Xem mẫu

  1. Ngô Thái Hà Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Nguyễn Đức Khiêm Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc Tóm tắt: Sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, giáo dục không phải là trường hợp ngoại lệ. Cùng với đó, sự tác động mạnh mẽ, với những diễn biến phức tạp, khó lường của đại dịch Covid-19 thì việc học trực tuyến là giải pháp được ưu tiên hàng đầu khi mà học sinh không thể đến trường theo cách học truyền thống. Do đó, xây dựng môi trường học tập trực tuyến hiện đại, thiết kế các nội dụng dạy - học hiện đại thông qua mạng internet được phát triển theo hướng ngày càng tiếp cận gần hơn với người học. Người học có thể khai thác nội dung học tập trực tuyến từ các thiết bị điện tử thông minh, hay học tập trong mô hình giáo dục ảo...E-learning là một trong nhiều phương pháp giảng dạy tiếp cận gần nhất với việc chuyển đổi số trong giáo dục trên nền tảng của cuộc cách mạng 4.0. Từ khóa: E-learning, phương pháp giảng dạy, đổi mới giáo dục. 1. Đặt vấn đề Đào tạo trực tuyến E-Learning không còn là một xu hướng mới, nhưng cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN) đã mang lại cho hình thức đào tạo này những thay đổi tích cực. Xây dựng môi trường học tập trực tuyến đòi hỏi ngày càng hoàn thiện đáp ứng hiệu quả các hoạt động học tập của người học. Sự phát triển không ngừng của công nghệ trong cuộc CMCN 4.0 mang lại cơ hội lớn nhưng cũng ẩn chứa nhiều thách thức với phương thức đào tạo E-Learning. 2. Nội dung 2.1. Khái lược về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Khoa học và công nghệ đã thực sự thâm nhập vào mọi lĩnh vực sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tham gia ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong quá trình tạo ra của cải vật chất phục vụ đời sống, giúp con người phát triển những ngành sản xuất và tìm ra các nguồn/dạng năng lượng mới. Sự phát triển và tác động của cuộc CMCN 4.0 là hạt nhân tạo nền tảng vững chắc tạo nên thời kỳ mới trong sự phát triển - thời kỳ của nền kinh tế số, nền giáo dục số với kho dự liệu giáo dục mở khổng lồ và số hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cuộc CMCN lần thứ nhất xuất hiện ở nước Anh vào nửa đầu thế kỷ XVIII và kéo sang đầu thế kỷ XIX với việc thay đổi phương thức sản xuất từ lao động 181
  2. chân tay, lao động thủ công sang lao động sản xuất dựa trên máy móc, cơ khí nhờ vào sự ra đời của máy hơn nước và động cơ hơi nước được ví như cuộc đại cách mạng về phương thức tạo ra sản phẩm vật chất và văn hóa tinh thần phục vụ nhu cầu của con người và xã hội loài người. Cuộc CMCN lần thứ hai diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX nhờ dầu mỏ và động cơ đốt trong. Thời kỳ này, xu thế đô thị hóa bắt đầu tăng nhanh gây ra những hệ lụy nhất định trong xã hội bởi quy mô phát triển đến mức phải đi tìm thuộc địa để cung ứng nguồn nhân lực và nguyên liệu, phải tranh giành thị trường bằng chiến tranh. CMCN lần thứ ba diễn ra khi những tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và số hoá ra đời, được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet. Phạm vi ảnh hưởng và tầm tác động của cuộc CMCN lần thứ ba không còn giới hạn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Khoảng cách không gian được rút ngắn với tiến bộ công nghệ trong giao thông vận tải và truyền thông. Năm 2011, tại Hội chợ công nghiệp Hanover, thuật ngữ CMCN 4.0 gọi tắt là công nghệ 4.0 được sử dụng và chính thức được đưa lên bàn nghị sự tại Diễn đàn kinh tế thế giới. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về CMCN 4.0, tuy nhiên dù được tiếp cận từ góc độ và mục đích nghiên cứu như thế nào, các nhà khoa học, các chuyên gia và giới nghiên cứu đều thống nhất khẳng định: CMCN 4.0 là biểu hiện sinh động và là biểu tượng cho quyền lực của nền kinh tế tri thức. Mặc dù giữa hai thuật ngữ “CMCN 4.0 và kinh tế tri thức” có sự khác biệt rất lớn về nội hàm khái niệm nhưng dấu hiệu chung bản chất của hai khái niệm này hướng đến và khẳng định: Tri thức và công nghệ là quyền lực, là nguồn nguyên liệu đầu vào của mọi quá trình sản xuất vật chất trong xã hội hiện đại. Sự phát triển của cuộc CMCN 4.0 dựa trên những thành tựu đột phá của công nghệ thông tin và tri thức khoa học. Thông tin và tri thức khoa học đã trở thành nguồn nguyên liệu đầu vào quan trọng của mọi quá trình sản xuất, thậm trí còn quan trọng hơn cả nguồn nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên, quan trọng hơn cả tài nguyên thiên nhiên của mọi quốc gia. Thực tế phát triển của nhiều quốc gia đã chứng minh: Dù là quốc gia nghèo tài nguyên khoáng sản, luôn phải gánh chịu những tác động tiêu cực của tự nhiên: Hạn hán, lũ lụt, động đất, song thần,..nhưng vẫn trở thành những quốc gia phát triển hùng cường. Điển hình: Hàn Quốc là một gia nghèo tài nguyên khoảng sản, bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng vẫn trở thành một trong bốn con rồng Châu Á. Tài sản lớn nhất trong sự phát triển của xứ sở “Kim Chi” là sự phát triển của nguồn nhân lực, là khoa học kỹ thuật và công nghệ hay Nhật Bản, sau khi chiến tranh kết thúc, ngoài việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nguồn viện trợ của cộng đồng quốc tế và vốn FDI chỉ được coi là nguồn lực ngoại sinh trong sự phát triển “thần kỳ” của đất nước mặt trời mọc. Nguồn lực nội sinh tạo nên sự phát triển của Nhật Bản chính là nguồn lao động có kỷ luật, có kỹ thuật cao, biết kết hợp văn hóa bản địa với văn hóa và kỹ 182
  3. thuật phương Tây. Ngược lại, một số nước: Ghinê, Côlômbia, Nirênia,..là những quốc gia giàu tài nguyên khoảng sản nhưng vẫn nghèo. Đặc trưng nổi bật của cuộc CMCN 4.0 không chỉ sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại thay thế dần sự hiện diện của con người trong mọi hoạt động lao động sản xuất vật chất mà còn dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo, công nghiệp tự động hóa, vật liệu mới và công nghệ thông tin phân tích dữ liệu. Với đặc thù này, cơ cấu ngành nghề sẽ thay đổi rất nhanh, hầu hết các tư liệu tiêu dùng và tư liệu sinh hoạt của xã hội hiện đại là các thiết bị đa ngành. Nói cách khác, sản phẩm lao động làm ra trong thời đại hiện nay in dấu ấn văn hóa, tri thức, trí tuệ của hàng ngàn, hàng vạn người lao động trên toàn cầu. Nếu so sánh với ba cuộc CMCN đã diễn ra trong lịch sử thì cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra với tốc độ cấp số mũ. Do đó, giáo dục và đào tạo - nơi cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng cho mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội cần phải thay đổi và có những giải pháp tiếp cận phù hợp để hội nhập cùng cộng đồng quốc tế. Thách thức đặt ra với nguồn nhân lực qua đào tạo là rất lớn, thói quen sính bằng cấp, chọn trường danh tiếng để theo học hay bảng điểm cao để dễ dàng tìm kiếm được việc làm và có thu nhập cao sẽ bị thay đổi trong bối cảnh cuộc cách mạng lần thứ tư đang diễn ra trên toàn cầu. Cách mạng 4.0 đã trở thành xu thế phát triển tất yếu khách quan, trở thành hiện thực sinh động ở nước ta. Nó đang tác động trực diện đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, giáo dục không phải là trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ và đang đặt ra nhiều vấn đề nổi cộm là giáo dục nghề nghiệp - nơi cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng, có khả năng tiếp biến và lĩnh hội các thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ hiện đại, biến khả năng, cơ hội thành hiện thực của đất nước. Điều này càng trở nên có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay. Đảng ta xác định: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc CMCN lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng”1. Nhằm hiện thực hóa quan điểm trên, Đảng ta khẳng định: “Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghệ số trong giáo dục - đào tạo”2 Như vậy, cuộc CMCN 4.0 tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, đặt ra yêu cầu và đòi hỏi ngày càng khắt khe với nguồn nhân lực, điều đó đòi hỏi giáo 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, HN, tr.127-128. 2. Sđd, tr.129. 183
  4. dục và đào tạo - nơi tri thức hóa nguồn nhân lực phải có những thay đổi để đào tạo nguồn nhân lực đủ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Nhờ công nghệ, người máy làm việc càng thông minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô biên, ngược lại, khả năng đó ở con người ngày một suy giảm theo thời gian và sự trưởng thành của nguồn nhân lực. So với các phương pháp giáo dục của các thế kỷ trước, CMCN 4.0 chú trọng đến phương pháp giáo dục “cá thế”, “lấy người học làm trung tâm”. Cuộc CMCN 4.0 đã tác động mạnh mẽ và toàn diện đến giáo dục và đào tạo, sự liên kết giữa các lĩnh vực vật lý, sinh học, cơ học, điện tử, toán học, hóa học,..hình thành những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt những ngành nghề liên quan đến sự tương tác giữa con người với máy. 2.2. E-Learning và các giai đoạn phát triển Học tập trực tuyến và xây dựng môi trường học tập trực tuyến hiện đang được quan tâm chú ý và đưa vào triển khai trong hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta nói chung, tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nói riêng với phạm vi và mức độ khác nhau. Đào tạo trực tuyến (E-learning) là một phương pháp đào tạo tiên tiến, toàn diện, có khả năng kết nối và chia sẻ tri thức hiệu quả. Sự ra đời của E-learning đã đánh dấu bước ngoặt mới trong việc áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT) vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Song song với sự phát triển mạnh mẽ của CNTT&TT, E-Learning đã trở thành một xu thế học tập mới của thế giới đương đại, môi trường học tập E-Learning tạo ra cơ hội cho người học khi tham gia các khóa học được tự do lựa chọn thời gian, địa điểm và trình độ thích hợp để học tập. Hệ thống E-Learning phân phối các nội dung học thông qua các công cụ điện tử hiện đại: Điện thoại thông minh, laptop, mạng Internet, Intranet,..trong đó, nội dung học được thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú: text, audio, video, mô phỏng. Trong môi trường học tập này, không chỉ người dạy và người học mà tất cả các thành viên tham gia đào tạo qua E-Learning đều có thể dễ dàng giao tiếp với nhau qua hệ thống mạng máy tính dưới các hình thức như: thư điện tử, thảo luận trực tuyến, diễn đàn, hội thảo video...Thậm chí có thể nghe được giọng nói và nhìn thấy hình ảnh của người giao tiếp trên màn hình. Cùng với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, hệ thống E- Learning không chỉ là môi trường cung cấp học liệu và kênh giao tiếp thuần túy giữa người dạy và người học mà hệ thống còn đóng vai trò như một cố vấn hướng dẫn học tập tích cực. CMCN 4.0 có vai trò ngày càng quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật số có vai trò quan trọng đối với E-Learning là vấn đề không thể phủ nhận. Bởi, đặc thù của phương thức giảng dạy E- Learning là dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, chủ yếu là dựa trên hạ tầng CNTT, vì thế, công nghệ thực tế ảo sẽ dần thay đổi cách dạy và học truyền thống 184
  5. với việc các hình thức giáo dục, đào tạo mới ra đời và phát triển mạnh như: Cousera; Khan Academy,..sinh viên có thể đeo kính VR và ngồi ở nhà nhưng vẫn cảm giác như đang ngồi trên giảng đường nghe bài giảng, với sự hỗ trợ của tai nghe, máy tính, laptop hoặc smartphone và các thiết bị truyền tin thông minh, sinh viên có thể truy cập Internet ở bất kỳ nơi nào để nghe bài giảng; Thi hoặc truy cập tài liệu nghiên cứu dựa trên nền tảng CNTT được số hóa; ngay cả các buổi serminar sinh viên không nhất thiết phải có mặt, các em có thể dễ dàng nghe, phát biểu xây dựng bài học thông qua các thiết bị điện tử hiện đại. E-Learning là một hệ thống học tập trực tuyến qua môi trường mạng Internet, dựa trên nền tảng công nghệ Web. Từ khi ra đời cho đến nay cùng với những phát triển công nghệ, E-Learning đã trải qua ba giai đoạn phát triển: Giai đoạn 1: E-Learning 1.0: Hệ thống E-Learning chủ yếu cung cấp cho người học tài nguyên học tập dưới dạng các trang web tĩnh, và không có nhiều công cụ để hỗ trợ người học trong quá trình học tập; Giai đoạn 2: E-Learning 2.0: Các hệ thống E-Learning cung cấp cho người học hệ thống nội dung học liệu dưới các hình thức text, video, và một kênh thảo luận nhóm dưới dạng text đơn thuần; Giai đoạn 3: E-Learning 3.0-4.0: E-Learning bắt đầu cung cấp cho người học các nội dung học tập một cách mềm dẻo, linh hoạt tùy theo hành vi tương tác của người học trên hệ thống, và hệ thống E-Learning cũng cung cấp cho người học nhiều công cụ hỗ trợ như: chat, video, online,..3 Học tập E-Learning có nhiều ưu điểm với người học như: (1).Không bị giới hạn bởi không gian và thời gian: Sở dĩ vậy bởi, sự phổ cập của Internet đã làm mờ đi đi khoảng cách về thời gian và không gian cho E-Learning. Một khoá học E-Learning được chuyển tải qua mạng tới thiết bị điện tử thông minh có kết nối internet: Laptop, Smartphone,..của người học, điều này cho phép các học viên học bất cứ không gian và thời gian nào khi người học có thể học; (2).Tính hấp dẫn: Với sự hỗ trợ của công nghệ Multimedia, những bài giảng tích hợp text, hình ảnh minh hoạ, âm thanh tăng thêm tính hấp dẫn cho nội dung bài học. Thông qua các thiết bị điện tử thông minh, người học không chỉ nghe giảng mà còn được xem những ví dụ minh hoạ trực quan và tương tác trực diện với giảng viên và bài học nên khả năng lĩnh hội kiến thức tăng lên; (3).Tính linh hoạt: Nhu cầu của người học luôn là ưu tiên hàng đầu trong một khoá học E-Learning mà không nhất thiết phải bám theo một thời gian biểu cố định. Do vậy, người học có thể tự điều chỉnh quá trình học, lựa chọn cách học phù hợp nhất với thời gian và điều kiện của cá nhân; (4).Dễ tiếp cận và truy nhập ngẫu nhiên: Điều này có được bởi, trước khi lựa chọn khóa học, người học được quyền biết trước bảng danh mục 3. Phan Thanh Toàn (2017), E-Learing 4.0 - Hệ thống học tập trực tuyến thông minh. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Đào tạo trực tuyến trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, tr.123-130. 185
  6. bài giảng, vì vậy tạo điều kiện thuận lợi để học viên lựa chọn đơn vị tri thức, tài liệu một cách tuỳ ý theo trình độ kiến thức và điều kiện truy nhập mạng của mình. Học viên tự tìm ra các kĩ năng học cho riêng mình với sự giúp đỡ của những tài liệu trực tuyến; (5).Tính cập nhật: Nội dung, hình thức khoá học thường xuyên được cập nhật và đổi mới nhằm đáp ứng và phù hợp tốt nhất cho học viên. Những ưu điểm trong phương thức học tập qua E-Learing tuy không thể hoàn toàn thay thế được phương thức đào tạo truyền thống, nhưng điều đó cũng cho thấy E-Learning có thể lựa chọn là một trong những giải pháp tối ưu nhằm giải quyết một vấn đề nan giải trong lĩnh vực giáo dục đó là nhu cầu đào tạo của người lao động và số lượng sinh viên tăng lên quá tải so với khả năng của các cơ sở đào tạo. Bởi, E-Learning có sức lôi cuốn rất nhiều người học, phù hợp với hoàn cảnh của những người đang đi làm nhưng vẫn muốn nâng cao trình độ...Các chương trình đào tạo từ xa trên thế giới hiện nay đã đạt đến trình độ phong phú về giao diện, sử dụng rất nhiều hiệu ứng đa phương tiện: âm thanh, hình ảnh, hình ảnh động ba chiều, kĩ xảo hoạt hình,..có độ tương tác cao giữa người sử dụng và chương trình, đàm thoại trực tiếp qua mạng...Tất cả những điều đó, đem đến cho học viên sự thú vị, say mê trong quá trình tiếp thu kiến thức cũng như hiệu quả trong học tập. Bên cạnh đó, E-Learning cho phép người học làm chủ hoàn toàn quá trình học của bản thân, từ thời gian, lượng kiến thức cần học cũng như thái độ, tinh thần và ý thức tự học, đặc biệt hình thức học tập này, cho phép người học tra cứu trực tuyến những kiến thức có liên quan đến bài học một cách tức thời, duyệt lại những phần đã học một cách nhanh chóng, tự do trao đổi với bạn cùng học hoặc giáo viên ngay trong quá trình học, những điều mà theo cách học truyền thống là không thể hoặc đòi hỏi chi phí quá cao. Tuy vậy, hiện nay, E-Learning chưa thể thay thế hoàn toàn phương pháp giảng dạy truyền thống bởi các lí do sau đây: Phương pháp dạy học truyền thống vẫn là phương thức chủ yếu và phổ biến bởi phù hợp với tất cả các người học và gắn liền với mỗi người học. Với cách học truyền thống, người học cảm thấy an toàn hơn khi được nghe giảng trực tiếp, được giải quyết vấn đề trực tiếp với giáo viên, phù hợp với nhiều đối tượng khác nhau. Đối với những học viên không tự giác, không có thói quen tự làm việc hay chủ động làm việc thì cách học truyền thống ít nhiều cũng có tác động đến họ khi họ được học trực tiếp với giáo viên trên lớp. Giáo viên cũng có thể quan sát được thái độ học tập và khả năng học tập của mỗi học viên qua tiếp xúc trực tiếp. Trong khi đó, mô hình đào tạo E-Learning không phải phù hợp với tất cả mọi người, nó chỉ phát huy hiệu quả khi người học có nhu cầu, có tính độc lập và tự giác cao. 186
  7. Đối với bài học, không phải bất kì nội dung học nào cũng dễ dàng chuyển đổi sang E-Learning, có rất nhiều môn học, ngành học phần nội dung có tính thực hành, tính thực tế cao thì khó có thể dùng E-Learning để giảng dạy, Ví dụ: các ngành liên quan đến chế tạo máy, khoa học về con người, các loại hình nghệ thuật thứ bảy: Sân khấu, âm nhạc, hội họa,..nhưng với những môn học thiên về rèn luyện kĩ năng và hoạt động theo quy trình, có sự thay đổi nhanh về nội dung học tập, có yêu cầu cập nhật kịp thời, sẽ là những nội dung thích hợp của E-Learning. E-Learning hiện nay và trong tương lai gần vẫn chưa thể thay thế hoàn toàn cách học truyền thống, mà cần phải có sự kết hợp với nhau để đem lại kết quả tốt nhất trong quá trình dạy - học. Một khoá học sử dụng thành công E-Learning đòi hỏi người dạy phải biết kết hợp cả hai phương pháp: dạy học E-Learning và dạy học truyền thống để đem lại hiệu quả cao nhất cho người học. Trong thế giới đương đại, việc học trực tuyến không còn mới mẻ ở các nước phát triển. Tuy vậy, ở Việt Nam, phương pháp học tập này mới phát triển vài năm gần đây. Cộng hưởng với việc áp dụng phương pháp học tập này là nhờ việc kết nối internet băng thông rộng được triển khai mạnh mẽ tới tất cả các cơ sở giáo dục. Sự hữu ích, tiện lợi của E-learning thì đã rõ, nhưng để đạt được thành công, các cấp quản lý cần có những quyết sách hợp lý. Thực hiện Chỉ thị số 29/2001/CT-BGDĐT của Bộ giáo dục và đào tạo về việc tăng cường giảng dạy, đạo tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2001 - 2005 và Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT của Bộ giáo dục và đào tạo về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong giai đoạn ngành giáo dục 2008- 2012, trong những năm qua, hạ tầng CNTT trong ngành giáo dục được đầu tư mạnh mẽ với việc hoàn thành “mạng giáo dục Edunet” năm 2010 (chương trình hợp tác giữa Bộ giáo dục và đào tạo với tập đoàn viên thông quân đội Viettel), kết nối Internet băng thông rộng đến tất cả các cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại học. Nhiều trường đại học, cao đẳng đã trang bị hạ tầng CNTT, thiết bị dạy học hiện đại và từng bước triển khai E-Learning. Chủ trương của Bộ giáo dục và Đào tạo trong giai đoạn tới là tích cực triển khai các hoạt động xây dựng một xã hội học tập mà ở đó mọi công dân đều có cơ hội được học tập, bất cứ lúc nào, bất cứ nới đâu và học tập suốt đời. Để thực hiện được mục tiêu trên, E-Learning có một vai trò chủ đạo trong việc tạo ra một môi trường học tập ảo. Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu và triển khai E- Learning. Một số đơn vị đã bước đầu triển khai các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho các kết quả khả quan: Đại học công nghệ - Đại học quốc Gia Hà Nội, Viên CNTT- Đại học quốc Gia Hà Nội, Học viện Bưu chính viễn thông, Đại học Sư phạm Hà Nội...Bên cạnh đó, một số công ty phần mềm ở Việt Nam đã cung ứng ra thị trường một số sản phẩm hỗ trợ đào tạo. Tuy nhiên khi triển khai giảng dạy E-Learning ở Việt Nam gặp phải một số khó khăn. 187
  8. Thứ nhất, để soạn bài giảng E-Learning có chất lượng đòi hỏi tốn nhiều công sức của giảng viên. Hiện nay chế độ hỗ trợ chưa phù hợp với công sức bỏ ra để soạn bài giảng E- Learning, vì vậy chưa khuyến khích được giảng viên. Cùng với đó, đội ngũ nhà giáo hiện gặp nhiều khó khăn: áp lực thi cử, các công việc còn mang nặng tính hành chính, đối phó: hồ sơ, sổ sách, bệnh thành tích trong giáo dục,..hệ lụy là giảng viên không có thời gian đầu tư cho E-Learning. Mặt khác, có một thực tế đang tồn tại, còn khá nhiều giáo viên còn hạn chế trong việc sử dụng các phần mềm công nghệ: ghi hình, thu âm, quay video bài giảng, tạo hiệu ứng âm thanh cho nội dung bài học,..nên chưa dám mạnh dạn sử dụng E-Learning vào bài giảng. Thứ hai, học tập theo phương pháp E-Learning đòi hỏi người học phải có tinh thần tự học, do ảnh hưởng của cách học thụ động truyền thống, tâm lí học phải có thầy, nội dung bài học, môn học còn khá nặng nên việc tham gia học E- Learning chưa trở thành động lực học tập. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế của người học không giống nhau, nhất là ở vùng sâu vùng xa, chưa thể trang bị máy vi tính kết nối Internet, nhiều thông tin trên mạng Internet chưa được kiểm soát dẫn đến gia đình lo lắng khi con em mình vào mạng,.. Thứ ba, để triển khai hiệu quả phương thức đào tạo E-Learning hiệu quả, đòi hỏi phải có hạ tầng CNTT đủ mạnh, có đường truyền cáp quang ổn định, xây dựng Website trường học và Website E-Learning hoàn chỉnh chi phí cao, nếu không tận dụng hết khả năng của Web sẽ gây lãng phí. Đồng thời, phải có đội ngũ cán bộ chuyên trách phục vụ hoạt động của hệ thống E-Learning. Tuy nhiên, theo quy định hiện tại chưa có cơ chế cho hoạt động này ở các trường. Như vậy, thành tựu mà cuộc CMCN 4.0 đang đặt giáo dục trước nhiều thách thức rất lớn. Trong đó, sự xuất hiện của các công nghệ mới đã làm thay đổi nền tảng sản xuất và đặt ra những yêu cầu mới về năng lực nhân sự, đòi hỏi các các cơ sở giáo dục phải thay đổi chương trình đào tạo để đáp ứng được yêu cầu của nền công nghiệp 4.0. Đặc biệt, những tiến bộ về CNTT đã và đang làm xuất hiện nhiều loại hình đào tạo mới. Hệ thống đào tạo trực tuyến đại chúng, đào tạo online,..là những loại hình đào tạo mới thách thức các phương thức đào tạo truyền thống. Do đó, Chính phủ đã xác định: “Thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông; đẩy mạnh tự chủ đại học, dạy nghề; thí điểm quy định về đào tạo nghề, đào tạo đại học đối với một số 188
  9. ngành đặc thù. Biến thách thức dân số cùng giá trị dân số vàng thành lợi thế trong hội nhập và phân công lao động quốc tế”4. 2.3. Một số giải pháp phát triển E-Learning trong giảng dạy hiện nay Để phát huy những ưu điểm E-Learning và khắc phục những khó khăn, nhóm tác giả đưa ra một số giải pháp sau: Thứ nhất, trên bình diễn vĩ mô, Nhà nước cần ban hành chính sách, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan trực diện đến phương thức E- Learning, nhằm tạo hành lang pháp vững chắc tạo tiền đề thúc đẩy các hoạt động liên quan đến phương thức E-Learning phát triển, bắt kịp với sự thay đổi mà cuộc CMCN 4.0 mang lại. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ cơ sở vật chất cần thiết cho các cơ sở đào tạo E-Learning. Thứ hai, trong điều kiện hiện nay, để hòa nhập và không bị lạc bước trong nền kinh tế số thì nhân tố đóng vai trò quyết định là chất lượng nguồn nhân lực và hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao. Do vậy, cần phải cải cách hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quá trình đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học nhằm đảm bảo tính đồng bộ và tạo nền tảng kiến thức vững chắc cho nguồn nhân lực. Mô hình giáo dục 4.0 là mô hình giáo dục thông minh, trên nền tảng mối quan hệ biện chứng giữa ba thành tố: Nhà trường - Doanh nghiệp và nhà quản lý nhằm tạo điều kiện để đổi mới, sáng tạo và tăng năng suất lao động trong xã hội tri thức. Giáo dục 4.0 sẽ giúp hoạt động dạy và học diễn ra mọi lúc, mọi nơi, giúp người học có thể cá nhân hóa, hoàn toàn quyết định việc học tập theo nhu cầu của bản thân. Chuyển mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo từ chú trọng giáo dục nhân cách nói chung sang kết hợp giữa giáo dục nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng trí tuệ của mỗi cá nhân, tức là đề cao và coi trọng phẩm chất, năng lực cá nhân người học sau quá trình đào tạo. Thứ ba, cần phải đầu tư cho khoa học công nghệ, nhất là đầu tư cho CNTT. Việc đầu tư này phải đặt lên đầu vì khi mà trí tuệ nhân tạo, kỹ thuật số phát triển như vũ bão thì hạ tầng, cơ sở vật chất cho việc đào tạo E-Learning sẽ nhanh chóng bị lạc hậu. Do đó, đầu tư vào cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc, phần mềm tiện ích của công nghệ thông tin có vai trò then chốt để đảm bảo cho phương thức E-Learning luôn phát huy tối đa tính vượt trội của E-Learning so phương thức đào tạo truyền thống. Bên cạnh đó, cần thường xuyên mở các lớp tập huấn, Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường tiếp cận cuộc cách mạng công 4. nghiệp lần thứ 4, truy cập ngày 14/4/2021 tại: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Dau-tu/Chi-thi-16-CT- TTg-tang-cuong-nang-luc-tiep-can-cuoc-Cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-4-2017-348297.aspx 189
  10. bồi dưỡng năng lực dạy học qua E-learning cho đội ngũ nhà giáo, đảm bảo mỗi giáo viên có thể thực hành và ứng dụng trong thực tiễn dạy học môn học của mình đảm nhiệm. Qua đó, giúp giáo viên nâng cao năng lực thiết kế, sắp xếp, tổ chức, giám sát, đánh giá các hoạt động học tập, thể hiện ở các kỹ năng: Xác định mục tiêu, nội dung cần phát triển cho người học; Thiết kế các hoạt động hướng dẫn học tập cụ thể trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông,.. 3. Kết luận CMCN 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có giáo dục - đào tạo. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục - đào tạo sẽ là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Hơn nữa, việc học tập không chỉ giới hạn trong việc học phổ thông, học đại học mà là học suốt đời. E-Learning chính là một trong những phương pháp giảng dạy tiếp cận gần nhất với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Sự ra đời của E-Learning là một hình thức học tập mới đã mang đến cho người học một môi trường học tập hiệu quả với tinh thần tự giác và tích cực. Tài liệu tham khảo: [1]. 1.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Chỉ thị 55/2008/CTBGDĐT “Về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 - 2012”, Hà Nội. [2]. 2.Bộ khoa học và công nghệ Việt Nam (2019), Tương lai nền kinh tế số Việt Nam - Hướng tới năm 2030 và 2045. Báo cáo tóm tắt, Hà Nội. [3]. 3.Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. [4]. 4.Phan Thanh Toàn (2017), E-Learing 4.0 - Hệ thống học tập trực tuyến thông minh. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Đào tạo trực tuyến trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân. [5]. 5.Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, truy cập ngày 14/4/2021 tại: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Dau-tu/Chi-thi-16-CT-TTg-tang- cuong-nang-luc-tiep-can-cuoc-Cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-4-2017- 348297.aspx. 190
nguon tai.lieu . vn