- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Cách mạng công nghiệp 4.0: Những thách thức đối với sự phát triển kinh tế tư nhân ở Hải Phòng hiện nay
Xem mẫu
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 541
CÁCH MÄNG CÔNG NGHIỆP 4.0: NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG HIỆN NAY
TS. Nguyễn Thị Cẩm Tú
Trường Đại học Thủy Lợi
Tóm tắt: Kinh tế tư nhân ở Hải Phòng có vai trò quan trọng trong việc khai thác những
tiềm lực sẵn có của địa phương, góp phần vào việc khẳng định vị trí, thương hiệu của Việt
Nam trên trường quốc tế. Hiện nay, kinh tế tư nhân Hải Phòng đã đạt được những thành
tựu đáng kể mang lại những đóng góp ấn tượng của một thành phố cảng lớn nhất miền
Bắc. Tuy nhiên, đứng trước sự bùng nổ của khoa học công nghệ trong cách mạng công
nghiệp 4.0 đối với sự phát triển kinh tế tư nhân Hải Phòng là một thách thức. Đó là những
thách thức về cạnh tranh, về đầu tư trang thiết bị để thích ứng với tiến bộ khoa học công
nghệ số, về việc chọn lựa, sử dụng nguồn nhân, về bảo mật thông tin… Do đó, nghiên cứu
những thách thức trên là cơ sở để xây dựng các giải pháp về vốn, về đào tạo nguồn nhân
lực, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hoàn thiện hành lang pháp lý, để các doanh nghiệp tư nhân
Hải Phòng có được định hướng về bước đi của mình trong thời gian tới, góp phần xây
dựng Hải Phòng thực sự là một thành phố biển trọng tâm không chỉ của cả nước mà cả
trên trường quốc tế.
Từ khóa cách mạng công nghiệp 4.0; kinh tế tư nhân ở Hải Phòng
4.0 INDUSTRIAL REVOLUTION: THE CHALLENGES TO THE CURENT
DEVELOPMENT OF PRIVATE ECONOMY IN HAI PHONG
Abtract: Private economy in Hai Phong plays an important role in exploiting available
local resources, contributing to asserting Vietnam's position and brand in the
international arena. Currently, Hai Phong's private economy has achieved remarkable
achievements, bringing impressive contributions to the largest port city in the North.
However, facing the explosion of science and technology in Industry 4.0 for Hai Phong's
private economic development is a challenge. These are challenges of competition,
investment in equipment to adapt to the progress of digital science and technology, on
the selection and use of human resources, on information security... Therefore,
researching challenges the above formula is the basis for developing capital solutions,
training human resources, completing infrastructure, completing legal corridors, so that
Hai Phong private enterprises can have orientation on the steps, contributing to building
Hai Phong is truly a central coastal city not only for the whole country but also for the
international arena.
Keywords: Industry 4.0; Private economy in Hai Phong
- 542 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
1. ĐẶT VÇN ĐỀ
Hải Phòng là thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp, cảng biển lớn
nhất phía Bắc Việt Nam. Là vùng đất sở hữu chiều dài bờ biển trên 125 km, có 6 cửa sông
lớn, có cấu trúc địa lý đa dạng gồm đất liền, sông, biển, núi đã kiến tạo nên Hải Phòng
thành đầu mối giao thông huyết mạch nối miền Bắc với các nước trong khu vực và trên thế
giới, đã tạo nên một môi trường để phát triển hiệu quả kinh tế tư nhân. Bắt nhịp cùng với
sự thay đổi mạnh mẽ về khoa học – công nghệ, hiện nay, kinh tế tư nhân ở Hải Phòng đã
đạt được được những thành tựu đáng kể mang lại những đóng góp ấn tượng tạo nên sự
phát triển cất cánh của một thành phố cảng lớn nhất miền Bắc. Tuy nhiên, đứng trước sự
phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, đặc biệt, trước những tác động của cách
mạng công nghiệp 4.0, đã mang lại những thách thức to lớn cho sự phát triển của kinh tế tư
nhân ở Hải Phòng hiện nay. Do đó, để đảm bảo sự phát triển bền vững, xứng tầm với tiềm
lực sẵn có, kinh tế tư nhân ở Hải Phòng cần có những giải pháp kịp thời để có được những
bước đi đúng đắn trong tương lại.
2. KẾT QUÂ NGHIÊN CỨU
2.1. Lý luận chung về cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0)
* Lịch sử ra đời của CMCN 4.0
Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; là sự thay đổi cơ
bản các điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa
ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động
chân tay là chủ yếu được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc với quy mô lớn.
Tên gọi “Cách mạng công nghiệp” thường dùng để chỉ một sự thay đổi mang tính đột biến
và triệt để. Nhiều cuộc cách mạng đã diễn ra trong suốt lịch sử thế giới, khi các công nghệ
mới và phương pháp mới nhận thức thế giới, cải tạo thế giới đã tạo ra một sự thay đổi sâu
sắc không chỉ trong các hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội mà cả các lĩnh vực khác từ
chính trị, văn hóa cho đến giáo dục.
Cuộc CMCN lần thứ nhất kéo dài từ cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19, đánh dấu
bằng sự ra đời của động cơ hơi nước, rồi sau đó là động cơ đốt trong, mở rộng sử dụng
nhiên liệu than đá, xây dựng các tuyến đường sắt, mở ra kỷ nguyên sản xuất cơ khí và phát
triển giao thương... Cuộc CMCN lần thứ hai bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 19 kéo dài tới đầu
thế kỷ 20, với sự ra đời của máy phát điện, đèn điện, động cơ điện, mở rộng việc sử dụng
điện năng trong sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt. Cuộc CMCN lần thứ ba bắt
đầu vào những năm thập niên 1960 và thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay
cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính vào
thập niên 1960; máy tính cá nhân vào thập niên 1970 và Internet vào thập niên 1990 [9]
Cuộc CMCN 4.0, tiếng Anh là Industry 4.0, tiếng Đức là “Industrie 4.0" bắt nguồn
từ một dự án trong Chiến lược công nghệ cao của Chính phủ Đức, trong đó khuyến khích
việc tin học hoá sản xuất. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu vào năm 2011 tại Hannover
- Hội chợ hàng đầu thế giới về công nghệ và công nghiệp, là sự kiện lớn nhất và quan
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 543
trọng nhất của ngành, được tổ chức thường niên bởi Deutsche Messe AG (CHLB Đức).
Tuy nhiên, theo như nhận định của GS. Klaus Schwab thì CMCN 4.0 bắt đầu vào đầu thế
kỉ XXI trên nền tảng của cuộc các mạng số, nó nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, đặc trưng
là sự hợp nhất các loại công nghệ, làm xóa nhòa ranh giới giữa lĩnh vực vật lí, kĩ thuật số
và sinh học với trung tâm là phát triển trí tuệ nhân tạo, robot hóa, Internet vạn vật, khoa
học vật liệu, sinh học, công nghệ di động không dây liên ngành sâu rộng cho tự động hóa
sản xuất chế tạo [10].
Như vậy, có thể thấy được cốt lõi của cuộc cách mạng này nằm ở các vấn đề sau: Trí
tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và Dữ liệu lớn (Big Data).
Đây thực sự là một cuộc cách mạng chưa từng có trong lịch sử công nghiệp trên thế giới,
tạo ra những thời cơ và thách thức rất lớn đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
* Bản chất của CMCN 4.0 về cơ bản là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp
tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh
những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy... Tuy nhiên, ở các giai đoạn
tiếp theo nền tảng công nghệ của nó có thể được bổ sung theo sự phát triển không ngừng
nghỉ của trí tuệ nhân tạo và sức óc của con người. CMCN 4.0 tạo ra những đột phá mới
trong việc giải phóng con người khỏi các chức năng thực hiện, chức năng quản lý và sẽ tạo
nên những bước nhảy vọt trong việc giải phóng con người khỏi chức năng logic khi các
công nghệ có trí tuệ nhân tạo được sử dụng rộng rãi. Với khả năng to lớn như vậy, nó thực
sự biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của CMCN 4.0 đang
dần loại con người ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp, tạo điều kiện để họ trở thành những
chủ thể sáng tạo thực sự, tạo tiền đề vật chất và lực lượng sản xuất mới cho một nền kinh
tế mới.
* Vai trò của CMCN 4.0 đối với sự phát triển kinh tế
Có thể nhận thấy, sự ra đời của CMCN 4.0 đã mang lại cho nhân loại nhiều bước tiến
mới trên tất cả các lĩnh vực. Tiếp nối cách mạng công nghiệp 3.0, CMCN 4.0 đã tiếp tục
tạo ra môi trường xã hội đặc biệt, chưa từng có trong lịch sử. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh
tế, nó có những tác động mạnh mẽ đối với nền sản xuất xã hội. Đó là sự tác động trực tiếp
lên yếu tố lực lượng sản xuất, nền công nghiệp của xã hội, làm đảo lộn nhận thức của con
người. Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ đã tạo tiền đề cho sự
thay đổi của nền sản xuất: loại bỏ sản xuất đại trà cũ trước đây và thay thế theo hướng nhu
cầu cá nhân – cá thể, đơn nhất, đặc thù. Do đó, nó đang làm chuyển dịch dần nền sản xuất
xã hội ở quy mô toàn thế giới mà ở đó được vận hành theo nguyên tắc mới, theo như cách
gọi của A. Toffler là phi tiêu chuẩn hóa, phi chuyên môn hóa phi đồng thời hóa, phi tập
trung hóa, phi tối đa hòa và phi trung tâm hóa [1].
CMCN 4.0 tạo nên quy mô phát triển với tốc độ cực cao và có sức lan tỏa “khủng
khiếp”. Cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi mạnh mẽ phương thức sản xuất và
phương pháp quản trị “các nhà máy thông minh”, “công sở và thành phố thông minh”
được kết nối Internet, liên kết với nhau thành một hệ thống thay vì các dây chuyền sản
- 544 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
xuất và phương pháp quản trị hành chính trước đây. Nhờ khả năng kết nối bằng máy tính,
các thiết bị di động tiếp cận với các cơ sở dữ liệu lớn từ nhiều nguồn, những tính năng xử
lý thông tin được nhân lên nhờ những đột phá về công nghệ bằng trí tuệ nhân tạo, người
máy, công nghệ in 3D, công nghệ na-nô, công nghệ điện toán đám mây, công nghệ sinh
học, công nghệ lượng tử, công nghệ vật liệu mới… Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mở ra
kỷ nguyên mới của sự lựa chọn các phương án đầu tư kinh doanh, tối ưu hóa sử dụng các
nguồn lực, thúc đẩy năng suất lao động và hiệu quả, tạo bước đột phá về tốc độ phát triển,
phạm vi mức độ tác động làm biến đổi cơ bản hệ thống sản xuất và quản trị xã hội cả chiều
rộng lẫn chiều sâu.
CMCN 4.0 tạo ra trí tuệ máy - robot tạo ra robot, tạo ra lực lượng cạnh tranh và thay
thế con người ở mọi cấp độ. Dựa vào các đột phá của công nghệ số kết hợp với điện toán
đám mây đã tạo ra nhà máy sản xuất thông minh. Sự phát triển như vũ bão của khoa học
và công nghệ đã, đang và sẽ tạo ra bước đột phá mới trong các ngành sản xuất của xã hội
mà trong đó trực tiếp nhất là ngành công nghiệp chế tạo robot. Tuy nhiên, khi nhân loại
bước sang CMCN 4.0 với những bước tiến mới làm động lực thúc đẩy phát triển trong việc
robot chế tạo robot thông qua sự kết hợp của công nghệ số với điện toán đám mây để tự
nâng cao dữ liệu. Nhờ đó, sự kết hợp giữa kĩ thuật số, điện tử, tin học và điện toán đám
mây đã tạo ra trí tuệ máy - trí tuệ nhân tạo chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Do đó đã
tạo ra lực lượng cạnh tranh và thay thế con người ở mọi cấp độ. Từ việc những con robot
thay thế con người ở lĩnh vực sản xuất lắp ráp các linh kiên điện tử ở các khâu vô cùng
phức tạp, cho đến làm việc ở vị trí nhân viên văn phòng, bán hàng, dịch vụ khách hàng
điều khiển các phương tiện giao thông... Những truy vấn khách hàng trong kinh doanh sẽ
được trả lời bằng rô-bốt tư vấn. Trên thị trường tài chính, máy tính có thể nhanh chóng đọc
hàng vạn e-mail… Tất cả những dịch vụ trên đây sẽ tiết giảm đáng kể chi phí giao dịch.
Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ đặt ra những yêu cầu mới về kiến thức kỹ năng và tâm
thế của người lao động.
Như vậy, có thể thấy vai trò to lớn CMCN 4.0 đối với nền kinh tế nhân loại, nó có
sức ảnh hưởng và có tầm quan trọng hơn rất nhiều so với ba cuộc cách mạng công nghiệp
trước đây. Cuộc CMCN 4.0 thực sự là một cuộc cách mạng chưa từng có trong lịch sử
công nghiệp trên thế giới, tạo ra những thời cơ và thách thức rất lớn đối với tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Việc nghiên cứu bản chất, vai trò của CMCN 4.0 để các doanh
nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp trẻ nắm bắt được những cơ hội và chủ động
trước những thách thức để có được những bước đi đúng đắn, phù hợp cho doanh nghiệp
của mình.
2.2. Điểm nổi bật của kinh tế tư nhân ở Hải Phòng hiện nay
Kinh tế tư nhân (KTTN) là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, có các quy mô khác nhau về vốn, lao động, công nghệ hoạt động dưới hình thức hộ
kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân như Công ty trách nhiệm hữu
hạn, Công ty cổ phần Công ty hợp doanh. KTTN có ưu thế đặc biệt khi sử dụng đa dạng
hóa các hình thức kinh tế cụ thể trong quá trình phát triển nền kinh tế vốn yếu kém, lạc hậu
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 545
đi lên kinh tế thị trường như nước ta. KTTN có vai trò quan trong trong việc khai thác
nguồn lực to lớn về vốn, sức lao động, kinh nghiệm quản lý, trí tuệ, khả năng kinh doanh,
tự chủ, tự lực, tự cường cho phát triển kinh tế… Đặc biệt, KTTN có khả năng thích ứng tốt
sự biến đổi của môi trường kinh doanh trong và ngoài nước. Hơn thế nữa, KTTN còn đóng
vai quan trọng trong việc tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội, giải quyết thất nghiệp, góp
phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, tận dụng được nhiều
nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Với vai trò quan trọng của KTTN trong nền kinh tế, Hải Phòng cũng như nhiều địa
phương khác trên cả nước cũng chú trọng phát triển KTTN để khai thác những tiềm lực
sẵn có của địa phương, góp phần vào việc khẳng định vị trí, thương hiệu của Việt Nam
trên trường quốc tế. Từ thực tiễn cho thấy, KTTN ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng
góp nhiều hơn cho kinh tế Hải Phòng trong những năm gần đây. Sự lớn mạnh này cho thấy
tính tiên phong của khối KTTN trong nền kinh tế chung của cả nước, khẳng định dấu ấn
mạnh mẽ trên thương trường không chỉ trong nước mà cả trên thế giới. Tính đến thời điểm
hiện nay, Hải Phòng hiện có trên dưới hơn 20 nghìn doanh nghiệp, trong đó đa phần là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực tư nhân, trong tổng số 500.000 doanh nghiệp tư
nhân cả nước [14].
Theo số liệu cục thống kê KTTN Hải Phòng tính đến năm 2018 số doanh nghiệp
đăng kí thành lập mới là 3155, bước sang 6 tháng đầu năm 2019, con số các doanh nghiệp
tư nhân tăng lên đáng kể. Số liệu thống kê 7 tháng đầu năm 2019 cho thấy sự đóng góp
không ngừng nghỉ và có đà tăng trưởng mạnh của các doanh nghiệp tư nhân đối với nền
kinh tế Hải Phòng. Cụ thể như sau: Tổ hợp sản xuất ô tô và xe máy điện VinFast: sau khi
chính thức đi vào hoạt động từ tháng 6/2019, sản lượng sản xuất sản phẩm ô tô của nhà
máy trong tháng 7/2019 dự kiến đạt cao hơn tháng trước, tập trung chủ yếu ở các dòng xe
cỡ nhỏ. Sản phẩm xe máy điện tháng 7/2019 ước đạt sản lượng khá hơn sau thời gian tiêu
thụ chậm, tồn kho cao. Chi nhánh công ty TNHH GE Hải Phòng với các đơn hàng dồi dào
tiếp tục sản xuất khối lượng lớn máy phát điện tuabin gió và các linh kiện hệ thống điều
khiển điện. Dự kiến tháng 7/2019 sản xuất và tiêu thụ giảm nhẹ so tháng trước nhưng vẫn
cao hơn gần 1,5 lần so với cùng kỳ. Ba doanh nghiệp thuộc tập đoàn LG trong 7
tháng/2019 sản lượng sản xuất tiếp tục ổn định, trong đó công ty TNHH LG Electronics từ
tháng 7/2019 đã đưa 03 dây chuyền sản xuất điện thoại và 01 chuyền bản mạch được
chuyển dịch từ Hàn Quốc sang nhà máy tại Hải Phòng vào sản xuất chính thức; công ty
TNHH LG Display Hải Phòng dự kiến bổ sung sản xuất dòng sản phẩm màn hình oled tivi
mới 77 inch. Ngoài ra sản xuất công nghiệp thành phố trong 7 tháng/2019 còn có sự đóng
góp các doanh nghiệp FDI như công ty TNHH Kyocera, TNHH Rorze Robotech, TNHH
LS Vina , TNHH may Reginal tiếp tục đầu tư mở rộng, tăng công suất… các doanh nghiệp
công nghiệp truyền thống trong nước như sản xuất sản phẩm từ plastic, sản xuất nước
mắm, may mặc tích cực mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng, nâng cao chất lượng... đã
đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng ngành như: sản xuất máy văn phòng tăng 18,03%; sản
xuất dây và cáp điện tăng 19,79%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 7,98%; chế biến thủy
sản tăng 14,17%, các ngành sử dụng nhiều lao động như may mặc tăng 15,4%... [13]
- 546 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
Những con số biết nói này càng khẳng định rằng, các doanh tư nhân đã và đang liên
tục tăng trưởng cả về quy mô, tiềm lực kinh tế tài chính và khẳng định vị thế trên tất cả các
lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế Hải Phòng. Số doanh nghiệp mới thành lập năm sau
nhiều hơn năm trước, nguồn lực trong dân đưa vào kinh doanh đạt hàng tỷ đồng mỗi năm,
phong trào quốc gia khởi nghiệp thu hút nhiều người trẻ có hoài bão, sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm, hàng triệu hộ kinh doanh cá thể cũng đang tạo doanh thu lớn hơn, giải quyết
công ăn việc làm nhiều hơn…
Tuy nhiên, đứng trước sự bùng nổ của KHCN trong CMCN 4.0, đối với KTTN là
một thách thức lớn trong sự phát triển. Do vậy, cần nghiên cứu để thấy được những thời
cơ và đặc biệt là những thách thức để các doanh nghiệp tư có được định hướng về bước
đi của mình trong thời gian tới: bắt nhịp theo xu hướng của thời đại những vẫn thực sự
làm chủ, thực sự chủ động hội nhập, hòa nhập chứ không hòa tan, góp phần xây dựng
Hải Phòng thực sự là một thành phố biển trong tâm không chỉ của cả nước mà cả trên
trường quốc tế.
2.3. Một số thách thức của CMCN 4.0 đối với sự phát triển kinh tế tư nhân ở Hải
Phòng hiện nay
CMCN 4.0 mang lại nhiều cơ hội tốt cho khu vực kinh tế tư nhân ở Hải Phòng tiếp
cận với những ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, chi phí phù hợp từ đó có thể tận
dụng tối đa nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh,
thu được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức cho khu vực
KTTN ở Hải Phòng hiện nay.
Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự tiếp nối cách mạng công nghiệp 3.0 là sản phẩm
của cách mạng KHCN đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn hơn, sâu rộng hơn, tốc độ
nhanh hơn, dường như đồng thời trên quy mô toàn cầu, đến mức không thể kịp nhận đoán
“hình dạng” của ngày mai. Nó thể hiện vừa đồng thời, đồng loạt, cộng hưởng, đột biến, bất
ngờ, ảnh hưởng dữ dội, quy mô lớn và sâu rộng so với các giai đoạn lịch sử trước đây
trong sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp đem lại thách thức
lớn về cạnh tranh đối với các doanh nghiệp. Có thể thấy, cạnh tranh trong kinh tế không
bao giờ chấm dứt, hơn thế nữa xu hướng cạnh tranh ngày càng có chiều hướng trở nên gay
gắt hơn. Những thành tựu của CMCN 4.0 trên tất cả các lĩnh vực của sản xuất đem lại cho
các doanh nghiệp tư nhân động lực mới trong sản xuất, trong xác định khuynh hướng kinh
doanh, biện pháp thực hiện, cách thức tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, những doanh nghiệp tư
nhân muốn tồn tại và phát triển cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Những
doanh nghiệp thích ứng được với những thay đổi của cuộc cách mạng số sẽ tiết kiệm được
chi phí, tăng năng suất lao động... từ đó gia tăng lợi nhuận. Ngược lại, doanh nghiệp nào
không thích ứng được sẽ bị tụt lùi, không cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác.
Thực tế cho thấy, thuật ngữ CMCN 4.0 được nhắc tới trên rất nhiều diễn đàn khoa
học, trên thông tin đại chúng… tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp tư nhân trong tỉnh chưa
thích ứng được với những thay đổi mới. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin đem lại cho
con người nhiều thông tin, tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp tư nhân còn không hiểu bản chất
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 547
của cách mạng công nghiệp 4.0, không thấy được liên quan của các xu thế công nghệ đến
ngành, lĩnh vực của mình, không sẵn sàng năng lực để tiếp cận công nghệ, hệ thống hạ
tầng... Đặc biệt, trong xu hướng mới hiện nay, các doanh nghiệp đang chạy đua nhau để
rút ngắn thời gian lao động nhằm mục đích thu lợi nhuận bằng cách tích cực ứng dụng
những máy móc, công nghệ hiện đại tân tiến vào sản xuất. Đó là một trong những thách
thức lớn đối với các doanh nghiệp tư nhân trong việc đầu tư trang thiết bị để thích ứng với
tiến bộ khoa học công nghệ số. Bởi vì, đối với các doanh nghiệp tư nhân, vấn đề về chi phí
đầu tư là vấn đề đặc biệt quan tâm, đặc biệt hơn nữa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu
như không giải quyết được bài toán về vốn, với xu thế công nghệ số như hiện nay, rất có
thể sẽ dẫn đến phá sản doanh nghiệp khi vừa mới được khai sinh. Tình trạng “chết yếu”
của cách doanh nghiệp nhỏ diễn ra phổ biến.
Đứng trước những vấn đề đặt ra đó đối với khu vực KTTN ở Hải Phòng, khiến các
doanh nghiệp tư nhân phải đối mặt với những thách thức đối với việc chọn lựa, sửa dụng
nguồn nhân lực cho chính nhu cầu của doanh nghiệp. Nền tảng công nghệ chủ yếu của
CMCN 4.0 là sự tích hợp các công nghệ của CMCN 3.0 và trí tuệ nhân tạo. CMCN 4.0 tạo
ra những đột phá mới trong việc giải phóng con người khỏi các chức năng thực hiện, chức
năng quản lý và sẽ tạo nên những bước nhảy vọt trong việc giải phóng con người khỏi
chức năng logic khi các công nghệ có trí tuệ nhân tạo được sử dụng rộng rãi. Trong
CMCN 4.0, thông tin và tri thức khoa học trở thành yếu tố đặc biệt quan trọng của sản xuất
và đời sống xã hội, ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của các lực lượng
sản xuất, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, trở thành động lực của sự phát triển của
cả sản xuất, con người và xã hội.
Sự bùng nổ của công nghệ số là một trong những thách thức lớn đối với các doanh
nghiệp tư nhân Hải Phòng trong việc lựa chọn hướng đi của mình trong việc đầu tư sản
xuất, kinh doanh. Sự phát triển như vũ bão của KHCN trong CMCN 4.0 mang lại nhiều lợi
thế cho sự phát triển kinh tế. Đó là sự hiện đại hóa của máy móc thiết bị, đa dạng hóa đối
tượng lao động, thị trường rộng mở đem lại cho doanh nghiệp tư nhân có nhiều sự lựa
chọn. Trong cách mạng công nghiệp hiện nay những sản phẩm mới, công nghệ mới được
tạo ra với tốc độ nhanh, mang tính cách mạng và được đưa vào sản xuất, đời sống con
người và xã hội nhanh chóng, tạo nên những thay đổi to tớn, những biến đổi cách mạng
trong các lĩnh vực đó. Nhưng bên cạnh đó, chính sự bùng nổ ấy cũng khiến cho các doanh
nghiệp tư nhân bị cuốn trôi vào “vòng xoáy ảo” trên thương trường kinh tế. Khiến cho họ
khó xác định đúng đắn hướng đi của mình. Chính vì vậy, thách thức về năng lực quản lý
lãnh đạo và sự nhạy bén với xu thế mới của kinh tế thế giới đang là bài toán đặt ra đối với
đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở các doanh nghiệp tư nhận ở Hải Phòng hiện nay.
Một thách thức không hề nhỏ đối với các doanh nghiệp ở Hải Phòng hiện nay đó là
xu hướng phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số sẽ làm tăng lỗ hổng bảo mật, tạo
điều kiện cho tội phạm công nghệ cao hoạt động đánh cắp thông tin. Bên cạnh đó, Cách
mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện hành lang pháp lý, các chính sách
phát triển phục vụ hoạt động kinh tế tư nhân. Trong đó, việc xuất hiện nhiều vấn đề mới,
phức tạp, đòi hỏi các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, đánh giá, sửa đổi, bổ sung cơ
- 548 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
chế, chính sách phát triển kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng để đáp ứng yêu
cầu thực tế và sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ.
Trước sự bùng nổ của khoa học công nghệ trong CMCN 4.0 và những thách thức mà
nó đem lại cho khu vực KTTN, các doanh nghiệp Hải Phòng và các cơ quan quản lý cần
có giải pháp để tận dụng tối đa các cơ hội và vượt qua những thách thức, khó khăn góp
phần đẩy mạnh kinh tế tư nhân.
2.4. Giải pháp phát triển KTTN ở Hải Phòng trong bối cảnh CMCN 4.0 hiện nay
Sau hơn 30 năm tiến hành đổi mới, sự thừa nhận vị thế của KTTN của Đảng ta ngày
càng rõ ràng hơn, xứng tầm hơn. Tại Đại hội VI năm 1986, từ việc khẳng định nền kinh tế
có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kì quá độ, cho đến việc cho phép
KTTN được phát huy không hạn chế trong Nghị quyết TW khóa 2. Văn kiện Đại hội X
năm 2006 đã nhận định: KTTN là khu vực “có vai trò quan trọng, là một trong những động
lực của nền kinh tế”. Trong Nghị quyết Đại hội XI năm 2011 của Đảng đã chỉ rõ: “Hoàn
thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những
động lực của nền kinh tế”. Cho đến Đại hội XII, trước những đóng góp to lớn của KTTN,
Đảng ta khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-
NQ/TW về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [8]. Có thể nói đây là đòn bẩy hết sức quan trọng
nhằm củng cố, phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Để
kinh tế tư nhân phát triển, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, Đại hội XII của
Đảng đã khẳng định: Hoàn thiện cơ chế, chính sách; khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển
mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trong đó chú trọng hoàn
thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp,
đồng thời khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp
vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước… [8]
Trên cơ sở quan điểm đường lối của Đảng và những thách thức mà CMCN 4.0 đặt ra
đối với KTTN, Hải Phòng cần có những chính sách cụ thể để tận dụng tối đa cơ hội và
vượt qua những thách thức, khó khăn, xây dựng KTTN xứng tầm với tiềm lực vốn có
mình. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ về tài chính để kinh tế tư
nhân đầu tư vào lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng
dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến.
Theo nhận định của GS. Klaus Schwab “cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
không có các máy móc và hệ thống thông minh kết nối với nhau. Phạm vi của nó rộng hơn
nhiều. Những làn sóng đột phá đang xuất hiện đồng thời ở nhiều lĩnh vựctrong các lĩnh
vực khác nhau xảy ra đồng thời, từ giải mã trình tự gen đến công nghệ nano, từ năng lượng
tái tạo đến tính toán lượng tử” [10]. Do đó, những đột phá về công nghệ mới trong các lĩnh
vực như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng Internet, phương tiện độc lập, in 3D, công
nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 549
tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn tới sự phát triển kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân. Vì
vậy, trước sự phát triển như vũ bão của CMCN 4.0, những thành tựu mà nó mang lại đòi
hỏi các doanh nghiệp cần có nguồn vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất, ứng dụng công nghệ
hiện đại, tân tiến vào sản xuất để có thể bắt nhịp với xu thế chung của nền kinh tế thế giới,
tăng khả năng cạnh tranh, tránh được những rủi ro mà cạnh tranh mang lại. Đồng thời đó
cũng là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp ở Hải Phòng khẳng định được vị thế
riêng của mình, tránh tụt hậu về mặt công nghệ, tụt hậu về thị hiếu, xu hướng của người
tiêu dùng.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
để đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng nhân sự cho phát triển kinh tế tư nhân, đảm
bảo an ninh mạng về thông tin của các doanh nghiệp trong bối cảnh CMCN 4.0.
Nhân tố quyết định trong việc vận dụng và phát triển cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại trong bối cảnh CMCN 4.0 không phải là nguồn lực tài chính, không phải là hệ
thống máy móc thiết bị, cũng không phải là điều kiện tự nhiên và lịch sử văn hóa, mặc dù
chúng vẫn đóng vai trò quan trọng, mà là nguồn lực con người. Tuy nhiên, trong bối cảnh
CMCN 4.0 hiện nay, không phải nguồn lực con người nói chung mà là nguồn nhân lực
chất lượng cao trong các lĩnh vực khoa học, kĩ thuật, công nghệ và quản lý, kinh doanh.
Đó là những lực lượng đầu tàu, vừa giữ vai trò định hướng, vừa giữ vai trò động lực thúc
đẩy việc xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ và công nghiệp của quốc
gia. Không có nguồn nhân lực chất lượng cao trong những lĩnh vực đó thì không thể vận
dụng có hiệu quả các thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ, càng không thể tiếp
nhận cách mạng khoa học công nghệ hiện đại vào các doanh nghiệp để phát triển khu vực
KTTN ở Hải Phòng hiện nay. Do đó, cần có chính sách khuyến khích tiến hành các hoạt
động đào tạo dạy nghề, nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động. Đặc biệt, cần
khuyến khích các cơ sở khoa học, các nhà quản lý, các nhà khoa học liên kết với doanh
nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ
mới, tiên tiến cho doanh nghiệp. Thực hiện mô hình đào tạo theo địa chỉ, tiến tới đào tạo
theo nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo quản lý cũng cần phải có khả năng
dự báo xu hướng phát triển kinh tế của xã hội trong tương lai để tránh tình trạng đào tạo
nhân lực ổ ạt tại thời điểm hiện tại nhưng lại thừa trong tương lai.
Thứ ba, cần tiếp tục thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng tạo nền tảng vững chắc cho
sự phát triển KTTN trong bối cảnh CMCN 4.0.
Kết cấu hạ tầng là một trong những yếu tố không những đảm bảo cho sự phát triển
KTTN của tỉnh mà còn thu hút sự đầu tư, mở rộng hoạt động của kinh tế tư nhân. Do vậy,
việc chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ thị trường, chú trọng vào việc cung
cấp thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin là việc làm quan trọng để bắt nhịp kịp thời
với xu hướng mới của CMCN 4.0. Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống Internet,
điện toán đám mây, dữ liệu lớn cho phép con người có thể chạm tay vào thế giới ảo thông
qua hệ thống kết nối mạng. Do đó, việc hoàn thiện và nâng cấp đồng bộ hệ thống thông
tin, mạng Internet để giúp cho các doanh nghiệp tư nhân có được kết cấu hạ tầng ổn định,
- 550 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP
thông suốt, liên tục và mang lại hiệu quả cao trong quá trình sản xuất.
Thứ tư, hoàn thiện hành lang pháp lý, các chính sách phát triển tạo lập môi trường
đầu tư kinh doanh thuận lợi cho phát triển KTTN Hải Phòng trong bối cảnh CMCN 4.0
Thực tế cho thấy, nếu hệ thống hành lang pháp lý, cơ chế chính sách phát triển kinh
tế tư nhân không đồng bộ sẽ gây cản trở đến việc đầu tư, khai thác tiềm năng sẵn có của
vùng. Đồng thời, hệ thống chính sách là một trong những yếu tố quan trong để đảm bảo
cho sự phát triển thông suốt của KTTN trên cả nước nói chung và ở Hải Phòng nói riêng.
Do đó, giải pháp này cho phép bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô: Các sở, ban, ngành cấp
tỉnh, UBND các huyện, quận, thành phố, theo chức năng nhiệm vụ được giao, tiếp tục
thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tổ chức thực
hiện có hiệu quả Đề án tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng đến
năm 2020, định hướng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 và các nghị quyết, chương
trình, kế hoạch hành động của Trung ương, của tỉnh về tiếp tục đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền
kinh tế thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII.
3. KẾT LUẬN
Từ thực tiễn cho thấy, sự bùng nổ của khoa học công nghệ trong CMCN 4.0 đã mang
lại cho KTTN ở Hải Phòng nhiều cơ hội nhưng cũng mang lại nhiều thách thức cho sự
phát triển của các doanh nghiệp tư nhân hiện nay. Đứng trước những thách thức to lớn về
vốn, về đổi mới trang thiết bị máy móc, về nguồn nhân lực, về hạ tầng cơ sở, về hành lang
pháp lý, KTTN ở Hải Phòng cần những giải pháp kịp thời về vốn, về khoa học công nghệ,
về phát triển hạ tầng, về hoàn thiện hành lang pháp lý và các chính sách phát triển để
KTTN ở Hải Phòng có được định hướng đúng đắn những bước đi trong tương lai. Chỉ có
như vậy mới góp phần khẳng định vị trí, vai trò của KTTN ở Hải Phòng trong nền kinh tế
quốc dân, khẳng định vị trí, vai trò của kinh tế Hải Phòng trong sự phát triển của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHÂO
1. Toffler (1992), Làn sóng thứ 3, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội.
2. Ban kinh tế Trung Ương (2017), Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, Nxb.
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
3. Burlaxki F.M. (2009), Tư duy mới: đối thoại và nhận định về cách mạng công nghệ trong cải
cách của chúng ta, Nxb. Chính trị, M. 2009.
4. Lương Minh Cừ (2011), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay – Một số
nhận thức về lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Vũ Hùng Cường (2016), Kinh tế tư nhân - Một động lực cơ bản cho phát triển”, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kì đổi mới (khóa
VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.677-678.
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 551
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kì đổi mới (khóa
VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.354.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng TW, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.107.107.
9. Giáo trình Triết học (dùng cho khối không chuyên ngàn Triết học, trình độ đào tạo Thạc sĩ,
Tiến sĩ các ngành khoa học tự nhiên, công nghệ) (2015), Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, tr.196.
10. Klaus Schwab (2018), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Bộ Ngoại giao dịch, Nxb.
Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. tr.20;21;22.
11. Hoàng Minh (2017), Phát triển kinh tế tư nhân – nhìn từ thực tiễn Hải Phòng, Báo điện tử An
ninh Hải Phòng.
12. Đức Vũ (2017), Hải Phòng: Kinh tế tư nhân là động lực của thành phố, Báo điện tử Diễn đàn
doanh nghiệp.
13. http://www.thongkehaiphong.gov.vn/so-lieu-thong-ke/tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-thang-7-7-
2019-tp-hai-phong-314.html
14. https://enternews.vn/index.php/dau-an-doanh-nghiep-tu-nhan-hai-phong-132250.html.
nguon tai.lieu . vn