Xem mẫu

  1. tượng tâm lý tinh thần về các quá trình lý hoá, không thấy sự khác nhau về chất giữa chúng, chẳng hạn nh ư coi óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật. Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoi ơb ắc còn thể hiện ở chỗ ông đ ấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt quan n iệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng Thư ợng đế tạo ra con người, ông khẳng đ ịnh, chính con n gười sáng tạo ra Th ượng đế. Khác với Hêghen nói đến sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối, Phoi ơb ắc nói đến sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con người là mu ốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới nhứng cái gì đẹp nhất trong một h ình tượng đ ẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con người không đạt được nên gửi gắm tất cả ước muốn của m ình vào hình tư ợng Thượng đ ế. Từ đó Phoi ơb ắc đ• đ i đến phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên, đứng ngoài, sáng tạo ra con n gười, chi phối cuộc sống con người. Triết học của Phoi ơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn, kho ông đòi hỏi triết học mới – triết học nhân bản, phải gắn liền với tự nhiên đồng thời đ • đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con n gười và x• hội. Con người, theo quan niệm của Phoi ơbắc là con người trừu tượng, phi x• hội mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của Phoi ơbắc chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng, bản tính con ngư ời là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, khi thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo m ới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu 7
  2. thương giữa con người thành mối quan hệ x• hội khác, th ành lý tưởng x• hội. Trong đ iều kiện của x• hội tư sản Đức bấy giờ, với sự phân chia và đối lập giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo của Phoi ơb ắc về tình yêu thương giữa con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm. Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoi ơb ắc đ• không b iết rút ra từ đó cái “hạt nhân hợp lý” m à đ • vứt bỏ luôn cả phép biện chứng của Hêghen. Mặc d ù có nhưng h ạn chế, triết học của Hêghen và Phoi ơbắc có ý nghĩa to tớn trong lịch sử triết học và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của triết học Mác b ) Nguồn gốc ra đời của triết học Mác xít Triết học Mác (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) là bộ phận cấu thành và là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác, đồng thời là chìa khoá để giải thích trên cơ sở khoa học quá trình phát triển của tư tưởng nhân loại. Quê hương của chủ nghĩa Mác là nước Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lư ợng sản xu ất ở Anh, Pháp, Đức và các nước tư bản chủ nghĩa khác đ• chứng tỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt hớn hẳn phương thức sản xuất phong kiến. Song, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn giai cấp – x• hội vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và ngày càng bộc lộ gay gắt, trước hết là m âu thu ẫn giữa hai giai cấp vô sản và tư sản. Mâu thuẫn này là biểu hiện về mặt x• hội của mâu thuẫn cơ bản của phương th ức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mẫu thuẫn giữa tính chất x• hội hoá và trình đ ộ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. 8
  3. Trong th ời kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ. Cuộc đ ấu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đ • trở thành cuộc khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng. Kh ởi nghĩa của công nhân Liông (Pháp) n ăm 1831 và năm 1834, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm 1844, phong trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 đ ầu những năm 40 của thế kỷ XIX đ • thu hút sự chú ý của các đ ại biểu tiên tiến của các tầng lớp tri thức tư sản tiến bộ, trước hết là C.Mác và Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp – x• hội và những triển vọng của các cuộc đ ấu tranh giai cấp ấy. Rõ ràng những cuộc đ ấu tranh giai cấp ở các nư ớc tư bản chủ nghĩa tiên tiến ở châu Âu những n ăm 30-40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đ• có những tiền đề x• hội- giai cấp và những đ iều kiện để xuất hiện chủ n ghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; là ch ứng cứ để nói rằng nhu cầu x• hội đ• chín muồi đề xuất hiện một thế giới quan triết học mới – triết học m ácxít. Những tư tưởng x• hội trực tiếp xuất hiện trước chủ nghĩa Mác và biểu hiện rõ ràng nhất và kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa x• hội không tưởng pháp, triết học cổ đ iển Đức. Trong những học thuyết ấy chứa đựng những giá trị về mặt lịch sử. Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith và Ricardo, là những dự đoán thiên tài của Xanh ximông và Phuriee về một số đặc điểm của x• hội x• hội chủ n ghĩa tương lai và sự phê phán của các ông đối với x• hội tư b ản. Đó là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và kiến giải duy vật về vấn đề cơ b ản của Triết học trong các tác phẩm của Phoiơbắc. Những học thuyết đó là những đỉnh cao của sự phát triển tư tư ởng lý luận x• hội lo ài người trong thời kỳ trước Mác. Sự phát triển 9
  4. h ơn n ữa về kinh tế chính trị học, lý luận về chủ nghĩa x• hội khoa học và triết học chỉ có thể có được với sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Song, rõ ràng nh ững thành tựu đ• đ ạt tới của nhân loại lại là những tiền đề lý luận tất yếu về mặt lịch sử và là nguồn gốc của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học mácxít nói riêng. Vào giữa thế kỷ XIX, nhân loại đ• đ ạt tời những đỉnh cao trong khoa học tự nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên như R.Maye (Đức), P.P Giulơ (Anh), E.Kh. Lenxơ (Nga), L.A.Cônđ inh (Đan Mạch) đ• xác đ ịnh sự thật về chuyển hoá năng lượng. R.Maye và P.P Giulơ đ • n ên lên thành đ ịnh luật bảo to àn và chuyển hoá năng lượng, đ• chứng minh sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển biến những hình thức vận động của chúng. Các nh à sinh vật học người Đức như Svan và Slâyđ en đ• đưa ra lý lu ận tế bào, chứng minh rằng các tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của tất cả các cơ thể động vật và thực vật, và do vậy tìm ra bản chất sự phát triển của cơ th ể động vật, thực vật đều là sự phát triển bằng sự h ình thành tế bào. Nhà khoa học người Anh là Đácuyn cũng đ • phát hiện là lý lu ận duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Chính đ ịnh luật bảo toàn và chuyển hoá n ăng lư ợng, lý luận tế bào, học thuyết về sự xuất hiện và phát triển các loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy luật của khoa học và triết học mà nhân loại đ • đạt tới, nó được hình thành như là kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy luật chung nhất của sự phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là một học thuyết 10
  5. thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa x• hội khoa học. 3 . Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng thời là qúa trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dư ới ảnh hưởng trực tiếp của phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên và khoa học x• hội, trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơb ắc. Trong giai đoạn đ ầu, trước nửa n ăm sau của năm 1843, Mác và Ăngghen là nh ững nhà biện chứng duy tâm. Hai ông tiếp nhận phép biện chứng của Hêghen, song có thái độ đối lập với hệ thống siêu hình của triết học Hêghen và các kết luận chính trị phản động xuất phát từ hệ thống triết học ấy. Quan điểm chính trị và x• hội của Mác và Ăngghen thời kỳ này là quan điểm dân chủ cách mạng. Song, ngay từ n ăm 1842, khi Mác còn làm biên tập viên Báo Rainơ tại Côlônhơ và khi Ăngghen đang n ghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh, các ông đ• có những biểu hiện chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách m ạng sang chủ nghĩa cộng sản. Đặc điểm nổi bật trong hoạt động của hai ông khi nghiên cứu các thành tựu của khoa học và triết học là nghiên cứu một cách có ph ê phán và sự sáng tạo của các ông là nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – x• hội. Khi Mác làm biên tập viên Báo Rain ơ, ông đ• bày tỏ ý kiến của m ình trên báo trí về vai trò và ý nghĩa của các lợi ích vật chất trong đời sống x• hội, những vấn đề kinh tế x• hội đặt ra ở 11
  6. tỉnh Rainơ, về vấn đ ề sở hữu đất, vấn đ ề đốn rừng, về thương nghiệp và về thuế quan bảo hộ... Nh ưng khi sử dụng phép biện chứng duy tâm và h ọc thuyết về nhà nước và pháp quyền của Hêghen, Mác đ• rơi vào tình trạng khó xử, không giải đáp được các vấn đề của thực tiễn chính trị x• hội đặt ra. Lúc này, chính Mác đ• cảm th ấy rằng những lợi ích vật chất của con người trong đ ời sống x• hội d• đóng một vai trò quan trọng đặc biệt. Mác đ• đi tới kết luận rằng, phải nghiên cứu sâu sắc h ơn n ữa những vấn đ ề kinh tế chính trị và phải xem xét lại một cách có phê phán những quan điểm triết học và pháp quyền của Hêghen. Trong th ời kỳ công tác tại Báo Rainơ, trong quan đ iểm của Mác có cả quan đ iểm của chủ nghĩa x• hội không tưởng, song, vì chưa đủ những tri thức sâu sắc về những vấn đề đó, nên ông đ • không thể bày tỏ quan điểm của m ình về các học thuyết x• hội chủ nghĩa của những người tiền bối. Sau khi rời ban biên tập Báo Rainơ, Mác hoàn toàn dành thời gian để giải quyết những vấn đ ề đ • đặt ra cho ông trong thời kỳ công tác tại tờ báo. Ông đ • biết một b ài lu ận văn lớn dành cho việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Tháng 10-1843, ông sang Pari, cố gắng nghiên cứu các vấn đề kinh tế – chính trị học và lịch sử các phong trào cách mạng. Tại đ ây, ông đ• tham gia các cuộc hội họp của công nhân, đặt mối quan hệ với các nh à l•nh đạo của các tổ chức công nhân bí mật Pháp và Đức. Những n ăm 1843-1844 là thời kỳ ông chuyển hoàn toàn sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Các bài của Mác đ ăng trên Niên giám Pháp – Đức m à số đầu xuất bản tại Pari vào tháng 2 –1844 đ• th ể h iện rõ sự chuyển biến đó. Trong thời kỳ n ày Mác ở Pari, Ăngghen ở Anh, hai ông độc lập trong việc nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân, sống gần gũi với 12
nguon tai.lieu . vn