Xem mẫu

  1. CẢM QUAN LIÊN VĂN HÓA TRONG TÁC PHẨM MẤT NƠI Ở CỦA PHẠM VĂN KÝ HỒ THỊ THANH LOAN Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế Tóm tắt: Viết về cuộc đụng độ giữa Đông phương và Tây phương những năm 70 của thế kỉ XIX trên bối cảnh xã hội Nhật Bản thời Minh Trị, Mất nơi ở đã trở thành tác phẩm nổi tiếng nhất của Phạm Văn Ký khi giành được giải thưởng danh giá của Viện Hàn lâm Pháp năm 1961. Đây là một phần thưởng hoàn toàn xứng đáng cho những nỗ lực đáng trân trọng của tác giả. Thế nhưng, điều đáng buồn là, tên tuổi của Phạm Văn Ký và vị trí của cuốn tiểu thuyết giàu tính tư tưởng này vẫn chưa được quan tâm đúng mức trong đời sống văn học Việt Nam. Bản tham luận của chúng tôi sẽ tập trung làm rõ cảm quan liên văn hóa trong tác phẩm này trên ba phương diện: Thứ nhất: Thái độ lựa chọn và số phận của các nhân vật trong tác phẩm Mất nơi ở trước guồng quay của lịch sử; Thứ hai: Diễn ngôn văn hóa kẻ mạnh - kẻ yếu trong tác phẩm Mất nơi ở; Thứ ba: Mất nơi ở và vấn đề giao tiếp liên văn hóa trong tính hòa hợp. Từ khóa: cảm quan liên văn hóa, triết học liên văn hóa, toàn cầu hóa, giao thoa văn hóa, đối thoại liên văn hóa, giao tiếp liên văn hóa. 1. MỞ ĐẦU Thời đại toàn cầu hóa kéo theo biết bao sự thay đổi chóng mặt. Đó là tiền đề của những cơ hội mới, nhưng không thể phủ nhận bao nguy cơ rạn vỡ các giá trị văn hóa truyền thống. Dường như chưa bao giờ giao thoa văn hóa lại thu hút sự quan tâm, bàn luận như một vấn đề thời sự nóng hổi, cấp thiết đến thế. Nên chăng, vì không thể trốn chạy và tách mình ra khỏi guồng quay của thể chế toàn cầu, dân tộc nào cũng buộc phải đối diện với nó, đồng thời tìm lối đi để hội nhập và phát triển nhưng vẫn giữ được bản sắc của mình. Có thể không ngần ngại khi xếp Phạm Văn Ký cùng cuốn tiểu thuyết Mất nơi ở vào nhóm những hiện tượng lạ trên văn đàn. Từ việc một cái tên rất Việt Nam được vinh danh và ghi nhận bởi một giải thưởng danh giá cho đến lối viết rất Pháp nhưng lại chuyên chở “nỗi niềm Á Đông” sâu nặng của tác giả trong cảm thức về nguồn. Viết về câu chuyện hội nhập của Nhật Bản sau hơn hai trăm năm đóng cửa với phương Tây, Phạm Văn Ký đã thể hiện những trăn trở của một con người nặng lòng với quê hương. Nội dung tác phẩm không khỏi khiến ta liên hệ đến các giá trị tinh thần truyền thống của Việt Nam nói riêng và các dân tộc phương Đông nói chung trong bối cảnh hiện nay. Bằng phong cách ý nhị, thâm trầm mà sâu sắc, tác giả đã dẫn chúng ta theo gót của nhân vật người kể chuyện đồng sự xưng tôi, cũng là một trong những nạn nhân trực tiếp của thời cuộc để nhận thức và đánh giá lại về một thời kì lịch sử đã qua. Ký ức và những trải nghiệm quý giá về cuộc sống của Hizen là chất keo kết dính chất liệu hiện thực bề bộn của tác phẩm Mất nơi ở. Người đọc không những có thể tự mình khám phá số phận của con người thuộc những nền văn hóa khác nhau, hiểu thêm về cội nguồn văn hóa dân tộc mình, ý thức sâu sắc hơn về những sự khác biệt không tránh khỏi, mà trên hết, băn khoăn và day dứt trước những vấn đề tác phẩm đặt ra. Kinh nghiệm giao tiếp liên văn hóa được thể hiện trong tác phẩm là một bài học hữu ích, đặc biệt là đối với các quốc gia châu Á. Những trải nghiệm mà nhân vật đã kinh qua không chỉ Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sau Đại học lần thứ hai Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 10/2014: tr. 336-348
  2. CẢM QUAN LIÊN VĂN HỎA TRONG TÁC PHẨM MẤT NƠI Ở CỦA PHẠM VĂN KÝ 337 mang ý nghĩa của một thời quá vãng, chúng có thể vượt qua giới hạn của lịch sử, chuyển hóa thành những kinh nghiệm mang tính phổ quát. Lấy quá khứ để chuyển tải những vấn đề của thì hiện tại, văn Phạm Văn Ký thật sự ám ảnh và lắng đọng ở chiều sâu. Như vậy, ý nghĩa thời sự lâu dài của nó là những khát vọng vẫn còn khả năng soi chiếu đến tận hôm nay. Cảm thức liên văn hóa bàng bạc trong Mất nơi ở mang đến cho tác phẩm một sức hấp dẫn, lôi cuốn đặc biệt. Một vốn tư tưởng thâm sâu tạo nên những giá trị tinh túy mà không phải nhà văn nào cũng có thể đạt tới. 2. THÁI ĐỘ LỰA CHỌN VÀ SỐ PHẬN CỦA CÁC NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM MẤT NƠI Ở TRƯỚC GUỒNG QUAY CỦA LỊCH SỬ 2.1. Cơ hội phát triển và thách thức trong xã hội Nhật Bản buổi giao thời Câu chuyện hội nhập trong Mất nơi ở được đặt trên bối cảnh xã hội Nhật Bản truyền thống thời Duy Tân Minh Trị những năm 1870 với những hiệu ứng hội nhập cơ bản. Đó là không gian nghệ thuật lí tưởng làm nền cho những xung đột về mặt văn hóa. Rất nhiều đổi thay chóng mặt kéo theo không ít sự cố, tranh chấp và rạn vỡ xuất hiện. Những ký hiệu văn hóa trong Mất nơi ở cũng theo đó mà được xây dựng theo lối đối xứng chặt chẽ. Hoa anh đào, thanh kiếm võ sĩ, ngọn núi Phú Sĩ đi từ chiều sâu ký ức văn hóa của tác giả vào văn bản, hiện diện sống động trên trang giấy qua sự tương tác với hoa anh đào mà Neufville mang từ nước Pháp sang, thanh gươm của người châu Âu và ngọn núi mang tên của một mục sư người Anh quốc. Sự va chạm văn hóa không chỉ được thể hiện qua những tình huống đụng độ mà lan tỏa trong câu chữ qua một loạt những hình ảnh biểu tượng song hành: cú ngã ê ẩm mình mẩy của lính bộ binh và cú ngã lăn mình thỏa hiệp của Hizen khi gặp sự cố bất ngờ; việc nhồi nhét những kiến thức quân sự và động tác dốc cạn rượu vang của Shojo; sự phô trương cờ hiệu của người da trắng trong tương quan với những dãy tua sặc sỡ của Shojo; hình ảnh chiến tranh trong nỗi khắc khoải thường trực nơi tâm hồn Hizen trong mối liên hệ với hình ảnh người đàn bà Da Trắng trần truồng nằm trên lăng kính chiếc ống nhòm. Nếu như Kinh Thánh và đạo Thiên Chúa mang đến ý thức băn khoăn cá nhân thì nghi lễ thưởng thức rượu vang cũng mang trong nó sức cuốn hút đặc biệt so với rượu gạo sa-kê truyền thống ấm tình bạn bè. Dường như môi trường đa văn hóa là nơi các giá trị tinh thần đang đứng trước nguy cơ băng hoại, mai một; nơi con người phải đối mặt với nỗi cô đơn đến tận cùng bản thể khi văn hóa tiêu dùng và chủ nghĩa cá nhân ngày càng chiếm vị trí ưu thế trong đời sống xã hội. Sự xâm lấn của văn minh phương Tây đối với các giá trị văn hóa truyền thống Nhật Bản đã để lại chấn thương tinh thần sâu sắc ở các nhân vật. Nỗ lực khẳng định cá tính trở thành một điều xa xỉ khi cảm giác lo sợ mơ hồ của nhân vật trước cuộc sống hiện tại khiến họ không còn đủ tự tin để trả lời câu hỏi mình là ai. Cuối tác phẩm, Hizen kết thúc cuộc phiêu lưu của bản thân ở một không gian hoang vu "ngay phía trước núi lửa Komagatake có ngọn đồi màu đỏ nhạt" để tự thoát khỏi cái bản ngã của mình - "từ giã con người luôn giao động giữa những cao trào kịch phát và những đợt thoái trào". Mặc dù lựa chọn lối sống ẩn cư đơn độc, song trong thẳm sâu tâm hồn của nhân vật này vẫn luôn đau đáu dõi theo những biến chuyển của đời sống bên ngoài. Hai mươi năm trôi qua đồng nghĩa với việc tất cả người thân, bạn bè tuột khỏi kẽ tay Hizen trong khi anh tự mình cảm nghiệm rằng mình "chẳng thu hút được ai và cái gì cả". Cảm giác xa lạ với cuộc sống khiến ý nghĩa của tác phẩm cuộn xoáy vào tâm can độc giả. Những mất mát Hizen phải nhận lãnh khi theo đuổi văn minh phương Tây (vợ ngoại tình, con theo đạo Thiên chúa, quân hàm bị rơi vào tay người em ruột Âu hóa) cộng với cái chết vì đạn của Osuko, cái chết vì uống nhầm hóa chất của Shojo đã thể hiện sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Tuy nhiên, đằng sau những bi kịch cay đắng ấy lại tiềm ẩn những nhân tố tiến bộ, thể hiện xu thế tất yếu của thời đại khi người phương Tây đã thể hiện những đóng
  3. 338 HỒ THỊ THANH LOAN góp nhất định trong lĩnh vực truyền bá tri thức khoa học. Bên cạnh việc mang đến tư tưởng tự do, dân chủ, sự xâm nhập của văn minh phương Tây đã góp phần thúc đẩy thủ công nghiệp, thương nghiệp và ngoại thương phát triển mạnh hơn trước rất nhiều. Câu chuyện hội nhập được đặt ra trong tác phẩm là một vấn đề đã, đang và sẽ tiếp diễn. Phải chăng vì vậy nên những sự đụng độ được phản ánh trong Mất nơi ở lại gần gũi với chúng ta đến như vậy. 2.2. Bảo thủ và cách tân - hai khuynh hướng tồn tại song hành Dù là quá khứ hay hiện tại, hai tinh thần bảo thủ và cách tân đối với các giá trị phương Tây luôn là những khuynh hướng tồn tại song hành. Do đó, tìm hiểu tích hợp Đông - Tây, truyền thống và hiện đại là chìa khóa quan trọng để khám phá và giải mã những đặc điểm nổi bật trong tác phẩm Mất nơi ở của Phạm Văn Ký. Bằng chính những quan sát, trải nghiệm của bản thân, câu chuyện của Hizen đã làm sống dậy cả một thời kì lịch sử với không ít những đổi thay, biến động. Cùng với nó là một loạt mâu thuẫn giữa thế hệ cũ và những con người mới, cái tham vọng tiền tài quyền lực và lòng trung thành của lớp võ sĩ với Thiên hoàng qua hình thức những vụ cãi cọ, tranh chấp, xung đột, nghi kỵ bất tận. Đối với người võ sĩ, thanh kiếm biểu hiện cho lòng tự tôn, phẩm cách của họ. "Những thanh kiếm, đó chính là tâm hồn của chúng ta”, câu nói của Osuko đã giúp người đọc thức nhận giá trị văn hóa kết tinh truyền thống của nó. Phải chăng vì vậy nên sắc lệnh tịch thu kiếm để nấu chảy thành “những cái đinh, bu lông, thanh sắt nhọn phục vụ cho việc xây dựng các tuyến đường sắt” lại khơi gợi trong tâm hồn nhân vật Hizen bao nỗi xúc động sâu sắc. Sự đối lập giữa hai khuynh hướng bảo thủ và cách tân được cụ thể hóa qua việc xây dựng hình tượng Osuko và Hizen, vì thế cũng xoay quanh thanh kiếm này. Từ bỏ hùng khí truyền thống để đến với hùng khí phương Tây, Hizen xác định rõ ràng nhiệm vụ của bản thân: lột bỏ con người cũ, cướp đi thanh kiếm của Osuko. Việc chôn hai thanh kiếm vào trong quan tài của người lính gác cũng không còn mang ý nghĩa thông thường, mà được nâng lên thành hành động khước từ mọi đặc quyền của người võ sĩ, tiến những bước đầu tiên về phía phương Tây. Đối lập với Hizen, Osuko kiên quyết không từ bỏ thanh kiếm như “đem vứt bỏ một đôi dép đã cũ”. Tóm lại, hình ảnh thanh kiếm đã giúp bạn đọc có một cái nhìn khái quát về hệ thống đạo đức và lối hành xử của các nhân vật võ sĩ. Rồi sự lên ngôi của những kiểu người cơ hội như Yatoi, Houki; lí trí và quyết đoán như người em trai của Hizen, hay những người thích chạy theo cái mới lạ như Tchiyo, “cái giọt nước sủi ngầu lên trên đại dương, bình yên và mạnh mẽ” [1, tr. 338]. Tất cả những điều đó làm nên diện mạo văn hóa đặc biệt của Nhật Bản thời Minh Trị với những đặc điểm riêng không thể tìm thấy ở các giai đoạn trước và sau đó. Việc hiện đại hoá kinh tế - xã hội trong thời kỳ này không chỉ bao gồm việc nhập khẩu những công nghệ và kỹ thuật riêng rẽ. Cả một xã hội được thay đổi tận gốc. Trước sức mạnh của khoa học phương Tây, nhờ khả năng biết không chối từ mà người Nhật đã tiếp thu được những giá trị, tinh hoa ưu việt để thực hành tiếp biến trên tinh thần duy nạp, khoan hòa. Khả năng này hiện hữu trong những nhân vật Âu hóa, nhạy bén với cái mới, điển hình là Katsu, “người võ sĩ khoa học” đã tìm thấy sự cuốn hút từ những môn học thiết thực cho cuộc sống nhưng vẫn vắng bóng ở Nhật như hóa học, toán học, y học. Katsu và Eitaro Hizen là những trí thức đại diện cho xã hội phong kiến Nhật Bản mang một mô hình nhân cách đặc biệt, có những quan niệm riêng về vai trò, chức trách và nhiệm vụ của người võ sĩ trong việc tìm ra một hướng đi khả dĩ nhất để cứu vãn thực tại. Trong khi đó, hầu hết các nhân vật trong tác phẩm chưa kịp đổi mới tư duy cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Từ thái độ cố chấp của Osuko, người lính canh vô danh cao thượng hay ánh mắt bài xích của người cần vụ khi chứng kiến Baudouvin làm món bít-tết, tất cả những chi tiết đó không chỉ định hình cho mẫu người dị
  4. CẢM QUAN LIÊN VĂN HỎA TRONG TÁC PHẨM MẤT NƠI Ở CỦA PHẠM VĂN KÝ 339 ứng với cái mới, thái độ lựa chọn của họ mà còn tái hiện tình trạng lạc hậu của nền văn hóa Nhật Bản trong buổi đầu của thời kỳ cận đại. Họ vẫn chưa thấy hết được tính lỗi thời của mô hình xã hội cũ cũng như chưa thấy hết được sự cần thiết của công cuộc cải cách và mở cửa đối với sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản. Chứng kiến những thất bại liên tiếp của nền văn hóa Nhật Bản nhưng Osuko vẫn rất tự ái và tự mãn, không nhìn thấy được sức mạnh của văn minh Tây phương ngoài súng đạn và khoa học kỹ thuật. Suy nghĩ bảo thủ, cực đoan của nhân vật này có xuất phát điểm từ thái độ tự hào, niềm kiêu hãnh của người Nhật Bản về nguồn gốc của dân tộc mình: "Nhật Bản vốn là đất nước do các vị thần tạo nên và che chở, Thiên Hoàng là người cai trị đồng thời là phụ mẫu của thần dân. Do đó, Nhật Bản là một “gia tộc quốc gia” (Kazoku Kokka) và từ quan niệm này nảy sinh huyền thoại dân tộc Nhật Bản “ưu việt hơn các dân tộc khác trên thế giới” [4, tr. 61]. Do đó, có thể khẳng định rằng lối tư duy thủ cựu đã in sâu trong tâm thức nhiều nhân vật như Osuko, người lính canh để xổng tên tín đồ đạo Cơ đốc là điều không dễ một sớm một chiều có thể xóa bỏ ngay được. Phạm Văn Ký đã để cho Hizen bộc lộ thái độ tôn kính đối với người võ sĩ đội mũ bạc khi nghe những vần thơ cuối cùng được ông ngâm nga trước nghi lễ tự sát: “Dòng nước xưa kia mát lành - Phun lên ở Nonaka, - Đã trở thành nước ấm - Nhưng suối nguồn có trái tim già nua - Ai đó biết rõ điều này, vẫn uống tại nguồn” [1, tr. 436]. Trong cảm hứng hướng thiện, cái chết của Osuko dường như là sự khước từ dứt khoát những nhơ bẩn cuộc sống để giữ trọn vẻ đẹp tinh khôi, thông tuệ, không khuất phục hoàn cảnh. Hành động tự kết thúc sự sống như một vinh dự tối cao của nhân vật này trước những người da trắng không khỏi khiến ta liên tưởng tới vẻ đẹp của cánh hoa anh đào rơi, một vẻ đẹp thuần khiết “vì chưa bị tiêm nhiễm những gì của phương Tây”. Dù vấp phải các cuộc đấu tranh loại trừ ảnh hưởng phương Tây của phái thủ cựu, song không thể phủ nhận được vai trò và sức mạnh của văn minh phương Tây trong công cuộc hiện đại hóa của người Nhật. Với thái độ khiêm nhường, Katsu và Hizen đều lần lượt nhận ra muốn đánh bại đối thủ, đi vượt Tây phương thì trước hết phải khám phá để học lấy những bí quyết sở trường của họ, tức là những giá trị khoa học mà nền văn hóa phương Đông chưa trang bị cho những người da vàng. Điều này được thể hiện rõ nhất qua sự đồng cảm của hai nhân vật này khi chứng kiến những giọt nước mắt bất lực của Katana sau thời điểm dùng những thân gỗ tấn công vào cây cầu. Đặt bè gỗ trong tương quan đối lập với sự vững chãi của cây cầu, Phạm Văn Ký đã làm nổi bật sự bất lực của cả một thời đại trước nhiệm vụ cấp thiết của lịch sử nước nhà thông qua những hình ảnh biểu tượng sống động và giàu ý nghĩa. 2.3. Thái độ xô bồ với cái mới của Tchiyo trong tương quan với quan niệm khe khắt về phẩm giá của người phụ nữ Theo quan niệm truyền thống của người Nhật, phụ nữ không được coi trọng, họ chỉ là kẻ lệ thuộc và là cái bóng của người khác giới. Bản thân phụ nữ không được phép sống như những cá nhân, không đòi hỏi cho bản thân mình trong khi lại phải chịu những trách nhiệm về tương lai của con cái và sự lớn mạnh của gia đình và dòng tộc. Vậy nên, thái độ và sự lựa chọn của Tchiyo trong hôn nhân và trong tình yêu là minh chứng sống động hơn bao giờ hết cho sự xâm thực của văn hóa phương Tây trong đời sống gia đình Nhật Bản. Nàng đã có những suy nghĩ thoáng hơn, “ích kỷ” hơn so với thế hệ trước đây. Bên cạnh những điểm tích cực như thái độ quyết liệt trong hành động, vượt qua ý thức hệ mang tính ích kỷ (biết vâng lời, làm hài lòng đàn ông, và phải hiểu rằng quyền lực thuộc về đàn ông, phụ thuộc vào chồng cả về vật chất cũng như tinh thần), lối sống của nhân vật Tchiyo đã làm đảo lộn trật tự vốn có của một gia đình truyền thống. Đây là một trong những hình tượng độc đáo, thể hiện tài năng của
  5. 340 HỒ THỊ THANH LOAN Phạm Văn Ký trong nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, cổ vũ cho lối sống hết mình, với mọi cảm giác của tình yêu, vượt lên mọi quan ngại của đời sống. Những va chạm văn hóa làm bộc lộ sự đối thoại tiềm tàng trong quan niệm về tình yêu giữa phương Đông và phương Tây. Dường như bối cảnh ấy là nơi các nhân vật như Tchiyo có thể tạm quên đi quy chuẩn truyền thống để tìm đến những lạc thú thân xác bên chàng kỹ sư người Pháp hào hoa. Từ góc nhìn văn hóa của người phương Đông, quan hệ tình cảm của Tchiyo với Neufville là điều không thể chấp nhận được. Đặt vào bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, lối sống của Tchiyo trở nên hoàn toàn biệt lập trước tình thương yêu và sự hy sinh cho gia đình của người phụ nữ Nhật Bản truyền thống. Bởi người phụ nữ Nhật được sinh ra và chứng kiến “lòng dạ đàn ông thay đổi như trời thu”, thế nhưng nội dung hiện thực trong Mất nơi ở lại đi theo chiều hướng ngược lại. Nhưng rồi tất cả những điều tưởng chừng không thể chấp nhận được ấy cứ diễn ra, và đặc biệt với tần suất ngày càng tăng khiến Hizen không khỏi hoang mang trước sự rạn vỡ của những giá trị thiêng liêng và cao quý. Dường như tính cách thiếu kiên nhẫn, sự hào phóng nhưng hay thay đổi của Neufville lại một lần nữa được đặt trong quan hệ với lối sống giàu tình cảm, dám hy sinh lâu dài cho gia đình của Hizen. Những biểu hiện của tình yêu, tình dục trộn lẫn trong mối quan hệ của Tchiyo và Neufville cứ trộn lẫn vào nhau, rất khó phân định rạch ròi nên thái độ của độc giả đối với sự lựa chọn của nhân vật Tchiyo ắt hẳn cũng đi theo nhiều xu hướng trái chiều. Nhưng dù nghiêng về cách đánh giá nào đi chăng nữa, qua nhân vật này, độc giả hoàn toàn có cơ sở để lo lắng về sự mất gốc của thế hệ trẻ, sự lung lay của truyền thống gia đình phương Đông trong hoàn cảnh va đập văn hóa. 2.4. Trạng thái nước đôi trong suy nghĩ và hành động của các nhân vật Lối trần thuật chủ quan với tư cách người chép sử biên niên của thời đại giúp tác giả dễ dàng đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật, tái hiện những thời khắc đáng nhớ một cách sống động trên trang giấy. Dấu vết của sự phản kháng văn hóa được thể hiện qua thái độ chào đón nền văn hóa có nhiều sức mạnh một cách đề phòng của nhân vật Hizen. Điều này được thể hiện qua việc cố gắng đi tìm bản sắc dân tộc, sự thận trọng đối với các yếu tố ngoại lai và sự e ngại có phân biệt trước các luồng văn hóa du nhập. Đọc tác phẩm Mất nơi ở, thật khó để tìm ra sự thống nhất giữa hành động bên ngoài và suy nghĩ nơi thẳm sâu tâm hồn nhân vật. Trong nhiều trường hợp va chạm văn hóa, Hizen không thể bộc lộ con người mà anh mong muốn qua hành động của bản thân, bởi giữa chúng luôn tồn tại một khoảng cách vô hình. Phạm Văn Ký đã khắc họa nhân vật đa diện qua những hành động mang tính nghịch lý, thể hiện những kẽ nứt giữa hành động bên ngoài với con người bên trong. Thủ pháp nghệ thuật này đã mở ra nhiều tầng ý nghĩa cho tác phẩm Mất nơi ở. Với độc giả, để định danh các kiểu chân dung tâm lý trong tác phẩm là một vấn đề không dễ. Mặc dù ý thức rằng phải tự lột bỏ con người cũ của mình bằng hành động giết chết Osuko để có thể sống sót và không làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công của các công trình, song không có lần nào Hizen tận dụng cơ hội và hiện thực hóa ý nghĩ đó. Lần Osuko trả lại thanh kiếm võ sĩ cho Hizen, lần gặp tại bản làng người Aino, hay cuộc gặp trên đường ray khi Neufville bị ngất. Trái lại, nòng súng của Hizen không những không hướng về Osuko mà lại chĩa vào Neufville. Nếu soi chiếu hành động này với quyết tâm bảo vệ tám người châu Âu của Hizen qua nhiều đêm cô đơn trên lưng ngựa trong đoạn trước, không khó để chúng ta nhận ra những mâu thuẫn trong tâm hồn nhân vật. Osuko kiên quyết tiêu diệt tám người da trắng nhưng lại đặc biệt quan tâm đến đầu đạn giết người, không che giấu thái độ vội vàng khi giằng lấy khẩu súng có nguồn gốc phương Tây. Katana dùng thân gỗ tấn công cây cầu song lại đặc biệt tò mò, nhìn chằm chằm vào bao súng rỗng. Hizen kịch liệt bài xích Thiên Chúa giáo nhưng vẫn bị thu hút bởi giáo lý của nó. Mặc
  6. CẢM QUAN LIÊN VĂN HỎA TRONG TÁC PHẨM MẤT NƠI Ở CỦA PHẠM VĂN KÝ 341 dù hoài cổ, luyến tiếc quá khứ nhưng anh vẫn tìm cách thuyết phục Osuko thừa nhận sức mạnh của văn minh phương Tây, ca ngợi bảng chữ cái và khích lệ nhân vật này viết từ trái sang phải và từ trên xuống dưới. Sự tương phản trong cách ứng xử của Hizen với cậu bé Katana cũng là một chi tiết thú vị. Niềm vui sướng vì không tóm được Katana đi ngược với hành động truy đuổi cậu bé. Việc bắt giam Katana cũng hoàn toàn mâu thuẫn với mong muốn ngấm ngầm của Hizen: “Tuy nhiên, trong thâm tâm, tôi cầu mong cha nó sẽ giải thoát được cho nó” [1, tr. 139]. Song cảm giác xấu hổ khi bắt giam cậu bé lại được biện minh bằng quyết tâm bảo vệ các công trình. Hay như những người Aino dị ứng với văn hóa phương Tây, nhưng lại không muốn bỏ lỡ cơ hội được ngắm nhìn chiếc bánh mì đầu tiên. Kiểu nhân vật nghịch lý trong hành động này khiến ta liên tưởng đến Shite, vai chính trong những vở kịch Noh và cũng là vai diễn đeo mặt nạ truyền thống. Đó là những chiếc mặt nạ thường được biết đến như những khuôn mặt nhiều màu sắc và sắc thái biểu cảm tượng trưng cho tính cách đa diện. Trong việc xây dựng nhân vật với nhiều mâu thuẫn trong hành động, Phạm Văn Ký đã khéo léo kết hợp yếu tố lô-gíc lý tính với lô-gíc xúc cảm trong những đoạn văn tìm về ký ức của Hizen. Quá trình tự phê phán của nhân vật này đã góp phần làm đầy ý thức của Hizen đối với hiện thực được miêu tả cũng như những ẩn ức về quá khứ, giúp độc giả cảm nhận sức cuốn hút trong lối hành văn của tác giả. Không thuộc về một nơi nào, hơn thế nữa cũng không hiểu nổi bản thân mình, cảm giác lạc lõng đã trở thành trạng huống tồn tại chủ yếu trong cuộc hiện sinh của Hizen. Là võ sĩ đạo trong quá khứ và là một đại úy bộ binh trong hiện tại, nhưng Hizen tự nhận thấy mình không tương đương với với cả Osuko lẫn Neufville. Thái độ thách thức và những hành động quyết liệt của Osuko thể hiện quyết tâm cao độ của người võ sĩ thủ cựu hoàn toàn không tương hợp với việc đánh đổi hùng khí truyền thống của dân tộc để đến với phương Tây của Hizen. Đằng sau sự lựa chọn đó là nỗi ám ảnh, day dứt không nguôi khi nhân vật luôn tự xếp mình ngang hàng với những kẻ đào ngũ, theo ý nghĩa tồi tệ nhất của danh từ này. Đặt trong quan hệ với Neufville, thái độ lưỡng lự, do dự của Hizen không thể khiến anh đi nhanh trong quá trình hiện đại hóa. Mong muốn tiến bộ và chối từ linh hồn của nó không phải những phạm trù có thể đi liền nhau. Cảm giác lo sợ cho tương lai của đường hầm, tuyến đường sắt, mong muốn hoàn thành những công trình của người phương Tây bằng mọi giá là những trạng huống đối lập với quyết định ngăn chặn hành động trả thù Osuko bên phía người da trắng. Thế nhưng, những khuynh hướng trái chiều ấy vẫn luôn tồn tại song hành. Hết biện minh cho Osuko, Hizen lại phải biện minh cho người da trắng trong niềm đau khổ mất nơi cư ngụ. Nhan đề của tác phẩm đã khái quát sâu sắc bi kịch tinh thần của nhân vật này. Bằng nghệ thuật di chuyển điểm nhìn, tác giả đã để cho nhân vật Antell nhận xét về thái độ của Hizen như sau: “Như vậy, đại thể, ngài đem điều mà ngài yêu quí đối lập với cái mà căm ghét. Ngài đem người Da trắng đối lập với người Da vàng” [1, tr. 121]. Phải chăng nỗi ám ảnh đó chính là xuất phát điểm cho thái độ cực đoan văn hóa, luôn đối lập dân tộc mình với những dân tộc khác. Không chỉ tựu trung những vẻ đẹp của người võ sĩ, hình tượng nhân vật Hizen còn được nắm bắt ở chiều sâu tâm trạng, những trạng huống lưỡng phân gắn với những hoàn cảnh giao tiếp phức tạp. Hizen luôn phải giằng co giữa trách nhiệm của một đại úy bộ binh với tư cách của một võ sĩ đạo. Dường như anh là đại diện tiêu biểu nhất cho thái độ lưỡng lự, do dự của toàn thể đất nước Nhật Bản: “Sự thỏa hiệp và khiêu khích cùng song hành bên nhau, lòng mến khách và những cuộc đụng độ cùng một cách tiến hành. Chiến thắng và vô hiệu hóa, thán phục và khinh bỉ những kĩ thuật tầm thường, đẩy đuổi và dung nạp những kẻ cạnh tranh, những kẻ trục lợi của Perry?” [1, tr. 307].
  7. 342 HỒ THỊ THANH LOAN Thái độ hai mặt trong ứng xử văn hóa này phải chăng là những biểu hiện phức tạp thể hiện “xung năng kẻ yếu” trong việc vừa lựa chọn giữa phá hoại và hòa hoãn một cách tuyệt vọng vừa vạch ra lối đi thích hợp. Thái độ của chính phủ dường như có nhiều điểm tương đồng với nỗi dằn vặt giữa niềm phấn khích xây dựng với mong muốn phá hoại của Hizen cũng như những nhân vật trực tiếp tham gia hoạt động xây dựng: “Ngoại trừ các đốc công, còn tất cả các người Nhật đã mau chóng dồn về bờ sông, thấy rõ và họ đang tin tưởng vào quyền năng đang ào ạt bung ra của núi rừng hơn là sức mạnh của người Da Trắng” [1, tr. 206]. Qua cách nhìn nhận, đánh giá của Hizen về những người lính trong đại đội, sự tương phản giữa việc áp dụng kỹ thuật phương Tây để xây dựng Hokkaido với thái độ tôn vinh đứa trẻ chiến bại chẳng khác nào hành động tự chối bỏ bản thân. Bất giác, chúng ta không thể không liên tưởng tới những ghi chép của Hữu Ngọc, bởi những ý kiến của nhà nghiên cứu văn hóa này tương đồng một cách kỳ lạ với nội dung được miêu tả trong tác phẩm Mất nơi ở: "Dư luận chính thống vừa sợ sức mạnh vũ khí của phương Tây, vừa thán phục kỹ thuật của họ, nhưng lại khinh lũ “man rợ” da trắng thiếu văn hiến" [2, tr. 30]. Duy chỉ có điều Phạm Văn Ký đã tái hiện và tái tạo hiện thực lịch sử ấy bằng những hình tượng nghệ thuật sống động và trực diện. Xây dựng nhân vật Hizen trong tính nước đôi, đây chính là một trong nhiều yếu tố tạo nên sức ám ảnh siêu dai dẳng của hình tượng này trong lòng độc giả. Hizen ý thức được quá trình tiêm nhiễm lối sống Tây phương của bản thân nhưng anh hoàn toàn bất lực, không tìm ra phương cách giải quyết. Nói cách khác, thái độ lưỡng lự của Hizen là sản phẩm của cả một thời kỳ lịch sử, khi triều đình và Thiên Hoàng đương thời cũng không tránh khỏi lúng túng, bất lực trong việc điều hành quan hệ đối ngoại và canh tân đất nước. Nguyên nhân quan trọng nhất là bởi họ phải dựa vào phương Tây để phát triển khoa học kỹ thuật. Và tại sao dù ý thức được quá trình tiêm nhiễm những yếu tố phương Tây của bản thân nhưng Hizen không thể vượt qua nó? Rồi việc Tây phương xâm lược là ngẫu nhiên hay tất yếu? Trạng thái nước đôi, có những biểu hiện tự tin văn hóa nhưng cũng không ít mặc cảm tự ti là biểu hiện của trạng huống không hiểu mình. Trạng huống này cùng với giọng điệu tra vấn, hoài nghi của nhân vật trước những biến động dữ dội diễn ra xung quanh mình đã phản ánh nhu cầu nhận thức và đối diện với lịch sử của nhà văn. Cùng với việc chú trọng tới tài năng chứ không theo dòng dõi trong chính sách ưu tiên lớp người ưu tú phổ biến thời Minh Trị, tác phẩm thể hiện tính chất luận đề: môi trường tương tác đa văn hóa là thời kỳ của những người trẻ tuổi, có khả năng, có tham vọng. Mất nơi ở dường như là không gian tồn tại của kiểu người quyết đoán, mạnh dạn trong hành động, không có chỗ cho những con người cố chấp, bảo thủ, hoài niệm như Hizen. Nói cách khác, sự lưỡng lự, do dự là cách thức nhanh nhất để con người tự loại tên mình ra khỏi vòng quay đó. Giữ vững giá trị truyền thống của dân tộc đi đôi với tiếp thu những cái mới, dung hòa cái tôi của bản thân với những cái tôi khác không giống mình là cách thức để phát triển nhanh nhất. 3. DIỄN NGÔN VĂN HÓA KẺ MẠNH - KẺ YẾU TRONG TÁC PHẨM MẤT NƠI Ở CỦA PHẠM VĂN KÝ DƯỚI GÓC NHÌN CỦA LÝ THUYẾT LIÊN VĂN HÓA Tuy vẫn tồn tại một số bất đồng quan điểm về nội dung và định hướng nghiên cứu, nhưng các nhà triết học tiên phong của lý thuyết liên văn hóa đều thống nhất với nhau trong việc phê bình thái độ tự phụ của triết học phương Tây coi bản thân mình như là triết học phổ quát. Đi kèm với nó là sự truyền bá mạnh mẽ của dòng văn hóa tư bản và sự cô lập hóa các nền văn hóa nhỏ. Triết học liên văn hóa ra đời tìm kiếm con đường xây dựng nên một cộng đồng liên đới. Do đó, tương quan quyền lực giữa diễn ngôn kẻ mạnh và diễn ngôn kẻ yếu cũng phải được nhìn nhận và xem xét lại.
  8. CẢM QUAN LIÊN VĂN HỎA TRONG TÁC PHẨM MẤT NƠI Ở CỦA PHẠM VĂN KÝ 343 Dù muốn dù không, vào cuối thế kỷ XIX, văn hóa phương Tây đang lăm le đè lụi văn hóa phương Đông truyền thống, đó là một sự thật lịch sử không thể thay đổi. Phương Tây tỏ ra ưu thắng, vượt trội phương Đông truyền thống, chân lý mạnh được yếu thua đã hiển nhiên bày ra trước mắt. Với cái nhìn giải thiêng lịch sử, Mất nơi ở của Phạm Văn Ký đã chạm tới những góc khuất ấy qua tiếng nói tranh biện đầy ám ảnh hay qua những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn nhân vật. 3.1. Diễn ngôn văn hóa kẻ mạnh Nhìn trên góc độ tổng thể, nền văn hóa phương Tây đã được lịch sử xác lập là chiếc nôi và đỉnh cao của nền văn minh nhân loại. Phải chăng đó là một trong những nguyên nhân cơ bản xác lập vị thế văn hóa và diễn ngôn kẻ mạnh của họ trong tương quan với các nền văn hóa khác. Điều này được thể hiện rõ nét và tương đối toàn diện trong tác phẩm Mất nơi ở, đặc biệt qua thái độ tự tôn thái quá, đầu óc hẹp hòi về chủng tộc của các nhân vật đại diện cho nền văn hóa châu Âu. Dưới ngòi bút của Phạm Văn Ký, James Hart hiện lên một cách sinh động với cử chỉ vung nắm đấm về phía trước và câu nói thể hiện tham vọng, ý chí quyền lực của bản thân: "Tôi muốn có một tuyến đường thật hoàn hảo, hoàn hảo từ đoạn đầu, hoàn hảo đoạn giữa và hoàn hảo đến đoạn kết" [1, tr. 99]. Bên cạnh Hart, người luôn xem mình là chúa tể duy nhất chịu trách nhiệm cho mọi sự việc xảy ra trên công trường, những người châu Âu khác như Antell, Neufville Wilkison, Ipinnler và Dixwell lại luôn tự cho mình cái quyền can thiệp và trách móc trước mọi hoạt động của người bản xứ với những lời lẽ mang tính chủ quan và ảnh hưởng đến lòng tự tôn văn hóa của người khác: "Các ngài mà làm điều tra dân số thì thật tuyệt diệu đấy. Đúng là trên thế gian này chỉ có các ngài là làm như thế" [1, tr. 114]. Ý chí quyền lực khiến những nhân vật da trắng luôn tìm kiếm cơ hội, dùng các phương thức khác nhau để thể hiện vị thế của họ. Trong hoạt động phân bổ công việc, người Aino chỉ được giao những công việc hèn mọn nhất. Hay trong cách truyền đạt những kiến thức quân sự, Neufville chỉ giới hạn trong những vấn đề lý thuyết, mặc kệ những thắc mắc của Hizen và lính bộ binh. Thái độ không quan tâm đến những vấn đề của người khác xuất hiện thường trực trong tác phẩm chính là sự khúc xạ của tính cách người phương Tây trong thời đại kỹ trị. Bên cạnh đó là những hành vi trâng tráo, thách thức như một diễn ngôn thể hiện quyền năng trên tất cả các phương diện của đời sống qua chính cảm nhận của người kể chuyện xưng tôi. Đó là dụng ý sắp đặt những căn lều với mục đích phỉnh phờ Tchiyo. Rồi sự trâng tráo của Derbeck khi phơi bày mọi bí mật liên quan đến hoạt động truyền bá đạo Thiên Chúa dưới cái nhìn ngạc nhiên của Hizen: "Ông ta trả lời tôi rằng đã ở ngoài vòng tố tụng của mọi cấp chính quyền địa phương thì ông ta chả có gì phải sợ tôi" [1, tr. 107]. Chính sự điều khiển của ý chí quyền lực là động lực sâu xa của khao khát chiếm hữu, ham muốn tranh giành tầm ảnh hưởng tôn giáo của Derbeck, khiến ông ta không cần mượn chiếc áo nào để che đậy tham vọng trong nội tâm. Theo dòng tự thuật của nhân vật Hizen, cái quyền năng vô hạn của người da trắng ngày càng được xác nhận và thể hiện rõ nét: "Như thế là Hart có được điều ông ta mong muốn và tôi cảm thấy hình như không cái gì có thể cưỡng lại được ông ta" [1, tr. 123]. Có thể không ngần ngại khi khẳng định rằng, từ cuộc tấn công bất thành của những thân gỗ vào cây cầu đến việc phá hầm xuyên núi - những hoạt động chinh phục tự nhiên xuất phát từ tính cách cầu toàn - những người da trắng trong tác phẩm đã thật sự khẳng định vai trò chủ nhân thế giới, tạo dựng nên sự tôn nghiêm và vĩ đại của họ. Dường như uy lực của súng đạn và khoa học kỹ thuật phương Tây đã thế chỗ hùng khí truyền thống của người phương Đông trong xã hội cận đại. Và phải chăng những thay đổi đáng kinh ngạc trong lòng xã hội Nhật Bản là nhờ sự thúc đẩy của ý chí quyền lực của những kẻ mạnh như James Hart hay Neufville?
  9. 344 HỒ THỊ THANH LOAN Ưu thế này cũng được chính những những người da trắng nhìn nhận qua những cuộc đối thoại giữa các nhân vật khi cùng đứng trước một vấn đề. Không phải ngẫu nhiên Phạm Văn Ký để nhân vật Hizen và Neufville trao đổi với nhau về nguyên nhân của những đầu óc phát minh, điều có thể được xem là mặt hạn chế khá nổi bật của bối cảnh xã hội Nhật Bản thời bấy giờ. Và câu trả lời của tay kỹ sư người Pháp này có thể được xem là một minh chứng tiêu biểu cho diễn ngôn văn hóa kẻ mạnh: "trong ý nghĩa rộng lớn của nó, đây không phải là một sản phẩm của sự bần cùng, mà là một sản phẩm của sự nhàn hạ và giàu có" [1, tr. 141]. Có lẽ, chính cảm giác tự tin khi chinh phục tự nhiên khiến những nhân vật này phần nào có thể vượt qua cảm giác bất an, lo sợ, giữ vững quyết tâm của bản thân trong mọi hoàn cảnh. Đối với các nhân vật như James Hart, Neufville, văn hóa không chỉ là niềm tự hào mà còn là một nguồn nhận thức về ưu thế của họ trong quan hệ với các nền văn hóa khác. Diễn ngôn văn hóa kẻ mạnh xác lập vị thế thượng phong cho những nhân vật có lai lịch châu Âu, trong khi những tâm hồn Nhật Bản nặng trĩu nỗi niềm hoài cổ luôn ý thức về những rạn vỡ ngấm ngầm phá hủy truyền thống văn hóa mấy ngàn năm trong nỗi đau đớn khôn cùng nhưng đành bất lực nhìn lịch sử vận hành theo quy trình khách quan của nó. Sự suy yếu của nền chính trị Nhật Bản nói riêng và các nước phương Đông nói chung với hai phái Đổi mới và Hoài cổ trong tương quan với diễn ngôn văn hóa kẻ mạnh trong tác phẩm khiến độc giả buộc phải suy ngẫm về việc xóa bỏ khuynh hướng hoài cổ để xây dựng một đất nước hùng mạnh. Một cảm giác nhức nhối, ám ảnh ngay cả khi gấp trang sách lại. 3.2. Diễn ngôn văn hóa kẻ yếu Không phải ngẫu nhiên Marx lại khẳng định rằng: "Tư tưởng của giai cấp thống trị là tư tưởng thống trị của thời đại". Theo đó, ắt hẳn sẽ có một bộ phận diễn ngôn bị kẻ mạnh đánh giá, phán xét và không có cơ hội ngược lại. Trước thái độ tự mãn và lối cư xử của những "kẻ xâm lăng hòa bình”, nỗi ám ảnh về thân phận bị mất tổ quốc của đại úy Hizen luôn khiến anh có cảm giác bực bội khi nghĩ đến địa vị nhược tiểu của dân tộc mình. Không chỉ đối với những sự kiện quan trọng, ngay cả việc thay đổi những chi tiết trong bộ quân phục cũng khuấy động trong tâm hồn Hizen bao suy ngẫm: "Lại nữa, chúng tôi phải tránh mọi rủi ro, mọi nguy cơ tạo ra thói quen phụ thuộc mà đôi khi thoát được nó thật không dễ dàng gì" [1, tr. 41]. Đến cả tiếng cười cũng được đặt lên trong tương quan đối sánh văn hóa, gắn với những mặc cảm thường trực mang tầm dân tộc: "Tôi hỏi Neufville phải chăng anh ta định bóng gió rằng cái cười của chúng tôi và những công trình lớn nhỏ mà chúng tôi đang tiến hành là chẳng đến đầu đến đũa" [1, tr. 71]. Đa phần những nhân vật mang quốc tịch Nhật Bản trong tác phẩm đều mang trong mình tâm lí tự ti, yếu đuối, thụ động. Hình ảnh “đứa trẻ đang ngậm vào một nguồn sữa khô cạn” cùng với giọng điệu tra vấn về danh dự của nước Nhật đã thể hiện một cách sinh động vị trí của Nhật Bản trong mối tương quan quyền lực giữa hai nền văn hóa, dù không ít lần ý thức phản kháng vẫn trỗi dậy qua mong muốn tìm đến một lực lượng cầu viện để đối lập lại với phương Tây. Những góc khuất của lịch sử và những cuộc vận động nội tâm trong thế giới tâm hồn của con người không thể nào được phơi trải một cách chân thành, cảm động nếu đó không phải là câu chuyện của một số phận với cái tôi trải nghiệm trung thực, chân thành: từ việc nhượng bộ, nhận mọi lỗi lầm về mình trong những lần xảy ra tranh chấp; không tìm được lời giải thích cho Osuko về sự thất bại của nền y học Nhật Bản trước một ca bệnh hoàn toàn mới đến sự bất lực của các võ sĩ, những chiến binh Nhật Bản trước những cơn mưa đạn pháo khốc liệt vào các hải cảng; ý thức về sự bất công hiện hữu khi Yatoi tước đi búi tóc đẹp đẽ trên đỉnh đầu Shojo mà chẳng tặng lại anh ta cái gì; nhận chân sự yếu thế của dân tộc Nhật Bản trong những bước đi đầu tiên hướng về phương Tây qua quan sát dáng đi lảo đảo của Katsu trong một cuộc
  10. CẢM QUAN LIÊN VĂN HỎA TRONG TÁC PHẨM MẤT NƠI Ở CỦA PHẠM VĂN KÝ 345 phiêu lưu "mà hàng nghìn năm di truyền tiến hóa của giống nòi không hề chuẩn bị cho cậu chút nào hết" [1, tr. 119]. Mặc cảm trong tâm thức của con người thuộc những dân tộc nhược tiểu không phải là một vấn đề mới. Thế nhưng, hiếm bắt gặp tác phẩm nào mà cảm giác bất an, lo lắng đeo bám, hiện hữu với một mật độ dày đặc như Mất nơi ở. Ám ảnh thường trực về địa vị nhược tiểu của dân tộc mình, bất an, tổn thương, đau đớn về mặt tinh thần, phải chăng đó chính là tiên liệu của nhân vật về một kết quả tất yếu mà họ không tài nào thoát ra: mất nơi cư ngụ trong tâm hồn, bất ổn, chông chênh ngay trên chính không gian văn hóa quen thuộc của bản thân. Và dường như càng vùng vẫy, con người càng bị cuốn vào những va đập không đi đến hồi kết. Mặc dù không thể phủ nhận sức mạnh của văn minh phương Tây nhưng không vì thế những ảnh hưởng từ châu Âu có thể chiếm ưu thế tuyệt đối trong suy nghĩ, hành vi, ứng xử của các nhân vật trong tác phẩm Mất nơi ở. Buộc phải vâng lệnh Thiên Hoàng áp dụng triệt để văn minh kỹ thuật phương Tây nhưng Hizen không chỉ thể hiện thái độ ngưỡng mộ đối với lý tưởng võ sĩ đạo của Osuko mà còn dũng cảm lên tiếng chống lại chủ nghĩa vật chất của người da trắng, thể hiện thái độ hoài nghi trước hạnh phúc do khoa học kỹ thuật mang đến: "Không, thưa đại úy Neufville, tôi không chấp nhận để có được các kỹ thuật của ngài, chúng tôi buộc phải từ bỏ tất cả; tôi thấy kỹ thuật của các ngài có vẻ là giả tạo, rời rạc và không có linh hồn" [1, tr. 324]. Bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận được của văn minh phương Tây, độc giả ngỡ ngàng khi cùng với nhân vật khám phá ra những mặt trái của nền văn hóa kỹ trị khi nhân vật không những không được giải phóng trong quá trình đổi thay đó mà ngày càng thấu cảm rõ hơn về trạng huống mất tự do, xu hướng bị lệ thuộc và trở thành nô lệ của máy móc hiện đại. Viết về điều này, Phạm Văn Ký đã thổi vào tác phẩm của mình những tư tưởng nhân văn sâu sắc. Bị áp chế và nhiều lúc phải phục tùng, nhưng nhiều lúc diễn ngôn văn hóa Nhật Bản vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ của sự phản kháng và có những ảnh hưởng nhất định đối với văn hóa phương Tây. Nói theo ngôn ngữ của Hizen: "tôi đang chuẩn bị ngấm ngầm những gì để chống lại những người thầy hôm qua của tôi" [1, tr. 355]. Thái độ phản kháng đó không chỉ thể hiện qua suy nghĩ mà còn được cụ thể hóa thành hành động. Đó là tiếng xé gió của một mũi tên phát ra từ bụi rậm trước vẻ thán phục của Baudouvin thể hiện sức mạnh ngang ngửa với súng ống hiện đại. Hay động tác khóa tay đã giúp Shojo hạ đo ván đối thủ Baudouvin một cách thuyết phục. Điều này cùng với những tiến bộ của lính bộ binh trong quá trình tập luyện ngắm bắn cũng khiến Neufville và Baudouvin phải xem lại các ý kiến của họ về khả năng của người Nhật Bản trong chiến tranh hiện đại. Ngay cả những nhân vật chịu ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế thị trường như Yatoi cũng luôn tiềm tàng sức mạnh phản kháng trước những kẻ ngoại bang qua bức ảnh chụp cảnh cuối cùng của trận đấu giữa Shojo và Baudouvin. Ngoài ra, bài học về việc học cách ngã của Nhật Bản đã có tác động to lớn tới suy nghĩ của Antell, cùng với nhiều nhân vật khác như Neufville, Baudouvin, thôi thúc những nhân vật này tự mình mày mò và luyện tập. Từ địa vị đi khai hóa một vùng đất mới, họ tự nguyện trở thành học trò của Hizen. Qua đó, chúng ta thấy được sự lôi cuốn, hấp dẫn của văn hóa tinh thần Nhật Bản. Như vậy, quá trình hội nhập giữa hai nền văn hóa Đông - Tây không chỉ diễn ra theo một chiều, đó là sự giao thoa có đi có lại. Phạm Văn Ký đã chuyển tải những trăn trở ấy qua những lập luận giản dị của nhân vật Shojo: "vì chúng ta mang nợ người nước ngoài súng sát-xơ-pô và kỹ thuật quân sự, thì chúng ta phải đáp lễ họ" [1, tr. 85]. Thông qua thái độ trầm trồ của nhân vật Antell trước vẻ đẹp tinh xảo của hàng thủ công Nhật Bản, có thể khẳng định về mặt chế tạo hóa phẩm, hàng của Nhật có thể tranh thắng với phương Tây về mỹ thuật. Như vậy, Phạm Văn Ký đã gửi gắm niềm tin trọn vẹn của ông về nền văn hóa Á Đông. Chúng ta
  11. 346 HỒ THỊ THANH LOAN cũng có thể vượt qua phương Tây trong một số lĩnh vực nhất định, nên không nhất thiết cứ giữ mặc cảm thua người, mà cần biến những điểm hạn chế thành dấu ấn đặc trưng của văn hóa dân tộc. Trong một cuộc trò chuyện giữa nhân vật Hizen với Antell, Phạm Văn Ký đã để cho các nhân vật này tự do trình bày quan điểm của mình về lựa chọn của đất nước Nhật Bản trước dòng thác của lịch sử: "- Cái gì chia rẽ chúng ta hả Antell? - Thì là phải kéo khi người ta đẩy anh. Phải chăng trên tinh thần này, mà các anh đã dùng vũ khí, đường sắt và máy điện báo của chúng tôi?" [1, tr. 231]. Điều đặc biệt là những vấn đề liên quan tới vận mệnh quốc gia lại được đặt trong mối tương quan độc đáo với những kỹ thuật đẩy và kéo trong môn võ jiu-jitsu, những điều chia rẽ giữa các dân tộc lại chính là lý do khiến chúng ta xích lại gần nhau. Nhờ vậy, Nhật Bản đã thực hiện thành công cải cách Minh Trị, phát triển đất nước theo hướng hiện đại hóa và chống được sự xâm lược của phương Tây. Bằng giọng điệu tra vấn, không ít lần Mất nơi ở thể hiện cái nhìn hoài nghi về sự trấn áp của văn hóa, văn minh ngoại bang xuất phát từ sự áp đặt văn hóa: "Viên đạn này giết người, còn viên đạn phục sinh ở đâu?" [1, tr. 236]. Thông qua việc đặt trọn niềm tin vào sức mạnh nội sinh của văn hóa Nhật Bản nói riêng và văn hóa phương Đông nói chung, Phạm Văn Ký đã khơi dậy nơi người đọc niềm kiêu hãnh về sự trường cửu của văn hóa bản địa, khả năng thuần hóa những ảnh hưởng từ bên ngoài để tạo nên sự phong phú của văn hóa dân tộc. Có thể thấy rằng, giá trị to lớn của Mất nơi ở được kết tinh ở chiều sâu nhận thức văn hóa cũng như phẩm chất nghệ thuật độc đáo của tác giả Phạm Văn Ký. Ông đã tập trung bút lực khắc họa một không gian nghệ thuật đặc trưng cho cảm thức văn hóa Nhật Bản, dẫu phảng phất u buồn, bàng bạc niềm luyến tiếc dĩ vãng cũng như những giá trị truyền thống đang trên đà phôi pha nhưng không thể phủ nhận sức lay động mạnh mẽ của tác phẩm trước những vấn đề muôn thuở khi liên tục để nhân vật của mình thực hiện vai trò đối sánh văn hóa giữa Đông và Tây. Bằng hình thức người kể chuyện đồng sự với cái tôi tự thuật, tiểu thuyết Mất nơi ở thật sự đã bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương Đông và phương Tây trong lòng độc giả. Cốt truyện được xây dựng dựa trên dòng hồi tưởng của nhân vật Hizen, nhờ đó, những dòng cảm xúc đan cài giữa quá khứ và hiện tại, giữa độc thoại và đối thoại đan xen nhau một cách linh hoạt, những vấn đề khuất lấp của lịch sử được tái hiện và nhận chân qua lăng kính chủ quan của một cá nhân nhưng không vì thế mà kém phần thuyết phục. Nó thể hiện cái nhìn nhân văn, thái độ đồng cảm của tác giả đối với những con người, những cảnh đời trái ngang trong xã hội, khi những chiều hướng văn hóa khác biệt nhưng vẫn tồn tại song hành và tác động qua lại, va chạm với nhau trên những địa vị văn hóa khác nhau. Người đọc bị dẫn dụ cuốn theo mạch cảm xúc, tâm lý nhân vật bởi giọng kể mượt mà, sâu lắng, trữ tình cũng như những suy ngẫm ý vị về con người và cuộc sống, về vị thế văn hóa của từng nhân vật trong tương quan với nền văn hóa dân tộc. 4. MẤT NƠI Ở VÀ VẤN ĐỀ GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA TRONG TÍNH HÒA HỢP Có thể thấy rằng, những vấn đề Phạm văn Ký đặt ra trong Mất nơi ở có liên quan mật thiết tới câu chuyện hội nhập văn hóa hôm nay, mặc dù khung cảnh thiên nhiên, ngôn ngữ, nghi lễ, phong tục trong tác phẩm là hình ảnh chân xác về một thời đã qua, đem lại những khám phá mới mẻ về lịch sử và con người Nhật Bản. Biên độ phản ánh hiện thực của tác phẩm do vậy cũng mở rộng ra đến vô cùng bởi tính thời sự cập nhật của nó. Viết về tấn bi kịch của những kẻ bảo thủ hoặc cực đoan trong đổi mới, bài toán mà Phạm Văn Ký đặt ra sẽ mãi là vấn đề mà mỗi dân tộc phải tự mình đi tìm lời giải, dựa trên thực trạng kinh tế - xã
  12. CẢM QUAN LIÊN VĂN HỎA TRONG TÁC PHẨM MẤT NƠI Ở CỦA PHẠM VĂN KÝ 347 hội và vị thế khác nhau. Song dường như những khuynh hướng cực đoan đều xấu và là con đường dẫn tới sai lầm trong chọn lựa. Do đó, có thể khẳng định rằng Mất nơi ở là tác phẩm chứa đựng biết bao nghiền ngẫm về lịch sử, văn hóa của Phạm Văn Ký. Khát vọng về một thế giới hòa hợp, tôn trọng lẫn nhau của Phạm Văn Ký có nhiều điểm tương đồng với luận điểm của lý thuyết liên văn hóa: Không có nền văn hóa nào ở vị thế trung tâm tuyệt đối, cũng như không có chủ thể thông diễn nào mang tính nền tảng độc nhất. Bàn về vấn đề này, tác giả Trần Huyền Sâm đã khẳng định: "Liên văn hóa có nhiệm vụ chống lại quan điểm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan và thái độ xâm lấn, chiếm hữu thô bạo của chủ nghĩa toàn trị" [3, tr. 397]. Nỗi đau nhức nhối, âm ỉ của nhân vật khiến chúng ta bàng hoàng nhận ra những mặt trái của xu hướng toàn cầu, nhận rõ mình hơn trong bối cảnh đó để có những lựa chọn thích hợp. Viết về nỗi đau, sự mất mát nhưng tác phẩm vẫn sáng bừng lên niềm lạc quan, thái độ tin tưởng vào một thế giới mới, nơi các dân tộc tồn tại bên nhau, đối thoại để vươn tới sự hòa hợp trong tính đa dạng bản sắc. Trong tác phẩm, thái độ chấp nhận sự khác biệt được minh họa qua việc học cách ngã theo tinh thần của môn võ jiu-jitsu đã giúp các nhân vật vượt qua trở ngại và tìm ra lối đi hướng về phương Tây. Nói cách khác, chính sự xâm lấn của các giá trị văn minh phương Tây đã tạo ra cơ hội để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của tiến trình hội nhập. Thành công của công cuộc Duy Tân là nhờ hiểu rõ sức mạnh và giá trị của văn minh phương Tây, chấp nhận và gia nhập để tận hưởng những thành quả của nền văn minh ấy: "Cái báu vật chung của nhân loại lẽ ra chỉ thuộc sở hữu của người Hy Lạp mà nay nó sắp thuộc về chúng tôi chẳng phải khó khăn gì, đây không là điều tuyệt vời sao?" [1, tr. 192]. Quá trình khởi công chiếc cầu, tuyến đường xe lửa cùng đường dây điện báo đã làm cho đời sống xã hội Nhật Bản nâng lên rõ rệt, cải tạo cách tư duy cũ để tiếp cận lối nhận thức và suy luận mới, cách tổ chức đời sống vật chất xã hội theo gương các nước phương Tây tân tiến văn minh. Thế giới chúng ta đang sống ngày càng hội nhập một cách sâu sắc và toàn diện. Xu thế hội nhập đang được các quốc gia nhận thức là khuynh hướng tất yếu. Khi để những nhân vật thuộc kiểu con người Âu hóa triệt để như Katsu, Eitaro Hizen hay những con người tự tin với tính cách quyết liệt như Katana gặt hái được thành công ở đoạn kết, phải chăng nhà văn muốn khẳng định sự phụ thuộc phổ biến giữa các quốc gia. Bằng chứng là những biểu hiện sốc nổi, nhất thời của các nhân vật thường đem lại những hậu quả không mong muốn cho con người ở cả hai nền văn hóa Á - Âu. Sự kết hợp nhuần nhuyễn Đông - Tây sẽ là tiền đề để tạo ra tính ưu việt trong hệ thống các thang bậc giá trị văn hóa. Nhìn chung, sự đụng độ giữa các nền văn minh là điều không thể tránh khỏi; song không nên vì vậy mà giữ quan điểm cực đoan, không thấy sự hợp tác trên cơ sở những truyền thống văn hóa đa dạng. Đó chính là lý do mỗi dân tộc cần phải phát huy hiệu quả của hoạt động đối thoại, hướng tới những giá trị chung, phổ quát của nhân loại, tránh tình trạng trì trệ, tụt hậu so với thời đại. Mặt khác, cần có ý thức giữ gìn những giá trị tinh thần truyền thống kết tinh bản sắc văn hóa dân tộc. Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ làm biến đổi diện mạo thế giới, cho phép nối dài các khả năng và rút ngắn khoảng cách giữa con người với con người, con người với thế giới. Không có một nền văn hóa nào có lí do đứng ngoài cuộc mà phải chung sống hòa hợp với các nền văn hóa khác. Với mong ước đạt tới tính phổ quát, sự hòa hợp trong một thế giới liên văn hóa, Phạm Văn Ký không chỉ phục dựng lịch sử và bối cảnh văn hóa sinh động ở tiểu tiết mà điều đáng nói hơn là ông đã miêu tả được tinh thần và khát vọng của lịch sử. Làm thế nào để hướng tới sự giao lưu liên văn hóa trong sự hòa hợp giữa hai nền văn minh Đông - Tây, đó là con đường để mỗi dân
  13. 348 HỒ THỊ THANH LOAN tộc khắc phục những hạn chế về mặt truyền thống văn hóa tư tưởng, bồi đắp, bổ sung cho nhau và vươn ra thế giới. Sự tương tác văn hóa trong Mất nơi ở đã cung cấp cho chúng ta một kinh nghiệm tiếp cận lý thuyết liên văn hóa, gợi mở biết bao điều thú vị, thể hiện một cách lí giải của tác giả về hiện tượng thần kì Nhật Bản. Và cho đến tận bây giờ, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vấn đề hội nhập văn hóa được đặt ra trong tác phẩm vẫn thể hiện được tính thời sự của nó. Làm thế nào để vừa giữ gìn, phát huy được sắc thái văn hóa riêng của từng dân tộc, vừa đạt được sự thống nhất hài hòa trong tổng thể văn hóa của toàn nhân loại là một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp. Phạm Văn Ký không phải là nhà văn duy nhất viết về sự tương liên, giao thoa văn hóa. Đề tài thú vị này thật sự đã thu hút rất nhiều cây bút tên tuổi. Thế nhưng, Mất nơi ở của Phạm Văn Ký vẫn gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bởi lối viết giàu hình ảnh, giàu chất thơ hòa điệu với giọng văn thâm trầm triết lý tạo nên những rung cảm thẩm mỹ, những dư vị xốn xang khi gấp trang sách lại. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phạm Văn Ký (Phạm Văn Ba dịch) (2006). Mất nơi ở, NXB Hội nhà văn. [2] Hữu Ngọc (2006). Hoa anh đào và điện tử, NXB Văn nghệ. [3] Trần Huyền Sâm (2013). Tính chất liên văn hóa trong xã hội Nhật Bản qua tiểu thuyết Mất nơi ở của Phạm Văn Ký, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hồ Chí Minh, tr. 391-397. [4] Bùi Bích Vân (2003). “Những trào lưu tư tưởng chủ yếu thời Nhật Bản cận đại (1868 – 1945)”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, (5), tr. 56-62. Title: INTERCULTURAL PERCEPTION IN THE NOVEL LOSING THE PLACE TO LIVE BY PHAM VAN KY Abstract: Talking about the clash between the East and the West in the 1970s of the 19th century in the context of Japanese society in Meiji era, Losing the place to live became the most famous literary work of Nguyen Van Ky when achieving the prestigious award from the French Academy in 1961. Obviously, this is a well-deserved award for the author’s effort. However, a sad thing is that the name of Nguyen Van Ky and his rich-in-ideology novel have not been adequately appreciated in Vietnamese literary life.Our discussion will focus on the clarification of the intercultural perception of the novel on three aspects. Firstly: The selecting attitude and destiny of the characters in Losing the place to live in the reel of history. Secondly: The cultural discourse of the strong and the weak in Losing the place to live. Thirdly: Losing the place to live and the harmony in intercultural communication. Keywords: intercultural perception, intercultural philosophy, globalization, intercultural exchange, intercultural dialogue, intercultural communication. HỒ THỊ THANH LOAN Học viên Cao học, chuyên ngành Lý luận Văn học, khóa 21 (2012-2014), Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế ĐT: 0121 464 0975, Email: beloan107@gmail.com
nguon tai.lieu . vn