Xem mẫu

  1. 42 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 5 (187)-2011 Ng«n ng÷ víi v¨n ch−¬ng C¸ch nãi cña ng−êi miÒn t©y nam bé qua ca dao TrÇn minh th−¬ng (ThS, Héi V¨n nghÖ d©n gian ViÖt Nam) 1. Người miền Tây Nam bộ với câu nói, Chờ nơi chết vợ sẵn sàng nhảy vô tiếng cười Tiếng nói không dừng lại ở chức năng kể lể, Theo Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Quốc truyền đạt mà đối với họ nói còn là nghệ thuật. Vượng (chủ biên), phần được coi là Tây Nam Bộ Độc đáo hơn chính từ lớp khẩu ngữ mộc mạc ấy, có diện tích khoảng 4.000 km2, chủ yếu là vùng đi vào lời ngâm, câu hò, điệu lý, …, hình thành đồng bằng sông Cửu Long, một số đảo (lớn nhất nên những vần ca dao - một thể loại trữ tình dân là đảo Phú Quốc) cùng một vài dãy núi thấp ở gian. Khám phá từ đây, phần nào chúng ta nhận phía Tây An Giang, Kiên Giang. thấy được bản tính của người bình dân miền đất Hầu hết các nhà văn hoá học, dân tộc học, … Cửu Long giang. đều có chung nhận định tương đối thống nhất về 2. Những cách nói của người Tây Nam bộ tính cách người Nam Bộ. Họ là những người hào thể hiện qua ca dao hiệp trong cuộc sống, bình đẳng trong giao tiếp, 2.1. Về mặt ngữ âm ít bảo thủ. Thứ nhất, khi khảo sát về mặt ngữ âm, chúng Xưa, Tây Nam bộ từ miền đất hoang vu rừng tôi nhận thấy ca dao Tây Nam Bộ có nhiều hiện rậm, nhiều sông rạch, đầm lầy muỗi kêu như sáo tượng nói trại, tức là nói lệch đi cấu tạo của âm thổi, đỉa lội tợ bánh canh, dưới sông sấu rống, chính trong tiếng. Từ đó, tạo nên lớp từ biến âm trên rừng cọp um, … Người nông dân Tây Nam đa dạng trong lời nói của đồng bào. Họ không bộ lao động cần cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp nói thuyền mà thay bằng thoàn, nhơn ngãi, nhơn nối thế hệ trước cải tạo những vùng đất bát ngát ngỡi, thay cho nhân nghĩa, Châu Do thay cho nhưng phèn chua và ngập nước, sinh sống bằng Chu Du (nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa), nghề trồng lúa, đánh bắt cá tôm, … Ở vùng đất bệnh thay bằng bịnh, huê thay cho hoa, luỵ thay giồng cao hơn thì trồng cây hái trái, trồng tỉa hoa cho lệ, … Nguyên nhân thì có nhiều: vì kiêng màu,… Ðể tồn tại và phát triển tất yếu các gia huý, để kiêng dè, kính trọng, hoặc … để đơn đình nông dân trong xóm ấp liên kết lại, lao thuần chỉ hiệp vần cho thơ, … động dân công cưu mang đùm bọc trong cái - Phụ mẫu tình thâm, nghĩa bán anh em xa mua láng giềng gần, giúp Phu thê nhơn ngỡi trượng, đỡ nhau từ chén cơm manh áo, đến hột gạo của Một mai anh có xa em rồi, thờ phượng mẹ khoai. Nói chuyện thì thích ăn ngay nói thẳng, cha ghét ăn gian nói dóc, … - Lao xao sóng bủa dưới thoàn Nói chuyện phải rõ ràng, thẳng thắn: Vắng em một bữa ăn vàng không ngon Nước chảy cho đá lăn tròn, - Lụy xang xang đưa nàng xuống vịnh, Giận thì nói vậy chớ bụng còn thương em Anh trở lộn về nhuốm bịnh tương tư. Trong nghi lễ đính hôn, người ta gọi là đám - Hai vừng nhựt ngoạt rành rành nói. Ở đó hai bên sui gia “nói chuyện” tác thành Sao anh đứt đạn (đoạn) chung tình bỏ em cho đôi trẻ. Người con gái trong câu ca sau đây Thứ hai là cách nói tránh. Gặp chuyện không đã bộc lộ một suy nghĩ “táo bạo” ... hết chỗ nói! hay, tránh điều thô tục, người ta thường mượn từ Ba nơi đi nói chẳng màng, ngữ khác để diễn đạt, ý vẫn giữ.
  2. Sè 5 (187)-2011 ng«n ng÷ & ®êi sèng 43 Còn duyên kẻ đón người đưa thể và cũng làm giảm đi giá trị một chủ thể, bởi Hết duyên đi sớm về trưa một mình nhiều, dư dả thì khó gọi … quý hiếm được! Nói Duyên có nhiều nghĩa, nó vốn là một từ mà hiếm hiệm tức là … không hiếm vậy! nhà Phật, Từ điển tiếng Việt giải thích là “cái nợ Thứ tư, nói bằng cách mượn tiếng của người từ kiếp trước đeo đẳng lấy nhau”. Duyên có thể Tiều (Triều Châu), bộ phận người Hoa đã di cư hiểu là sắc đẹp của người con gái mới lớn. Theo và định cư ở đây từ mất thế kỷ trước. Qua thực thời gian, duyên dần tàn phai. Còn ở trường hợp tế điền dã, chúng tôi dẫn lại mấy câu ca ở Bạc này, tác giả dân gian dùng “duyên” thay cho một Liêu, thế này: từ khác, chỉ nơi nhạy cảm của người con gái, cứ - Chờ anh em hết sức chờ xem cách so sánh của chàng trai ở ngay dưới Chờ cho ến xại (rau muống) lên bờ khùi hui đây, giữa còn duyên sẽ cưới nàng bằng ba heo, (khai huê, tức trổ bông) còn mất duyên chỉ phải tốn … con mèo cụt đuôi - Nào khi ến thạo, hoan tùa (Khi nào thấy thì giá trị của từ duyên mà người nói cố ý tránh, hơi gió lớn thổi) đã quá tường minh. Sùn hoang nghệc láo, xuốt gùa thăm em (Gió Còn duyên anh cưới ba heo xuôi, nước ngược ra thăm em) Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi - Trời mưa dít ạm hoang tùa (Trời mưa, trời Thứ ba, nói bằng tiếng địa phương. Theo quy tối gió to) luật tồn tại của ngôn ngữ, ở miền Tây Nam Bộ A hia phề chuối xuốt gùa thăm em (Anh chèo cũng có những “đặc sản” của riêng mình. ghe ngược ra thăm em)… Ngó lên tổ nễ chau mày, 2.2. Về mặt ngữ nghĩa Mảnh lo sự khó quên ngày muối dưa 2.2.1. Nói toạc móng heo Tổ nễ là tiếng lóng, cách tôn xưng chỉ ông bà, Nói toạc móng heo là cách nói thẳng hết tổ tiên, xuất hiện khá phổ biến trong khẩu ngữ những sự thật, không cần giấu giếm, che đậy. dân gian miền quê. Đầu tiên là cách nói thẳng để tỏ tình: Phương ngữ trong câu ca sau, rất đáng chú ý: Gió đẩy đưa rau dừa quặn quỵu, Chiều mai chiều mốt anh cốt cây bần Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm Anh mảng thương nàng lịu địu xuống lên Anh chàng nào đó không cho người khác đến Những tiếng mang thanh trắc tạo thành vần ở gần người con gái anh ta đã để ý. Anh ta dùng hai dòng thơ đã góp phần diễn tả một hiện thực tiếng “cốt” để nói. “Cốt” có nghĩa là đốn cây, của buổi đầu ngỏ lời trao ý, đồng thời nó cũng tả chặt cây, từ này phổ biến trong dân gian miệt đúng tình cảnh khắc khổ của người chân đất Rạch Giá – Cà Mau. Cây bần là loài thực vật mà chân quê! người ta xem chỉ toàn … giống đực! (Bởi rễ bần Không xao xuyến làm sao được, bởi hình được gọi là … cặc bần!). “Cốt” cây bần là lời bóng của người con gái có duyên: cảnh báo dư sức nặng dành cho những ai ham trổ Tóc ngang lưng vừa chừng em bới mòi với “ghe” đã có chủ! Để chi dài bối rối dạ anh Người Tây Nam Bộ nói hun, tức dùng mũi để Lẽ tất nhiên, khi con tim đã rộn ràng, người … biểu lộ tình cảm không dùng hôn, không dùng trong cuộc cần nhiều hơn nữa sự chân thật, và họ môi, miệng để … làm việc hun! bày tỏ nỗi lòng: Ước gì anh hoá con kiến vàng Bước cẳng xuống tàu, tàu khua rổn rổn Bò qua quay nón của nàng mà hun Tàu qua Nhựt Bổn lấy nước Châu Thành Dân gian nói hiếm hiệm, nghĩa của nó là đủ Anh với em phải nói cho rành rồi, là bộn bàng rồi, hay chỉ sự dư dả của một Để anh lên xuống nhọc nhằn thân anh thứ nào đó, … Cần lưu ý, những dòng đầu, cách dùng Muốn cúc chơi chậu tam hường, phương ngữ cẳng thay cho chân, hay từ tượng Liễu huê hiếm hiệm dọc đường thiếu chi thanh lổn rổn như để diễn tả tâm trạng, họ chỉ Dùng phương ngữ để nói ẩn ý, ngầm so sánh mượn cớ để nói chứ không hẳn cần đúng sự thật, giữa chậu cúc tam hường và liễu hoa (huê) dọc bởi sự thật thì làm gì có nước Châu Thành, mà đường. Từ hiếm hiệm đã làm tăng giá trị một chủ nó cũng chẳng liên quan đến Nhựt Bổn! Mới
  3. 44 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 5 (187)-2011 hay, đó là cách tạo cớ để nói, cớ không thật Lấy ai có chửa đổ thừa cho anh nhưng lòng người thì thẳng băng như mực tàu! Có chửa hoang, là người hư đốn, là một Khi tương tư, họ nói mà như bày tỏ cả gan chuyện động trời, có lẽ vì sự chấn động kinh ruột với người mình yêu: khủng ấy, nên mới có chuyện “đổ thừa” nhằm Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại, tránh tội chăng? Đem anh treo tại nhánh bần. Cũng là cách nói thẳng, ta gặp câu ca đáo để Rủi đứt dây mà rớt xuống, khác: Anh cũng lần mò kiếm em. Nước ròng trong ngọn chảy ra Lời thề được thốt lên mãnh liệt: Thấy em chồng chết anh bôn ba qua liền Chẳng thà lăn xuống giếng cái chũm Bôn ba là tính từ chỉ sự vội vã, vội vàng trong Chết ngủm rồi đời hành động. Qua lời nói trực tiếp ấy dường như Sống chi đây chịu chữ mồ côi người trong cuộc đã hiểu được nỗi lòng của Loan xa phượng cách biết đứng ngồi với ai người nói. Chồng em chết anh vội qua ngay để Hay như: … giúp đỡ! Tất nhiên là trong cảnh goá bụa, Dao phay kề cổ, máu đổ không màng chiếc bóng một mình, có nhiều chuyện cần phải Chết thì chịu chết, buông nàng anh không có bàn tay người đàn ông lắm! Nói thật, nói buông thẳng nhưng không phải là không có ẩn ý trong Song không phải vì những lời nói ngay thẳng kiểu nói như vậy! Cảnh giác quá mức sẽ phụ thế mà mọi chuyện tốt đẹp vẹn toàn, người trong lòng của người hàng xóm tốt bụng, còn nếu cuộc đã cảnh giác: “ngây thơ” thì biết đâu … chấp được mối tơ Biển Đông gió thổi bốn mùa, thừa! Nên chăng? Say mê lời nói thuốc bùa không hay 2.2.2. Nói vòng vo, nói bóng nói gió Miệng đàn ông nói như tha mỡ, trơn lu, giỏi Ở trên, chúng tôi đề cập đến cách nói tránh. bỏ bùa các cô nhẹ dạ, vì thế, người bình dân mới Đến đây, chúng tôi phân tích chi tiết hơn cách gửi gắm lời khuyên ấy! nói bóng gió, vòng vo Tam Quốc của người bình Lúc tan vỡ, cô gái đã nhận ra tất cả phũ dân. phàng nên quyết liệt tránh xa: Khi gặp tình huống không nói thật được, Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi đành phải nói xa xăm để đặt vấn đề: Anh với em duyên nợ hết rồi Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình dễ Phía nam nhi chi tử cũng nhạy cảm chuyện thương trắc trở: Muốn khen một cô gái đẹp mà mình vừa ý, Vỗ vai con Bảy không ừ, muốn tỏ tình thương, nói bằng lời thật khó, Hay là con Bảy giận, con Bảy từ ngãi anh không khéo dễ bị vô duyên, chối từ, như thế, mọi Gọi người yêu bằng con thì chân tình lắm, việc hỏng bét. Vì thế, chàng trai đã dày công bắt hành động cũng thật táo bạo, nhưng rồi anh ta cầu trong cách nói. Vừa nhớ ơn bà, vừa khen má chỉ nhận được sự im lặng thay cho cách trả lời từ và tất nhiên là khen cả đối tượng anh ta muốn đối tượng. Cuối cùng, có lẽ ngẫm nghĩ lại anh ta nói đến. đã nhận ra sự thật! Hơn nữa, với cách nói lấp lửng, vô tình anh ta Có trường hợp nguy hiểm hơn, ai đó, vì lý do đã gọi được tiếng ngoại, tiếng má của cô gái như tế nhị đã quẩn quanh, cố giấu che một sự thật, chính cô gái hay kêu. Thông thường, cách kêu đến khi sự thật kia bị ... phát hiện: như vậy, chỉ xảy ra khi hai người đã nên vợ nên Bậu nói với qua bậu không lang chạ, chồng. Thật là đáng khâm phục trong cách nói Qua bắt đặng bậu rồi, đành dạ bậu chưa vòng vo! Nói huỵt tẹc để người trong cuộc không thể Để nói bóng gió, người ta còn sử dụng cách “đổ thừa” nữa, dù cách “đổ thừa” cho “tại” cho nói bằng thành ngữ, điển tích. “bị” vốn là câu nói cửa miệng của những người Thành ngữ: cụm từ cố định, bền vững, có tính ... trót lỡ lầm! nguyên khối về ngữ nghĩa không nhằm diễn trọn Em đi lên xuống cầu dừa một ý, một nhận xét như tục ngữ, mà nhằm thể
  4. Sè 5 (187)-2011 ng«n ng÷ & ®êi sèng 45 hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh Phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cách nói bóng động, hàm súc. [2; 297] gió là các biện pháp tu từ. Trong ca dao Tây Nam Bộ không ít câu sử Một là, dùng từ đa nghĩa để chơi chữ dụng thành ngữ. Do phạm vi bài viết là khảo sát Em ơi hãy lấy anh thợ bào cách nói, chúng tôi chỉ xem thành ngữ nhất là Khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng êm thành ngữ Hán Việt như một phương tiện của lời Rất dễ dàng nhận ra chuyện thợ bào đẩy bào nói chứ không đi sâu phân tích chức năng của để bào cây, bào ván cho bóng, cho trơn, đến chúng. chuyện đẩy theo cách nói trây, dân gian gợi nên Đây là một cách dùng thành ngữ Hán Việt hành động của vợ chồng chốn phòng the! trong điệu hò: Tương tự từ đẩy vừa phân tích, là từ cày sau Thiện ác đáo đầu chung hữu báo. đây: Cao phi viễn tẩu dã nan tàng Chồng em nào phải trâu cày Từ khi anh xa cách con bạn vàng Mà cho chị mượn cả này lẫn đêm Cơm ăn chẳng được như con chim phụng Cách nói táo bạo hơn, nhưng người nghe hoàng bị tên không thể bắt lỗi được họ: Dễ hiểu hơn, nói bằng thành ngữ Hán Việt và Cu tui vừa mới mọc lông sau đó dùng lời thơ để giải thích nghĩa cho người Mượn chị cái lồng tui nhốt đỡ cu tui nghe biết luôn: Cu là con chim gáy, lồng là vật để nhốt chim. Thiên sinh nhơn hà nhơn vô lộc, Nhưng thật tình không người nghe nào chỉ dừng Địa sinh thảo hà thảo vô căn. cách hiểu của mình ở đó cả, … Trời sinh người đều có lộc trời, Chúng ta hãy nghe lời một cô gái dặn người Đất thì sinh cỏ rễ chồi nào không mình yêu khi chàng và nàng muốn “gần” nhau: Đi liền với thành ngữ là những điển tích. Chuột kêu chút chít trong rương Điển tích (hay điển cố) là một biện pháp tu từ, ở Anh đi cho khéo kẻo đụng giường mẹ hay đó tác giả sử dụng “câu chuyện” sao cho phù Ngày xưa cái giường của người nhà quê là hợp với văn mạch mình nhằm tạo tính hàm súc loại giường chõng đóng bằng tre già, lâu ngày cho lời văn, ý thơ. Ca dao Tây Nam Bộ cũng thành xiêu lỏng, đụng vào đó nó kêu cót két, vậy, không hiếm những câu chuyện trong sách giống như tiếng chuột kêu chút chít. Có lẽ bà mẹ sử được dùng để nói: của cô gái kia đã hơn một lần chợt thức giấc, Ai khôn bằng Tiết Đinh San, nghe tiếng chiếc giường tre kêu rúc rích, cô gái Cũng còn mắc kế nàng Phàn Lê Huê đã nhanh trí trả lời rằng đấy là do chuột ở trong Tiết Đinh San, Phàn Lê Huê là nhân vật trong rương (!). Rút kinh nghiệm, cô gái đã nhắc khéo bộ tiểu thuyết chương hồi Tiết Đinh San chinh cho tình nhân kẻo lỡ làng chuyện ân ái. Tây. Hai là, người bình dân dùng hình thức so Hay câu ca khác: sánh, phúng dụ, ẩn dụ, hoán dụ, …, trong lời ca, Văng vẳng bên tai tiếng hát. Tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền? Từ hình ảnh so sánh: Anh đây Lữ Bố kết nguyền thuở xưa Thân em như cá rô mề Lữ Bố, Điêu Thuyền là hai nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa. Các tác phẩm vừa kể Lao xao giữa chợ biết về tay ai được dân gian gọi chung là truyện Tàu, thể loại Cá rô mề quá đỗi quen thuộc với vùng sông văn học ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống nước, ruộng đồng. Mượn nó, để ví với … thân người bình dân Tây Nam Bộ từ nửa đầu thế kỷ em thì thật là dí dỏm! Tình cảnh của người con XX trở về trước. gái ngày xưa không khác gì thân cá rô nằm trong Mượn thành ngữ, điển tích để chen vào lời rổ nhảy rồ rồ, lao xao giữa chợ. Tinh ý hơn, nói, làm cho ý của người diễn đạt thêm sinh người nghe còn phát hiện cá rô mề là để liên động, hàm súc, người tiếp nhận phải có cùng tưởng đến chỗ kín đáo nhất của người con gái, “kênh” giao tiếp thì mới tường tận vấn đề mà … thật là một cách nói khéo không ai bằng được người nói muốn biểu đạt! người bình dân!
  5. 46 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 5 (187)-2011 Đến cách nói phúng dụ, mượn lời con vật để Có thể tìm ra nguyên nhân của những lời hỏi thay lời người muốn nói: khó như vậy là vì cuộc sống vốn không thiếu Cóc chết nàng nhái rầu rầu người có tính này, ý khác: Chàng hiu đi hỏi lắc đầu hổng ưng Bậu đừng ăn nói đảo điên, Con ếch ngồi ở gốc đưng Cái áo bậu bận cũng tiền anh cho? Nó kêu cái ẹo biểu ưng cho rồi Nhiều lúc, những câu hỏi trong lời nói khó đã Nói vòng vo nhưng là thiệt bụng, thiệt lòng nâng lên thành triết lí trong quan hệ giữa người làm sao! với người trong xã hội: Rồi nói bằng ẩn dụ: - Nước không chưn sao gọi rằng nước Ruộng ai thì nấy đắp bờ đứng, Duyên ai nấy gặp đợi chờ uổng công Chén của người sao gọi chén chung? Câu ca tả thực cảnh của người nông dân chân - Ai từng bận áo không bâu, lấm tay bùn. Song, ý người muốn nói chưa dừng An cơm không đũa, ăn trầu không vôi? hẳn ở đó. Ruộng và bờ liên quan nhau như vật sở - Chim bay mỏi cánh chim ngơi, hữu và người sở hữu. Vậy tình yêu, có cần phải Đố ai bắt đặng chim trời mới ngoan. cắm ranh, cặm cọc hay không? Có lẽ trả lời rằng 2.2.4. Nói cho hả dạ, nói cho đã tức “cần” phải có “bờ” có “đập” để xác lập chủ Từ nói khó chuyển sang nói cho hả, nói để quyền, xem ra không có gì là quá đáng! trút cơn tức giận. Hoặc dùng hoán dụ: Miệng đuổi chim, tay cầm cần vụt Nước chảy re re con cá he nó xoè đuôi phụng Mãn mùa rồi xí hụt anh ơi Em có chồng rồi trong bụng anh vẫn còn Thế là công lao bao nhiêu tháng ngày vun thương quén giờ bị đem bỏ sông bỏ biển. Ai mà không Mượn từ bụng để nói cả tâm tình lưu luyến buồn, không đau, không tức trào máu, nhưng của cố nhân! Lấy bộ phận để nói khái quát cho biết ai chia sẻ, thôi thì cứ nói lên, hét lên cho hả cái toàn thể là vậy. hê! 2.2.3. Nói khó Họ nói như mỉa mai, cười cho sự chua chát Trong giao tiếp, hay sinh hoạt người ta của thân phận mình: thường nhắc lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt Thực tế thì không phải không có những lời nói Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây khó nghe. Mượn những câu hỏi để bộc bạch: Qua tới đây không cưới được cô hai mày Gần sông cội mới ngã kề, Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo Tiếng tăm anh chịu, em về tay ai? trở vô Hỏi mà không có lời đáp và chắc cũng chẳng Bằng cách nói ngược: giếng sâu - dây cụt, rồi cần ai trả lời, bởi đó là cách nói khó. Vấn đề là người nghe, cụ thể hơn là đối tượng hướng đến giếng cạn - hụt sợi dây, dường như để ám chỉ sự của giao tiếp có hiểu hay không mà thôi! đổi trắng thay đen của thói đời, đã vậy, dại gì Có chồng bậu nói rằng không, chết đi cho uổng! Con đâu bậu ẵm bậu bồng trên tay? Tiếng nói của sự khao khát yêu đương, tiếng Không biết sự thể của người trong cuộc thế nói cũng những chuyện oái oăm được dân gian nào, có chịu nỗi oan Thị Kính hay không? thể hiện: Nhẹ nhàng hơn, nói một cách đón ngách chặn - Con gái mười bảy mười ba đầu rằng: Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng Đá cheo leo muốn trèo sợ trợt, Mẹ giận mẹ phát ngang hông: Muốn nói một hai lời sợ nhột ý em? - Đồ con mất nết đòi chồng suốt đêm! Chia sẻ hay mỉa mai, chọc ghẹo, …, tính chất Có lúc nói cho hả lòng, nói cho mọi người đa nghĩa ấy bộc lộ qua lời hỏi khó, dành cho biết, vì chỉ cần lơ là một chút, người chủ quan đã người kém may mắn trong chuyện lứa đôi: bị bạn bè, lối xóm ra tay hãm hại: Cau già lỡ lứa bán trăm, Mảng coi con quạ rỉa lông, Chị nọ lỡ lứa biết nằm cùng ai? Chị em lân cận giựt chồng không hay
  6. Sè 5 (187)-2011 ng«n ng÷ & ®êi sèng 47 Hướng đến đối tượng tiếp nhận chính là Thấy em chèo cặp vú muốn hun người mình yêu ngày trước. Nay anh đã không Quả là lời tỏ tình trắng trợn, muốn chuyện … vẹn chung tình, anh bỏ em đi cưới vợ khác, anh rất nhạy cảm mà dám cất thành lời, nhưng xét hãy nghe đây: cho cùng đối tượng cần nghe hình như không Bần gie bần liệt đóm đậu ngọn bần nghe thấy, người dưới sông, người trên bờ, Anh đi cưới vợ em vái cho sóng thần nhận khoảng cách quá xa … Có lẽ, khi gần nhau ghe chẳng ai dám nói kiểu … đó! Nhưng cũng chẳng Đúng, rất chính xác, chỉ có những cô em gái sao, nếu bị phản ứng, anh ta sẽ dễ dàng ứng phó, quê rang quê rít, tóc dài bỏ xoã, bận áo bà ba theo kiểu “tán gái”: (lời một bài dân ca ở Sóc Trăng) mới có trực tính Bới tóc cánh tiên, bỏ vòng lá liễu để bật thành tiếng nói như vậy! Thấy miệng em cười trời biểu anh thương Với cảnh ngộ khác, một anh chàng thật tội Nhiều khi, tỏ tình không được thì làm liều nghiệp, trút giận: kiểu Chí Phèo yêu Thị Nở (nhân vật của Nam Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể Cao), nói chơi cho vui, ai nghe được thì cứ xem Cưới vợ có chửa về thổi lửa queo râu là câu nói giễu, để cười, song không phải vì thế Thật trớ trêu, ai nghe mà chẳng cảm thông mà không có ẩn tình: cho chuyện nhầm lẫn tai hại đó. Tui hun mình, dẫu mình có la làng Với kết cấu đối đáp, ta gặp một lời chọc ghẹo Thì tui la xóm hai đàng la chung của chàng trai lắm môi mép: Tui hun mình dẫu có làm hung Trời mưa cho ướt ruộng gò Nhơn cùng tắc biến tui chun xuống sàn Thấy em chăn bò anh để ý thương Ở cảnh ngộ khác, có lẽ chàng trai đã “để ý” Cô gái chẳng vừa, đốp chát lại ngay: đến người mình thương nhiều lắm, nhưng anh ta Trời mưa ướt cọng rau mương không dám mở lời. Anh chàng mượn con cua để Bò em, em giữ anh thương cái giống gì? nói khơi khơi: Độc hơn ở cách nói nước đôi, cụm từ anh Con cua càng bò ngang đám bí thương cái giống gì vừa chỉ giống … người (là Nó với chị mày giờ tí qua qua em) vừa chỉ giống … ăn cỏ! Vậy mới chết chớ! Chức năng bông đùa của câu ca này theo Cục tính hơn, cô gái lớn tiếng rủa kẻ ve vãn chúng tôi nằm ở mốc thời gian hẹn ước. Giờ tý mình: là canh ba, mọi người đã yên giấc ngủ, anh ta lại Dê xồm ăn lá khổ qua “qua” để gặp chị mày thì chắc là sẽ … có Ăn nhầm lá đậu chết cha dê xồm chuyện! Đảo lại, cũng trong lời đối đáp, nhưng lần Trong kết cấu đối đáp cũng có những câu lém này “phần thắng” nghiêng về phía chàng trai: lỉnh, cà rỡn: - Áo vắt vai đi đâu hăm hở, - Ai mà bày đặt dị kì Em có chồng rồi mắc cỡ lêu lêu. Áo bà ba may hai túi đựng giống gì hở anh - Áo vắt vai anh đi dạo ruộng, - Ba má bày đặt cho anh Anh có vợ rồi chẳng chuộng bậu đâu. Áo bà ba may hai túi đựng dầu chanh o mèo Tiếng nói uất nghẹn còn hướng đến những Một trường hợp hỏi - đáp khác: đối tượng đã gây ra nhiều chuyện phiền toái: Nước mắm ngon dầm con cá bẹ Quất ông tơ cái trót Anh biểu em rình lén mẹ qua đây! Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần Nói như đùa chơi kiểu đó, người Tây Nam bộ Biểu ông se mối chỉ năm bảy lần, ổng không gọi là nói giỡn. Chàng nói kiểu giỡn chơi thì se. nàng cũng đáp kiểu giỡn chơi. 2.2.5. Nói cà rỡn Nước mắm ngon dầm con cá đối Cà rỡn là lời nói với chức năng đùa vui, Em biểu anh chờ để tối em qua không thể hiển sự giọng cao thấp, cạnh khoé. Chưa biết sự thể sẽ ra sao, chỉ có điều nói là Chàng trai thấy cô gái dễ thương, bèn bông lông để … chơi, vậy thôi! rằng: Khi nói cà rỡn, yếu tố tục, những từ ngữ gợi Nước Láng Linh chảy ra Vàm Cú đến những bộ phận trên cơ thể của con người
  7. 48 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 5 (187)-2011 được tận dụng triệt để. Phần trên chúng tôi đã Ngó lên chữ ứ, ngó xuống chữ ư, dẫn câu ca mà chàng trai … muốn hun! Đến đây, Anh thương em hổng thẳng em ừ, thấy cần bổ sung mấy ví dụ nữa để bài viết thêm Anh đừng thương vội mẫu từ em hay sinh động: Còn đây là lời của một cô vợ trong cảnh gia Thân anh lỡ dại hai lần đình chồng một vợ hai: Nhỏ măn vú mẹ, lớn mằn vú em Vợ lớn đánh vợ nhỏ, Cách nói tếu táo của chủ thể phát ngôn khi Chạy ra cửa ngõ , anh ta nhận mình là dại nhưng thật ra thì là khôn Ngóng cổ kêu trời! đấy, một cách nói ngược đáng nghe! Ớ anh ơi ? Tiếu lâm hơn là lời của “ông” anh rể: Nhứt phu lưỡng phụ, ở đời đặng đâu? Giữa trưa đói bụng thèm cơm Cuối cùng, chúng tôi mượn câu ca mùi mẫn Thấy đùi em vợ như tôm kho tàu bậc nhất chốn ruộng đồng dưới đây để thay lời Đem “đùi” của cô em vợ nõn nà so sánh với tiểu kết: “tôm kho tàu” giữa khi bụng đói … thì thật là Con cá làm nên con mắm chỉ có anh ta dám nói những điều mà nhiều Vợ chồng già thương lắm mình ơi! người nghĩ, nhiều kẻ muốn, nhưng không ai dám 3. Kết luận … giỡn kiểu đó! Người Tây Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, Sau hết, xin dẫn một câu ca có miêu tả trực nhưng cũng rất tinh tế, khéo léo trong ứng xử. tiếp yếu tố sinh thực khí của nữ giới: Họ sẵn sàng đùa cợt, cười rần để xua tan đi Cô kia cấy lúa Nanh Chồn những nỗi nhọc nhằn trong quá trình chinh phục Chổng mông cô để cái l… cô lên thiên nhiên hoang dại. Và lời nói là nơi thổ lộ rõ 3. Chức năng của cách nói trong ca dao ràng nhất. Những biểu hiện của cách nói trong ca dao Lời nói là phương tiện không thể thiếu trong mà chúng tôi vừa liệt kê đã góp phần quan trọng giao tiếp. Trong giao tiếp lại bộc lộ văn hoá ứng để các nhà thi pháp học khẳng định ca dao là câu xử của người bình dân. Hơn thế, lời nói đã đi thơ điệu nói, nó mang ngữ điệu người, giọng vào lời ca, tiếng hát, nó góp phần làm lung linh điệu người, thể hiện đa dạng các cung bậc, cảm thêm những “hạt ngọc” tinh thần của người dân xúc trong tâm hồn con người. quê chơn chất. Chính từ những cách nói bằng ngữ điệu ấy đã Từ lời nói dân gian, chúng ta còn phải học tập đem đến cho ca dao hơi thở rất riêng, dù đặc nhiều lắm ở họ: trưng thể loại đã làm cho tính cá nhân bị xoá Chim khôn kêu tiếng rảnh rang nhoà. Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. - Bên dưới có sông, bên trên có chợ Tài liệu tham khảo Hai đứa mình kết vợ chồng nghen 1. Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển, Nhà sách - Thấp đăng cá nhảy qua lờ Khai Trí, Sài Gòn, 1970. Anh đừng xí gạt em chờ uổng công 2. Lê Giang (sưu tầm - sưu tập - biên soạn), - Tưởng rằng anh tới anh chơi Bộ hành với ca dao, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, Ai dè anh tới kết đôi vợ chồng 2004. Những từ vốn dĩ quen thuộc trong lời nói 3. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc hàng ngày như “nghen”, “xí gạt”, “ai dè”, … đã Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, làm cho lời ca lung linh như chính họ nghĩ, họ Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007. làm, họ nói, … 4. Nguyễn Lực - Lương Văn Đang, Thành Ai đó từng “chê” cụ Đồ Chiểu sao để cho ngữ Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, Vân Tiên “ừ” trước mặt nàng Nguyệt Nga xinh 1976. đẹp trong truyện thơ Lục Vân Tiên (Vân Tiên Và những câu ca dao sưu tầm từ điền dã của ngó lại rằng: ừ), thì hãy nghe đây, cách nói, tác giả bài viết. Ban Biªn tập nhận bµi ngµy 25-10-2010) cách tỏ bày tình cảm trong dân gian miệt này:
nguon tai.lieu . vn