn trầm tiếu cổ hưng vương /
Tranh thiên nhiên riêng một bức tang thương /…Đã mấy độ sao dời vật đổi / Nào vương
cung đế miếu đâu nào (Trường An hoài cổ) (Dịch nghĩa: Cỏ hoa tàn tạ đã trải bao
nhiêu xuân / Giang sơn cười thầm cuộc hưng vong xưa). Nhìn vào dòng chảy của thời
gian và những biến chuyển thăng trầm của cuộc đời không thể tránh cảm giác đau lòng,
nuối tiếc: Bóng quang âm nào đã mấy mươi / Mà non nước xui nên lòng cảm kích (Vịnh
hậu Xích Bích). Cũng có khi đó là sự nuối tiếc về cái đẹp không còn hiện diện trong
hiện tại: Hương tiêu Nam quốc mĩ nhân tận / Oán nhập đông phong phương thảo đa
(Tây Hồ hoài cổ) (Dịch nghĩa: Hương tàn người đẹp phương nam hết/ Buồn thấy gió
đông thổi vào cỏ thơm nhiều).
Khi con người đặt mình trong dòng chảy thời gian hiện tại, thường có sự ngưỡng vọng
về quá khứ người xưa trong sự so sánh, đối chiếu: Ngã kim nhật tọa tại chi địa / Cổ
nhân tằng tiên ngã tọa chi / Nghìn muôn năm âu cũng thế ni / Ai hay hát mà ai hay nghe
hát (Ngày tháng thanh nhàn). Chỗ mà hôm nay người hiện tại đang ngồi thì người xưa
cũng đã ngồi ở đó. Không biết lúc đó người xưa kia có nghĩ đến người xưa của người
xưa và có nghĩ đến người sẽ ngồi trong tương lai không? Khoảnh khắc như vậy đã tạo
nên một sự kết dính thời gian về quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Thời gian ấy cũng là thời gian tuần hoàn bốn mùa lặp đi lặp lại theo chu kì, chảy trôi
một cách thờ ơ, điềm nhiên với sự ngắn ngủi, giới hạn của thời gian con người. Con
người đau khổ khi được ý thức trước thực tế tuổi tác, thọ yểu và sự bất lực của mình.
Thơ ca phần lớn nói đến cái hữu hạn, cái đớn đau, cái nhỏ bé của kiếp người. Phạm trù
thời gian chỉ được xác nhận trong các khoảng cách lớn: kim - cổ, xưa – nay, các khoảng
cách nghìn năm, vạn năm dài rộng tồn tại mãi mãi đối lập với cái khoảnh khắc trăm
năm, hạn hẹp của thời gian con người. Vì thế, thoắt xuất hiện, hiện diện trong dòng thời
gian vô tận, con người bé nhỏ ước ao được ghi một dấu ấn nào đó của mình, găm lại vào
dòng tuôn chảy thời gian. Một trong những khao khát con người vũ trụ muốn là tạo nên
một sự đối sánh với tiền nhân, lại vừa để lại tiếng thơm cho hậu nhân bằng danh tiếng:
Túi kinh luân từ trước đến nghìn sau / Hơn nhau một tiếng công hầu (Trên vì nước
dưới vì nhà), bằng tấm lòng son: Nhân sinh tự cổ thùy vô tử / Lưu thủ đan tâm chiếu
hãn thanh (Chí nam nhi) nhưng cũng có khi lời hẹn ấy không mang giá trị vì hẹn thì dù

CẢM QUAN VÀ CÁCH HÀNH XỬ VỀ THỜI GIAN TRONG THƠ HÁT NÓI...

69

sao cũng không chắc thực hiện được vì thế, con người chỉ biết đốt hết mình cho khoảnh
khắc hiện tại: Ba vạn sáu nghìn ngày thấm thoắt / Từ trắng răng đến thủa bạc đầu...
Nay phút chốc kim rồi lại cổ / Có hẹn gì sau chẳng bằng nay (Kiếp nhân sinh).
Gắn với thời gian vũ trụ ta thường thấy xuất hiện cặp đôi của những biểu tượng ứng chiếu
với thời gian như hoa, lá, cỏ, cây, chim báo sự tuần hoàn của đất trời. Những biểu tượng
mây, núi và nước là những hình ảnh hay đi với nhau thường được dùng biểu tượng cho sự
vĩnh hằng tự tại của vạn vật. Nó vận động theo quy luật nào đó, nhưng là vô tâm, vô ý.
Nước muôn đời vẫn chảy mãi về đông và ngàn xa mây trắng vẫn lửng lơ trên núi xanh
như ngàn xưa, mặc cho sự nổi trôi của con người, cho bao thăng trầm của thế sự. Con
người cố gắng hòa nhập mình vào thiên nhiên vũ trụ chính là muốn dựa cái hồn đầy xao
động, xôn xao đầy dục vọng, lợi danh để tìm kiếm sự tĩnh lặng, an nhiên của thiên nhiên
mây núi: Gió trăng chứa một thuyền đầy / Của kho vô tận biết ngày nào vơi / …Trăng
chênh chếch đầu non mới ló / Thuyền một lá xông ngang ghềnh bạch lộ / Buông chèo hoa
len lỏi giữa sơn cương /…Đành hay đất trời dành cho / Hai kho phong nguyệt nghìn thu
hãy còn / Còn trời còn nước còn non (Vịnh tiền Xích Bích).
2. TÍNH NGẮN NGỦI, PHÙ DU CỦA THỜI GIAN KIẾP NGƯỜI
Với những con người có ý thức sâu sắc về cuộc sống thì thời gian là một niềm khắc
khoải: Trăm năm là ngắn một ngày dài ghê (Tản Đà), Ngày vui ngắn chẳng tày gang
(Nguyễn Du), Đốt đuốc chơi đêm kẻo tiếc xuân (Nguyễn Trãi)… Nguyễn Công Trứ là
một trong những nhà thơ có nỗi ám ảnh lớn về thời gian. Nguyễn Công Trứ dùng nhiều
hình tượng để ví về thời gian nhưng đặc biệt nhất là dòng nước: Hoa khai xuân hề diệp
lạc thâu / Ngày tháng đi dòng nước chảy mau / Lần lữa mãi cũng bạc đầu tráng sĩ
(Chơi xuân kẻo hết xuân đi). Tác giả đã lấy cái trôi chảy hữu hình của dòng nước để
miêu tả sự chảy trôi vô hình của thời gian. Một mặt, dòng nước thời gian ấy đem đến sự
sống, vẻ tốt tươi của hoa thắm Hoa khai xuân hề nhưng mặt khác, sự chảy trôi ấy lại lấy
đi sự sống, tuổi trẻ, mang đến sự tàn phai rơi rụng, già nua, lá vàng khi thu đến (diệp lạc
thâu) và con người già đi theo năm tháng (bạc đầu tráng sĩ).
Trong sự thức nhận của tác giả về thời gian con người trong sự đối sánh với vũ trụ thì
thời gian con người thật ngắn ngủi, hữu hạn, mong manh. Trong dòng chảy vô cùng vô
tận của vũ trụ thì con người thật bé nhỏ chỉ là một con ếch nhảy vào vang tiếng nước
xao (Ao cũ / Con ếch nhảy vào / Vang tiếng nước xao – Thơ Haiku). Con người đến với
cõi đời này như một người khách ở trọ trần gian: Cõi trần thế nhân sinh là khách cả /
Nợ phong lưu kẻ giả có người vay (Nợ phong lưu), kiếp nhân sinh ngắn ngủi và mong
manh, dễ tan biến nhường bao: Ôi nhân sinh là thế ấy / Như bóng đèn, như mây nổi,
như gió thổi, như chiêm bao / Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào / Vừa tỉnh giấc
nồi kê vừa chín (Chơi là lãi). Cảm thức về đời như một giấc chiêm bao đưa lại một cái
nhìn đượm màu chua chát. Giấc chiêm bao kia không chỉ có ngắn ngủi (ngắn tựa chiêm
bao) mà còn có tính phi thực, dường như những gì con người tranh đấu, sống trên cõi
đời này đều vô nghĩa.

70

TRẦN THỊ THANH NHỊ

Trong tâm tưởng nhà thơ, thời gian quý giá biết bao nhiêu, nhất là khoảng thời gian tuổi
trẻ thì càng quý hơn, dẫu là vàng cũng khó mua, khó đổi. Ta bắt gặp trong nhiều bài thơ
hát nói, Nguyễn Công Trứ nói về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu như là những khoảnh
khắc thời gian đẹp nhất. Mùa xuân là mùa khởi đầu cũng là mùa đẹp nhất, giàu sức sống
nhất trong năm, là thời gian của vũ trụ nhưng được tác giả mượn để chỉ thời gian xuân
sắc, căng nồng sức sống của con người. Nguyễn Công Trứ hay nói đến “chơi xuân kẻo
hết xuân đi” không chỉ gặp cái tâm trạng tiếc xuân phải cầm đuốc chơi đêm như Nguyễn
Trãi mà là một nghĩa bóng đầy ẩn dụ về sự tận hưởng lúc còn đang xuân thì, tuổi trẻ,
mặt khác cũng có thể hiểu là chơi lúc mọi thứ đang còn xuân.
Tuổi trẻ là mùa xuân của con người (đây là giai đoạn đã qua niên thiếu còn non nớt
cũng chưa đến thời già nua, khô cạn) mà bước vào thời kì trưởng thành, sung mãn, căng
tràn: Trẻ ngây thơ, già tuổi tác tính mà chi / Giữa trần gian quang cảnh bấy nhiêu thì
(Thú nguyệt hoa). Nhưng tuổi trẻ con người lại dễ dàng qua mau: Bóng quang âm thấm
thoát vụt qua / Kiếp phù sinh chừng một giấc Nam Kha /…Hảo tiết hoan ngu đà dễ mấy
/ Trăm năm nhân cảnh là nhường ấy / Một khắc xuân tiêu đáng mấy chăng (Chữ nhàn).
Những ngày tháng tươi đẹp dễ có được mấy. Chính cái áp lực vì sự giới hạn ấy mà tác
giả khuyến khích con người sống ở đời: Năng đắc kỉ thời khai khẩu tiếu / Cơ chu hoàn
phụ thủ quang âm / Nợ phong lưu như rứa lãi rồi / Nghìn vàng chuốc lấy trận cười
(Thú nguyệt hoa). Khi nào vui được, cười được cảm nhận được hạnh phúc hãy biết mở
lòng, mỉm cười đón nhận, đừng chần chừ, đắn đo suy tính khi ngày tháng chảy trôi. Tác
giả nhiều lần nhắc đến cụm từ chỉ thời gian tuổi trẻ như “độ thiếu niên”: Mặt tài tình
đương độ thiếu niên (Chơi xuân kẻo hết xuân đi), “thì”: Cuộc cầm thi phó mặc đương
thì (Chơi xuân kẻo hết xuân đi). Độ trẻ trung ấy các giác quan con người tinh tế, nhạy
cảm để có thể tận hưởng, cảm nhận đến tận độ những niềm vui và trải nghiệm của đời:
Sống toàn tim, toàn trí, sống toàn hồn / Sống toàn thân và thức nhọn giác quan (Xuân
Diệu). Một trong những xúc cảm được nhà thơ nhắc đến nhiều là “hành lạc”. Đó có thể
là cầm kì thi tửu: Cầm, kì, thi, tửu khách /…Thơ một túi gieo vần thơ Đỗ Lí / Rượu lưng
bầu rót chén Lưu Linh / Đàn Bá Nha gảy khúc tính tang tình / Cờ Đế Thích đi về xe
pháo mã (Còn nhiều hưởng thụ), có khi là sự trải nghiệm về xúc giác, nhục thể: E đến
khi hoa rữa trăng tàn / Xuân nhất khắc, dễ nghìn vàng khôn đổi chác / Tế suy vật lí tu
hành lạc / Hà dụng phú danh bạn thử nhân /…Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi bấy (Chơi
xuân kẻo hết xuân đi). Với tác giả thì Ba vạn sáu nghìn ngày thấm thoắt (Kiếp nhân
sinh); ông trời thật “keo kiệt”: Đã sinh người lại hẹn lấy năm /…Hạn lấy tuổi để mà
chơi lấy (Chơi xuân kẻo hết xuân đi) nhưng trong hơn ba vạn ngày ấy, không phải con
người được hưởng trọn vẹn hết mà còn phải trừ hao ra của “trẻ ngây thơ”, “già tuổi
tác”, “khi bệnh tật”, “lúc u sầu” để mà chắt lọc, cô đặc lại những giây phút đẹp đẽ nhất
của “hảo tiết hoan ngu”, của khoảnh khắc xuân đáng giá nghìn vàng.
Trong sự cảm nhận về thời gian con người, có một khoảng thời gian đáng được lưu tâm
là sự tồn tại của cái đẹp ở trên đời. Nhất là cái đẹp ấy đang ở giai đoạn, thời kì đương ấp
ủ, phong nhụy của “Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị / Nguyệt thu kia chưa hé hàn
quang / Hồng lâu còn khóa then sương / Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành”
(Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều), Nguyễn Công Trứ trân trọng, đề cao cái

CẢM QUAN VÀ CÁCH HÀNH XỬ VỀ THỜI GIAN TRONG THƠ HÁT NÓI...

71

khoảnh khắc ấy: Khi chưa xuân khép nép đứng bên tường/ Còn phong nhị đợi Đông
Hoàng về cáng đáng (Yêu hoa). Khoảnh khắc ấy cũng là lúc con người còn xuân thì, là
sự tồn tại của sắc đẹp, cái đẹp của hồng nhan trên đời. Trong sự vận động của thời gian,
hoa, lá, nhan sắc, tuổi trẻ, xuân thì đều chảy trôi, nhà thơ muốn níu lại những gì đẹp
nhất: Xin cho trời đất lâu dài / Hồng nhan phải giống ở đời mãi du (Lời tiểu thiếp tự
tình). Có sự tương đồng trong cảm thức của Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Du: Hồng
nhan tự cổ như danh tướng / Bất khẳng nhân gian kiến bạch đầu. Cái chết và sự già nua
luôn theo đuổi từ phía sau: Lão trục thiếu lai ung bất phóng / Nhục tùy vinh hậu định tu
quân / Lò âm dương san sẻ bình phân / Con Tạo hóa cầm quân nhiệm nhặt / Mới đó
đỉnh mấy còn ngăn ngắt / Phút đâu mái tuyết đã phau phau (Cái già theo đuổi). Hồng
nhan, nhan sắc không thể dài lâu ở đời, chính vì thế nó càng quý giá và đáng trân trọng
hơn. Cái đẹp thường gắn với nỗi buồn là một cảm thức chung của nhân loại.
Trong cuộc đời mỗi người, tình yêu là một trong những trạng thái đem lại nhiều khoảnh
khắc đầy xúc cảm. Quý giá và đáng trân trọng biết bao những khoảnh khắc quý giá của
sự hội ngộ của những cặp lứa xứng đôi, là những thanh âm, màu sắc có sự tương hợp
của đời: Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên / Trong nhất kiến tình duyên như đã
/…Duyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lại / Dẫu nghìn dặm Băng sơn Quế hải / Đã tình
duyên xe lại cũng nên gần (Duyên gặp gỡ). Điều này càng dễ xảy ra với những kẻ là
“giống đa tình”: Đa tình là nợ / Mắc míu vào đố gỡ cho ra (Chữ tình). Tình yêu biến
con người thành kẻ si và ngốc nghếch: “Càng tài tình càng ngốc càng si / Chữ tình là
chữ chi chi” (Chữ tình).
3. CÁCH HÀNH XỬ VỚI QUỸ THỜI GIAN HẠN HẸP
Khi Nguyễn Công Trứ nói về sự ngắn ngủi của thời gian con người cũng là một cách
để ông đánh thức sự tự ý của mình và người khác về thực tế: Lão trục thiếu lai ưng bất
phóng / Mới đó đỉnh mây còn ngăn ngắt / Phút đâu mái tuyết đã phau phau” (Cán cân
tạo hóa). Con người không thể vượt ra ngoài trong không gian và thời gian, nó không
thể vượt ra ngoài quy luật của sự tồn tại. Tính phù sinh ấy làm con người xót xa, bẽ
bàng, đau khổ nhưng không thể vì thế mà chối bỏ, phủ nhận cuộc đời này mà càng phải
tìm ra một lối sống hạnh phúc, vui vẻ.
Tác giả nhắc đến thời gian một cách chính xác, chi tiết như ngày xuân chín chục, ba vạn
sáu nghìn ngày… như nhắc nhủ con người về sự tồn tại tối đa trên cõi đời và từ đó có
cách sắp xếp, ứng xử với quỹ thời gian, làm chủ nó và biết khai thác triệt để những tiềm
năng bản thân. Trong thơ hát nói của ông thường xuất hiện những lời quyết tâm, hẹn ước
trong tương lai với giang sơn về một sự nghiệp rực rỡ, đầy đóng góp: Quyết tang bồng
cho phỉ chí trượng phu / Đã sinh ra ở trong phù thế / Nợ trần ai quyết sẽ tính xong
/…Thanh vân trông đó mà coi (Có chí thì nên); Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý / Dã thị
giang sơn chung tú khí / Quả nhiên đài các xuất danh công /…Nợ làm giai quyết sẽ trả
xong / Trần ai ai dễ biết ai (Trần ai ai dễ biết ai). Lời hò hẹn và sự quyết tâm ấy đã được
minh chứng bằng chính cuộc đời của ông. Từ những hoài bão tuổi trẻ, thực tiễn cuộc
sống, những hiểu biết về Nho – Phật – Lão, ông đi đến việc xây dựng chương trình đời
sống cho người nam nhi trong xã hội xưa mà đến nay chúng ta vẫn có thể tham khảo:

nguon tai.lieu . vn