Xem mẫu
- Cách viết báo cáo khoa học
Tại sao phải công bố báo cáo khoa học?
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, các bài báo khoa học đóng
một vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ là một bản báo cáo về
một công trình nghiên cứu, mà còn là một đóng góp cho kho tàng
tri thức của thế giới. Khoa học tiến bộ cũng nhờ một phần lớn vào
thông tin từ những bài báo khoa học, bởi vì qua chúng mà các nhà
khoa học có dịp trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Một công trình nghiên cứu thường được tài trợ từ các cơ quan nhà
nước, và số tiền này là do dân chúng đóng góp. Khi tiến hành
nghiên cứu, nhà nghiên cứu có khi phải nhờ đến sự tham gia của
tình nguyện viên hay của bệnh nhân. Trong trường hợp đó, tình
nguyện viên và bệnh nhân phải bỏ thì giờ, tạm bỏ qua công ăn việc
làm để tự nguyện cung cấp thông tin và có khi hi sinh một phần da
máu cho nhà nghiên cứu. Nếu một công trình nghiên cứu đã hoàn
tất mà kết quả không được công bố, thì công trình nghiên cứu đó
có thể xem là có vấn đề về y đức và đạo đức khoa học, và nhà
nghiên cứu có thể xem như chưa hoàn thành nghĩa vụ của mình với
sự đóng góp của quần chúng. Do đó, báo cáo khoa học trên các
diễn đàn khoa học quốc tế là một nghĩa vụ của nhà nghiên cứu, là
- một cách gián tiếp cám ơn sự đóng góp của bệnh nhân và giúp đỡ
của dân chúng qua sự quản lí của nhà nước.
Đối với cá nhân nhà khoa học, báo cáo khoa học trên các tập san
khoa học quốc tế là một “currency” (đơn vị tiền tệ). Đó là những
viên gạch xây dựng sự nghiệp của giới khoa bảng. Tại các đại học
Tây phương, số lượng và chất lượng bài báo khoa học là tiêu chuẩn
số một trong việc xét đề bạt lên chức giảng sư hay giáo sư. Vì thế
công bố báo cáo khoa học, đối với giới khoa bảng Tây phương, là
một việc làm ưu tiên hàng đầu của họ. Chính vì thế mà các đại học
Tây phương có cái văn hóa gọi là “publish or perish” (xuất bản hay
là tiêu tan). Nếu trong vòng 1 hay 2 năm mà nhà khoa bảng không
có một bài báo nào đăng trên các tập san khoa học quốc tế, ban
giám hiệu sẽ mời vị đó trả lời câu hỏi “tại sao”. Nếu có lí do chính
đáng thì còn giữ chức vụ; nếu không có lí do chính đáng thì có
nguy cơ mất chức như bỡn.
Nói tóm lại, báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế
(không chỉ ở trong nước) là một việc làm chính yếu, một nghĩa vụ,
và một điều kiện để tồn tại của một nhà khoa học. Nhưng từ lúc
tiến hành nghiên cứu, thu thập dữ kiện đến lúc có báo cáo là một
quá trình gian nan. Một công việc còn gian nan hơn nữa là làm sao
đảm bảo báo cáo được đăng trên một tập san khoa học có uy tín
trên thế giới. Vì thế, các nhà khoa học cần phải đặc biết chú ý đến
- việc soạn thảo một báo cáo khoa học sao cho đạt tiêu chuẩn quốc
tế. Bài viết này mách bảo một cách thân mật những “mẹo” và kĩ
năng để đạt tiêu chuẩn đó.
Báo cáo khoa học: khổ hạnh
Mỗi bài báo khoa học là một công trình khổ hạnh. “Khổ hạnh” ở
đây phải được hiểu theo nghĩa vừa đau khổ, vừa hạnh phúc. Đau
khổ trong quá trình chuẩn bị và viết thành một bài báo, và hạnh
phúc khi nhìn thấy bài báo được công bố trên một tập san có nhiều
đồng nghiệp đọc và chia sẻ. Để đạt kết quả sau cùng này, tác giả
phải phấn đấu làm sao để giữ sự cân bằng giữa tính trong sáng và
[nhưng] nội dung phải đầy đủ. Bài báo phải làm sao hấp dẫn
người đọc và để người đọc “nhập cuộc”. Bài báo phải được viết
bằng một văn phong cực kì súc tích, nhưng phải đầy đủ. Đó là
những yêu cầu rất khó mà không phải tác giả nào cũng đạt được.
Nếu không tiếp cận vấn đề một cách có việc hệ thống, tất cả những
nỗ lực cho một bài báo khoa học có thể trở nên vô dụng, thậm chí
đem lại ảnh hưởng xấu vì một công trình nghiên cứu sẽ không có
cơ hội xuất hiện trên các tập san chuyên môn. Mặc dù ở các nước
phương Tây, người ta đã có nhiều bài viết chỉ dẫn – thậm chí cả
sách dạy – cách viết một bài báo khoa học, nhưng ở nước ta, hình
như vẫn chưa có một tài liệu chỉ dẫn như thế. Bài viết này, vì thế,
được soạn ra nhằm mục đích duy nhất là cung cấp cho bạn đọc
- những chỉ dẫn đơn giản và thực tế để sao cho bạn đọc có thể tự
mình viết một bài báo khoa học đạt yêu cầu của các tập san khoa
học quốc tế.
Vạn sự khởi đầu nan …
Viết một bài báo tốt là một việc làm không đơn giản chút nào, nếu
không muốn nói là phức tạp. Nó đòi hỏi người viết phải sáng tạo
và suy tưởng … trong lặng lẽ. Con đường dẫn đến một sản phẩm
hoàn hảo không bao giờ là một con đường thẳng, mà là một con
đường với nhiều ngỏ ngách, nhiều đường cùng, và nhiều chông
gai. Nói một cách ngắn gọn, viết cần phải có thời gian. Thành ra,
cách tốt nhất là phải khởi công viết càng sớm càng tốt, đừng bao
giờ để cho đến giai đoạn cuối của nghiên cứu mới viết.
Tác giả có thể viết ngay những phần cần viết ra của bài báo trong
khi công trình nghiên cứu vẫn còn tiến hành. Phát họa ra phần dẫn
nhập (introduction) ngay từ khi công trình nghiên cứu đang được
thai nghén. Viết phần phương pháp (methods) ngay trong khi
công trình nghiên cứu còn dở dang. Làm đến đâu, viết ngay đến
đó. Sau cùng là một phát họa những biểu đồ, bản thống kê cần
phải có trong bài báo.
Viết ra những ý tưởng và phương pháp sớm giúp cho nhà nghiên
cứu rất nhiều trong những lần sửa chữa sau này. Chẳng hạn như
- làm sáng tỏ động cơ và lí do nghiên cứu trong phần dẫn nhập giúp
cho nhà nghiên cứu nhận ra bối cảnh mà công trình nghiên cứu có
thể đóng vai trò. Viết ra những phương pháp nghiên cứu giúp cho
nhà nghiên cứu khỏi phải tốn công xây dựng lại những bước đi,
những thủ tục mà công trình nghiên cứu đã hoàn tất. Việc phát
thảo ra những biểu đồ và bản số liệu giúp cho nhà nghiên cứu tập
trung vào nỗ lực phân tích dữ kiện. Và quan trọng hơn hết, khi
ngồi xuống viết, tự việc làm đó, tạo cơ hội cho [hay nói đúng hơn
là bắt buộc] nhà nghiên cứu phải suy nghĩ nghiêm túc về việc làm
của mình.
Một điều quan trọng khác là tác giả cần phải bỏ ra một thời gian
tịnh tâm suy nghĩ về cái thông điệp của công trình nghiên cứu cho
cộng đồng khoa học. Trong phần này, tác giả nên chịu khó viết ra
những điểm chính nhằm trả lời những câu hỏi sau đây: tại sao
mình làm những gì mình đã làm; thực tế mình đã làm gì; mình phát
hiện điều gì mới lạ; và những điều này có ý nghĩa gì?
Tập trung vào những thông tin chính
Mặc dù thành phần độc giả của các tập san khoa học có thể rất đa
dạng, một đặc tính mà giới chuyên môn đều có chung là: bận rộn.
Giới khoa học gia, bác sĩ, kĩ sư, nhà quản lí, lãnh đạo … có lẽ chỉ
nhìn qua bài báo khoa học một cách nhanh chóng, chứ ít khi nào
có thì giờ nghiền ngẫm từng chi tiết trong bài báo. Tuy rằng phần
- lớn tác giả nghiên cứu biết điều này, nhưng họ có thể không nghĩ
đến khi đặt bút xuống soạn bài báo khoa học. Do đó, tác giả nên tự
đặt mình vào vai trò của người đọc và suy nghĩ như người đọc
bằng cách chú ý đến những gì mà người đọc muốn tìm hiểu: tựa đề
bài báo, bản tóm tắt (abstract), những bản số liệu, và biểu đồ.
Tựa đề và tóm tắt
Tựa đề và bản tóm tắt là hai phản chiếu đầu tiên đập vào mắt của
người đọc. Đây cũng là phần mà đại đa số người đọc đọc trước khi
quyết định có nên đọc tiếp hay không. Tất nhiên, tựa đề và bản
tóm tắt là hai phần được đưa vào danh mục của thư viện điện tử.
Do đó, nhà nghiên cứu cần phải để tâm suy nghĩ cẩn thận khi soạn
hai phần này sao cho thu hút sự chú ý của người đọc. Hai phần
này cần phải được viết trước hết, trước khi cả đặt bút viết các phần
khác của bài báo.
Bảng số liệu và biểu đồ
Yếu tố thị giác rất quan trọng. Nếu người đọc quyết định đọc bài
báo (sau khi đã xem qua tựa đề và bản tóm tắt), họ sẽ tiếp tục xem
đến các bảng thống kê và biểu đồ. Các bảng thống kê số liệu
thường được dùng để trình bày những số liệu mang tính trang
trọng, tính chính xác cao, tính chính thức. Các bảng thống kê có
thể dùng để tổng hợp và so sánh số liệu của các công trình nghiên
- cứu trong quá khứ, để giải thích mối liên hệ giữa các nhân tố trong
công trình nghiên cứu, hay trình bày những câu hỏi đã được sử
dụng trong công trình nghiên cứu.
Người Trung Hoa từng nói “Một biểu đồ có giá trị bằng một vạn
chữ viết.” Mục đích của biểu đồ là cung cấp một ấn tượng về phát
hiện chính của công trình nghiên cứu. Biểu đồ có khi được dùng
làm tài liệu giảng dạy. Vì thế biểu đồ là một phương tiện hữu hiệu
nhất để nhấn mạnh thông điệp của bài báo. Biểu đồ thường được
sử dụng để thể hiện xu hướng và kết quả cho từng nhóm, nhưng
cũng có thể dùng để trình bày dữ kiện một cách gọn gàng. Các
biểu đồ dễ hiểu, nội dung phong phú là những phương tiện vô giá.
Do đó, nhà nghiên cứu cần phải suy nghĩ một cách sáng tạo cách
thể hiện số liệu quan trọng bằng biểu đồ.
nguon tai.lieu . vn