Xem mẫu

  1. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 ID: YSC3F.301 CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN LỢI NHUẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM LẠI CAO MAI PHƯƠNG1, HUỲNH QUỐC TRỌNG1, VŨ PHẠM GIA BẢO1 1 Khoa Tài chính – Ngân hàng, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh laicaomaiphuong@iuh.edu.vn, quoctrong2907@gmail.com, vuphamgiabao199@gmail.com Tóm tắt. Bài viết này được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận của các công ty bất động sản tại Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện bằng cách sử dụng dữ liệu của 30 công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2016-2020. Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính bao gồm mô hình phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS), mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM). Bên cạnh đó các kiểm định cũng được thực hiện nhằm chọn ra mô hình phù hợp. Trong nghiên cứu này, lợi nhuận của công ty được đo bằng lợi nhuận trên tài sản (ROA). Kết quả nghiên cứu cho thấy tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến lợi nhuận; đòn bẩy, quy mô công ty và lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận; bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng doanh thu và tỷ lệ thanh toán hiện hành không tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ khóa. Lợi nhuận, Bất động sản, dữ liệu bảng, ROA FACTORS AFFECTING PROFIT OF REAL ESTATE ENTERPRISES LISTED ON VIETNAM STOCK MARKET Abstract. This article is designed to study the factors affecting the profitability of real estate companies in Vietnam. The research is conducted using data from 30 real estate companies listed on the Ho Chi Minh Stock Exchange for the period 2016-2020. This Research is used to use the current rule of modeling including the smallest method (OLS) model, fixed effect model (FEM), and random modeling application (REM). Besides tests are also performed to choose suitable for the model. In this study, corporate profitability is measured by return on product (ROA). Research results for active economic growth to gain profits; attack, company size and development have an effect on profitability; besides, the enterprise revenue growth rate and the current payment rate do not affect the profit of the business. Keywords. Profits, Real Estate, panel data, ROA 1. GIỚI THIỆU Trên báo cáo tài chính, lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh rõ nhất kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Thông thường, lợi nhuận được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA). Trong thời kỳ Việt Nam đang dần từng bước hòa nhập cùng nền kinh tế thế giới, việc nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến sự tồn tại của các doanh nghiệp, mà còn tác động tới sự phát triển của ngành và rộng hơn là toàn bộ nền kinh tế nói chung. Ngành bất động sản (BĐS) là ngành có nhiều tiềm năng phát triển, chiếm tỷ trọng khá lớn và đóng góp vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Nghiên cứu này sẽ tiến hành tìm hiểu sự tác động của các yếu tố đến lợi nhuận của 30 doanh nghiệp ngành BĐS niêm yết trên sàn chứng khoán thành phố Hồ Chí Mính (HOSE) trong giai đoạn 2016- 2020. Xuất phát từ tầm quan trọng của lợi nhuận đối với các doanh nghiệp BĐS nói riêng cũng như đối với nền kinh tế nói chung, việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến lợi nhuận nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành BĐS là cần thiết. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC 2.1 Cơ sở lý thuyết ❖ Lý thuyết mô hình CAPM Mô hình CAPM được xây dựng bởi Sharpe (1964), Lintner (1965), Mossin (1966) dựa trên mô hình lựa chọn danh mục đầu tư do Harry Markowitz (1959) phát triển. Fisher Black (1972) đã phát triển một phiên bản khác của mô hình CAPM, được gọi là Black CAPM, không bao gồm giả định về sự tồn tại của tài sản 10 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
  2. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 không rủi ro. Mô hình này phù hợp hơn trong việc kiểm tra thực nghiệm và giúp mô hình CAPM được chấp nhận rộng rãi hơn. Trong mô hình của Markowitz, các nhà đầu tư xem mỗi khoản đầu tư khác nhau được đại diện cho một sự phân phối xác suất của tỷ suất sinh lợi mong đợi lên một vài thời kỳ nắm giữ. Các nhà đầu tư luôn tối đa hóa lợi ích trong một kỳ nhất định. Các nhà đầu tư đánh giá rủi ro của danh mục dựa trên phương sai của tỷ suất sinh lợi mong đợi. Các nhà đầu tư căn cứ trên quyết định độc lập của tỷ suất sinh lợi và rủi ro mong đợi, vì vậy đường cong hữu dụng của họ là một phương trình của tỷ suất sinh lợi mong đợi và phương sai (độ lệch chuẩn) của tỷ suất sinh lợi. Với một mức độ rủi ro cho trước, các nhà đầu tư ưa thích tỷ suất sinh lợi cao hơn là một tỷ suất sinh lợi thấp. Tương tự, với một mức tỷ suất sinh lợi mong đợi cho trước, các nhà đầu tư lại thích ít rủi ro hơn là nhiều rủi ro. Markowitz đo lường rủi ro thông qua phương sai hay độ lệch chuẩn với giả định tỷ suất sinh lợi được phân phối chuẩn. ❖ Lý thuyết lãi suất của Fisher Lý thuyết lãi suất của Fisher rất cần thiết cho khuôn khổ nhằm mục tiêu lạm phát. Lý thuyết này là cơ sở cho ý tưởng rằng chính sách tiền tệ nên chủ yếu tập trung vào việc quản lý kỳ vọng lạm phát trong nỗ lực giữ lãi suất thực sự ổn định. Điều này nhằm mục đích thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư. Khái niệm đầu tư vốn vào lý thuyết của Fisher có thể bắt nguồn từ sự ra đời của bản chất vốn và thu nhập (1906) và lãi suất (1907), khái niệm này rất quan trọng trong lý thuyết của Fisher (1930). Giả định cơ bản của Fisher là tất cả vốn lưu thông trong nền kinh tế và nó được sử dụng hết trong quá trình sản xuất. Do đó, với lãi suất thực tế cần thiết, bất kỳ sự gia tăng (hoặc giảm) dự kiến nào về tỷ lệ lạm phát sẽ dẫn đến tăng (hoặc giảm) lãi suất danh nghĩa thông qua chênh lệch giữa thu nhập tổng hợp trong tương lai và hiện tại. Do đó, nếu trong một giai đoạn (t = 0) nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng việc làm đầy đủ mà không có lạm phát dự kiến, thì đột nhiên trong giai đoạn (t = 1) ngân hàng trung ương dự kiến sẽ tăng nguồn cung tiền trong thời gian sao cho có lạm phát dự kiến, thu nhập thực tế tổng hợp tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn số tiền thực dự kiến cần được hoàn trả. 2.2 Tổng quan các nghiên cứu trước Trên thế giới và tại Việt Nam vấn đề nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty đã được nhiều tác giả thực hiện ở nhiều nền kinh tế và khu vực khác nhau trên thế giới. Dưới đây là phần tóm lược nội dung của một số nghiên cứu về chủ đề này tại một số ngành. ❖ Lợi nhuận của công ty Lợi nhuận của một công ty đo lường lợi nhuận của nó trong những năm hoạt động. Theo Bauer (2004) các công ty có lợi nhuận cao hơn nên có đòn bẩy cao hơn cho thu nhập mà họ bảo vệ khỏi thuế. Nó giữ quan điểm rằng nhiều công ty lợi nhuận nên tận dụng nhiều khoản nợ hơn một cách có chủ đích để phục vụ như một biện pháp kỷ luật cho các nhà quản lý. Bằng chứng thực nghiệm từ các nghiên cứu trước đây cho thấy mối quan hệ tiêu cực giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận Jordan & ctg (1998); Mishra & McConaughy (1999) nhưng Petersen & Rajan (1994) đã báo cáo một mối quan hệ tích cực giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận. ❖ Tăng trưởng công ty Tầm nhìn của các công ty để mở rộng trong tương lai đòi hỏi cam kết vốn lớn hơn đối với các quỹ được tạo ra bởi các công ty, buộc họ phải đảm nhận tài chính nợ. Theo Marsh (1982) các công ty có mức tăng trưởng cao sẽ nắm bắt tỷ lệ nợ tương đối cao hơn. Theo Myers (1977), các công ty có cơ hội tăng trưởng cao trong tương lai nên sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu hơn trong tài chính của họ vì một công ty có đòn bẩy cao hơn có khả năng bỏ qua các cơ hội đầu tư có lợi hơn. Một số nghiên cứu báo cáo mối quan hệ tích cực như Kester (1986) trong khi các nghiên cứu khác cho thấy các công ty tăng trưởng cao hơn sử dụng ít nợ hơn Stulz (1990); Rajan & Zingales (1995). Các nghiên cứu của Diaz (2017) đối với 47 công ty bất động sản được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia từ năm 2010 đến 2014 và Safarova (2010) đối với 76 công ty niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán New Zealand trong giai đoạn 1996-2007. Cả hai nghiên cứu đều cho thấy tốc độ tăng trưởng doanh thu có tác động tích cực đối với lợi nhuận. © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 11
  3. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 ❖ Đòn bẩy tài chính Đòn bẩy có thể được đo lường và xác định theo nhiều cách như tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu bằng với nợ dài hạn chia cho vốn chủ sở hữu của cổ đông phổ thông. Rajan & Zingales (1995) nói rằng định nghĩa về đòn bẩy đặc biệt dựa trên mục tiêu của phân tích. Các biện pháp đòn bẩy khác bao gồm nợ trên tổng tài sản, tổng nợ phải trả trên tổng tài sản, nợ đối với tài sản ròng và nợ vốn hóa. Nợ áp đặt nghĩa vụ cố định đối với các công ty xảy ra bất kể doanh số bán hàng. Khi suy thoái kinh tế đại diện cho một giai đoạn giảm doanh số nói chung, những công ty bán các mặt hàng không cần thiết có thể phải đối mặt với một hạn chế đáng kể về doanh thu. Kết quả là nợ có thể gây rủi ro đáng kể cho công ty do khủng hoảng tài chính đi kèm. Khi đòn bẩy của một công ty tăng lên, công ty có khả năng gặp khó khăn hơn. Theo Opler & Titman (1994), các công ty có đòn bẩy thấp hơn đạt được thị phần lớn hơn cho các đối tác có đòn bẩy cao của họ. Điều này có thể được giải thích vì các nhà đầu tư sẽ không muốn tham gia vào các công ty nhận ra tổn thất hoặc trải qua khủng hoảng tài chính. Hơn nữa, Opler & Titman (1994) đã lập luận rằng các công ty mạnh hơn về tài chính đặc biệt sử dụng những giai đoạn suy thoái công nghiệp này để tích cực chinh phục thị phần lớn hơn của các công ty đối tác dễ bị tổn thương hơn của họ bằng cách tăng quảng cáo và giá cả chiến lược. Ngoài ra, họ cho rằng các công ty có đòn bẩy cao và đầu tư đáng kể vào nghiên cứu và phát triển có xu hướng chịu nhiều hơn và chịu rủi ro cao hơn trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Các nghiên cứu của Ahmad & ctg (2015) đối với 18 công ty sản xuất xi măng từ 2005 đến 2010; Safarova (2010) trên thị trường chứng khoán New Zealand và Selcuk (2016) đối với 302 công ty Thổ Nhĩ Kỳ được niêm yết trên thị trường chứng khoán Borsa Istanbul 2005 đến 2014. Các nghiên cứu này cho thấy đòn bẩy tài chính có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận. Ngược lại với Ahmad & ctg (2015); Safarova (2010) và Selcuk (2016), nghiên cứu của Burja (2011) đối với một công ty hóa chất Rumani từ năm 1999-2009 cho thấy đòn bẩy tài chính có tác động tích cực đối với lợi nhuận. Tại Việt Nam các nghiên cứu của Trang (2020) trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và thị trường chứng khoán Hà Nội; Toản (2016) trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; Hằng & Linh (2020) đối với 27 công ty bất động sản niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ 2010 tới 2019; Vân và Nga (2018) đối với 42 công ty sản xuất vật liệu xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2012- 2016; Ngọc & ctg (2020) đối với 20 công ty ngành dầu khí được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam với 100 quan sát từ năm 2014 đến 2018. Các nghiên cứu này đều cho thấy đòn bẩy tài chính có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận của công ty. ❖ Quy mô công ty Quy mô của một công ty đã được xem là một trong những đặc điểm cụ thể của nó xác định cấu trúc vốn của nó. Về mặt lý thuyết, Bauer (2004) cho rằng ảnh hưởng của kích thước đối với đòn bẩy là không có. Rajar & Zingales (1995) cho rằng: "Các công ty lớn hơn có xu hướng đa dạng hơn”. Nếu vậy, quy mô nên có tác động tích cực đến nợ cung. Tuy nhiên, quy mô cũng có thể là một biến số cho thông tin mà các nhà đầu tư bên ngoài có, điều này sẽ làm tăng ưu tiên của họ đối với vốn chủ sở hữu so với nợ". Mối quan hệ giữa quy mô và cơ cấu vốn của một công ty đã được chứng minh theo kinh nghiệm là tích cực bởi một số nghiên cứu như: Barclay & Smith (1996); Al-Sakran (2001). Các nghiên cứu cho thấy các công ty lớn hơn có xu hướng sử dụng nợ trong khi những công ty nhỏ hơn có nhiều khả năng sử dụng vốn chủ sở hữu. Mối quan hệ giữa quy mô công ty và tỷ lệ nợ dài hạn được tìm thấy là tích cực. Tuy nhiên, một mối quan hệ tiêu cực tồn tại giữa quy mô và tỷ lệ nợ ngắn hạn trong các nghiên cứu của Caesar & Holmes (2003); Esperanca & ctg (2003). Các công ty nhỏ hơn dường như sử dụng tài chính ngắn hạn hơn các công ty lớn hơn vì chi phí giao dịch của họ khi họ phát hành nợ dài hạn hoặc vốn chủ sở hữu cao hơn. Tuy nhiên, Ferri & Jones (1979) kết luận rằng quy mô công ty ảnh hưởng đến cơ cấu vốn doanh nghiệp nhưng không tích cực như nó đã được đưa ra giả thuyết. Các nghiên cứu của Diaz (2017) trên thị trường chứng khoán Indonesia; Bolek & ctg (2012) trên thị trường chứng khoán Warsaw; Azhar & Ahmed (2019) đối với 10 công ty dệt may niêm yết hàng đầu trên Sàn giao dịch chứng khoán Pakistan từ năm 2012 đến 2016; Selcuk (2016) trên thị trường chứng khoán Borsa Istanbul và Safarova (2010) trên thị trường chứng khoán New Zealand. Các nghiên cứu này đều cho thấy quy mô công ty có tác động tích cực đến lợi nhuận của công ty. 12 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
  4. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 Tại Việt Nam các nghiên cứu của Toản (2016) và Hằng & Linh (2020) trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; Vân và Nga (2018) và Ngọc & ctg (2020) trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Các nghiên cứu này đều cho thấy quy mô công ty có tác động tích cực đến lợi nhuận của công ty. Ngược lại với các nghiên cứu này, nghiên cứu của Trang (2020) trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và thị trường chứng khoán Hà Nội cho thấy quy mô công ty có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận. ❖ Tỷ lệ thanh toán hiện hành Tỷ lệ thanh toán hiện hành là tỷ lệ được sử dụng thường xuyên nhất Czekaj và Dresler (2001). Nó cung cấp một cái nhìn chung về thanh khoản của công ty và là điểm khởi đầu của phân tích của nó. Nó xác định mức độ tài sản hiện tại bao gồm các khoản nợ ngắn hạn. Nó xác định khả năng tiềm năng của một doanh nghiệp để trả tất cả các khoản nợ hiện tại của mình thông qua thanh lý các nguồn lực sở hữu của tài sản hiện tại. Giá trị của tỷ lệ càng cao, khả năng này càng cao. Nghiên cứu của Diaz (2017) trên thị trường chứng khoán Indonesia cho thấy tỷ lệ thanh toán hiện hành có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận. Nghiên cứu của Trang (2020) trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và thị trường chứng khoán Hà Nội cho thấy tỷ lệ thanh toán hiện hành có tác động tích cực đối với lợi nhuận của công ty. ❖ Tốc độ tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu của Bolek & ctg (2012) đối với 44 công ty ngành xây dựng được niêm yết Sở giao dịch chứng khoán Warsaw trong giai đoạn 2000-2010. Nghiên cứu này cho thấy tốc độ tăng trưởng doanh thu có tác động tích cực đến lợi nhuận của công ty. Tại Việt Nam các nghiên cứu của Trang (2020) đối với 55 công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh và Hà Nội trong giai đoạn 2010-2018 và Toản (2016) đối với 35 doanh nghiệp ngành bất động sản Việt Nam trong giai đoạn 2010-2014. Cả hai nghiên cứu này đều cho thấy tốc độ kinh tế có tác động tích cực đối với lợi nhuận. ❖ Tỷ lệ lạm phát Nghiên cứu của Odusanya & ctg (2018) đối với 114 công ty được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Nigeria (NSE) từ năm 1998 đến 2012. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lạm phát có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận. Tại Việt Nam nghiên cứu của Trang (2020) trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh và thị trường chứng khoán Hà Nội. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lạm phát có tác động tích cực đến lợi nhuận. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Mô hình nghiên cứu Theo nghiên cứu trước đây, như một chỉ số về lợi nhuận, lợi nhuận trên tài sản (ROA) chủ yếu được sử dụng. Các biến độc lập ảnh hưởng đến lợi nhuận của một công ty bao gồm tốc độ tăng trưởng doanh thu, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, tỷ lệ thanh toán hiện hành và tỷ lệ lạm phát. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng kinh tế được thêm vào như một chỉ số về tình hình kinh tế vĩ mô và được dự đoán sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của các công ty bất động sản tại Việt Nam. Do đó, mô hình nghiên cứu được ước tính bằng phương trình sau: ROAi = β0 + β1GROWTHi + β2LEVi + β3SIZEi + β4CRi + β5GDPi + β6INFi + εi Biến phụ thuộc: • Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) Các biến số độc lập bao gồm: • Tốc độ tăng trưởng doanh thu (GROWTH) • Đòn bẩy (LEV) • Quy mô công ty (SIZE) • Tỷ lệ thanh toán hiện hành (CR) • Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) • Tỷ lệ lạm phát (INF) © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 13
  5. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 Bảng 1: Thống kê các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu Tên biến Ký hiệu Cách tính Dấu tác động Các tác giả nghiên cứu trước Lợi nhuận trên ROA Lợi nhuận / Tổng tài tổng tài sản sản Tốc độ tăng GROWTH [Doanh thu của năm t - + Diaz (2017) trưởng doanh thu Doanh thu của năm (t- Safarova (2010) 1)] / Doanh số của năm (t-1) Đòn bẩy tài chính LEV Tổng nợ / Tổng tài sản + Burja (2011) - Ahmad & ctg (2015); Safarova (2010); Selcuk (2016); Trang (2020); Ngọc & ctg (2020); Hằng & Linh (2020); Toản (2016); Vân & Nga (2018) Quy mô công ty SIZE Logarit (Tổng tài sản) + Diaz (2017); Safarova (2010); Selcuk (2016); Bolek & ctg (2012); Ngọc & ctg (2020); Hằng & Linh (2020); Toản (2016) - Trang (2020) Tỷ lệ thanh toán CR Tài sản ngắn hạn/ Nợ + Trang (2020) hiện hành ngắn hạn - Diaz (2017); Vân và Nga (2018) Tốc độ tăng GDP Dữ liệu từ tổng cục + Bolek & ctg (2012); Trang trưởng kinh tế thống kê (2020); Toản (2016) Tỷ lệ lạm phát INF Dữ liệu từ tổng cục + Trang (2020) thống kê - Odusanya & ctg (2018) Lưu ý: (+) Thể hiện tác động cùng chiều; (-) Thể hiện tác động ngược chiều Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả 3.2 Dữ liệu nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán được công bố trên website của 30 công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh từ năm 2016 đến 2020. Dựa trên dữ liệu thu thập được, nhóm tác giả đã tính toán ra được các biến dữ liệu khác nhau. Ngoài ra, dữ liệu về tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và tỷ lệ lạm phát (INF) đã được thu thập Tổng cục thống kê của Việt Nam. 3.3 Các phương pháp hồi quy dữ liệu bảng và các kiểm định Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng sử dụng dữ liệu bảng, bao gồm phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS), mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM). Sau đó nghiên cứu sử dụng các kiểm định để chọn ra được mô hình phù hợp. Sau khi chọn được mô hình nghiên cứu phù hợp sẽ kiểm tra các khuyết điểm có trong mô hình là phương sai thay đổi và hiện tượng tự tương quan. Nếu trong trường hợp mô hình xảy ra các khuyết điểm, nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp (GLS) để khắc phục. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1 Thống kê mô tả Bảng 2: Kết quả thống kê các biến nghiên cứu Biến Obs Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất ROA 150 0,0520849 0,0504649 -0,1227524 0,220912 GROWTH 150 0,7244384 2,895224 -0,9105565 24,67571 14 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
  6. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 LEV 150 0,5751704 0,1615662 0,1922544 0,8429651 SIZE 150 15,92075 1,337187 13,40476 19,86588 CR 150 2,354981 1,73238 0,4999649 12,28338 GDP 150 0,06006 0,0158357 0,0291 0,0708 INF 150 0,03382 0,0082625 0,0231 0,0474 Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm tác giả Bảng 2 trình bày thống kê mô tả bao gồm giá trị trung bình, độ lệch chuẩn cũng như giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất của các biến có trong mô hình. Bảng 2 cho thấy rằng tính trung bình các công ty trong mẫu có lợi nhuận trên tổng tài sản khoảng 5%, tốc độ tăng trưởng doanh thu khoảng 7% mỗi năm, đòn bẩy tài chính khoảng 5.7%, tỷ lệ thanh toán hiện hành khoảng 2.35%. Theo kết quả quan sát được lợi nhuận trên tổng tài sản cao nhất là công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn (SGR) vào năm 2016, thấp nhất là công ty Cổ phần tập đoàn Đại Dương (OGC) vào năm 2016. Tốc độ tăng trưởng doanh thu cao nhất là công ty Cổ phần đầu tư Năm Bảy Bảy (NBB) vào năm 2017, thấp nhất là công ty Cổ phần đầu tư Phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Sông Đà (SJS) vào năm 2017. Đòn bẩy tài chính cao nhất là công ty Cổ phần Kinh doanh và phát triển Bình Dương (TDC) vào năm 2017, thấp nhất là công ty Cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo (ITA) vào năm 2020. Quy mô công ty cao nhất là Tập đoàn VINGROUP-CTCP (VIC) vào năm 2020, thấp nhất là công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển nhà Đà Nẵng (NDN) vào năm 2016. Tỷ lệ thanh toán hiện hành cao nhất là công ty Cổ phần Phát triển Hạ tầng Vĩnh Phúc (IDV) vào năm 2017, thấp nhất là công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai (HAG) vào năm 2018. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất là vào năm 2018, thấp nhất là vào năm 2020. Tỷ lệ lạm phát cao nhất là vào năm 2016, thấp nhất là vào năm 2020. 4.2 Ma trận tương quan Bảng 3: Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu ROA GROWTH LEV SIZE CR GDP INF ROA 1,0000 GROWTH 0,1161 1,0000 LEV -0,1262 0,0292 1,0000 SIZE -0,2397 -0,0938 0,0937 1,0000 CR 0,2630 -0,0337 -0,1585 -0,3057 1,0000 GDP -0,0011 -0,0637 0,0187 -0,0582 0,0950 1,0000 INF -0,0895 0,0337 0,0066 -0,1198 0,1660 0,5054 1,0000 Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm tác giả Trong bảng 3, các biến độc lập LEV, SIZE, GDP và INF có tác động ngược chiều đối với ROA. Trong khi đó, các biến độc lập khác có tác động cùng chiều với ROA. Hệ số tương quan lớn nhất trong mô hình là (0.5054
  7. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 SIZE 1,13 -0,00641** 0,00875 0,00647 -0,00537*** CR 1,15 0,00661*** 0,00426 0,0000878 0,000354 GDP 1,36 0,00227 0,00278 0,00255 0,00221*** INF 1,38 -0,01143** -0,00507 -0,00942** -0,00615*** Cons 0,176*** 0,0174 0,213** 0,179*** N 150 150 150 150 R2 0,141 0,155 0,117 Significance F(6, 143)= 3,91 F(6, 114)= 3,49 Wald chi2(6)= Wald chi2(6)= 16,50 49,00 Kiểm định White Chi2(26) = 43,80 Prob>chi2 = 0,0159 Kiểm định F(1, 29) = 12,923 Wooldridge Prob>F = 0,0012 Kiểm định Hausman Chi2(6) = 12,11 Prob>F = 0,0595 Kiểm Định F F(29, 114) = 6,57 Prob>F = 0,0000 Kiểm Định LM Chibar2(01) = 62,54 Prob>chibars = 0.0000 Lưu ý: *, ** và *** cho biết tầm quan trọng ở mức 10%, 5% và 1% Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm tác giả Trong bảng 4, ta có thể thấy được hệ số phóng đại VIF của tất cả các biến đều nhỏ hơn 10 và giá trị trung bình của VIF là 1.18 cho nên không xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến. Với biến phụ thuộc là (ROA) sau khi dung phương pháp (GLS) khắc phục hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi kết quả hồi quy cho thấy rằng hệ số của đòn bẩy (LEV), quy mô công ty (SIZE) và tỷ lệ lạm phát (INF) có tác động ngược chiều đối với biến phụ thuộc lợi nhuận (ROA), có ý nghĩa ở mức 1%. Bên cạnh đó nghiên cứu tìm ra tác động cùng chiều của tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đối với lợi nhuận (ROA) ở mức 1%. Trong khi đó với với kết quả thu được biến tăng trưởng công ty (GROWTH) và tỷ lệ hiện tại (CR) không có tác động đối với biến lợi nhuận (ROA). Kết quả này có thể được giải thích như sau: Đòn bẩy (LEV) có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận (ROA) của các công ty bất động sản và có ý nghĩa ở mức 1%. Kết quả này cũng được tìm thấy trong các nghiên cứu của Ahmad & ctg (2015); Safarova (2010); Selcuk (2016); Trang (2020), Ngọc & ctg (2020); Hằng và Linh (2020); Toản (2016); Vân và Nga (2018). Điều này cho thấy rằng các doanh nghiệp nào vay nợ nhiều sẽ gặp những khó khăn nhất định trong việc tăng được lợi nhuận của công ty. Do đó, họ cần phải sử dụng các khoản vay một cách hiệu quả để cải thiện lợi nhuận. Quy mô công ty (SIZE) có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận (ROA) của các công ty bất động sản và có ý nghĩa ở mức 1%. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Trang (2020). Kết quả này cho thấy rằng việc tăng quy mô của các công ty có thể làm giảm đi lợi nhuận của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó kết quả này trái ngược với những nghiên cứu của Diaz (2017); Safarova (2010); Selcuk (2016); Bolek & ctg (2012); Ngọc & ctg (2020); Hằng và Linh (2020); Toản (2016) cho rằng quy mô công ty có tác động cùng chiều đối với lợi nhuận. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) có tác động cùng chiều đối với lợi nhuận (ROA) của các công ty bất động sản và nó có ý nghĩa ở mức 1%. Kết quả này giống với kết quả nghiên cứu của Bolek & ctg (2012); Trang (2020). Điều này cho thấy rằng khi tốc độ tăng trưởng GDP tăng cho thấy rằng đời sống người dân cũng được nâng cao, nhu cầu mua sắm hay xây dựng nhà cửa, các công trình BĐS được tăng lên. Từ đó các doanh nghiệp ngành BĐS cũng sẽ kinh doanh thuận lợi, phát triển mạnh từ đó lợi nhuận của các doanh nghiệp ngành BĐS cũng được tăng lên. Điều đó sẽ khuyến khích các công ty giải quyết hàng tồn kho của họ và sau đó cải thiện lợi nhuận. 16 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
  8. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 Tỷ lệ lạm phát (INF) có tác động ngược chiều với lợi nhuận (ROA) của các công ty bất động sản và tầm quan trọng ở mức 1%. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Odusanya & ctg (2018). Điều này cho thấy lạm phát cao có thể gây ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận của công ty. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Lợi nhuận là một chỉ báo quan trọng của việc lập báo cáo tài chính và cũng là một chỉ báo cho hiệu quả hoạt động trong tương lai của công ty cũng như là một công cụ hữu ích cho việc xác định giá trị công ty. Do đó, lợi nhuận của một công ty có tác động đáng kể đến quyết định của các bên liên quan, chẳng hạn như cổ đông, trái chủ, ngân hàng, những nhà hoạch định chính sách, nhà cung cấp và các đối thủ cạnh tranh. Công ty có lợi nhuận cao nếu thông tin trên báo cáo tài chính mô tả chính xác hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Nghiên cứu đã xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của 30 công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 2016-2020. Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính bao gồm mô hình phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS), mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM). Bên cạnh đó các kiểm định Hausman cũng được thực hiện nhằm chọn ra mô hình phù hợp giữa mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) và sau đó phương pháp (GLS) cũng được sử dụng để khắc phục các khuyết điểm xuất hiện trong mô hình. Theo kết quả, các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty là đòn bẩy, tăng trưởng kinh tế, quy mô công ty và tỷ lệ lạm phát. Trên cơ sở xác định các nhân tố tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp ngành BĐS ở Việt Nam, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của các doanh nghiệp ngành BĐS niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE). Kết quả cho thấy các yếu tố kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của các doanh nghiệp bất động sản, vì vậy các cơ quan chức năng cần xây dựng các chính sách phù hợp để ổn định và cải thiện tình hình kinh tế vĩ mô là tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát cụ thể. Các doanh nghiệp cần quan tâm mở rộng quy mô doanh nghiệp, việc mở rộng quy mô làm cho doanh nghiệp tăng thị phần, có vị thế trên thị trường. Các doanh nghiệp cần phải sử dụng các nguồn vốn vay một cách hợp lý để tránh gây ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty. Nghiên cứu này còn hạn chế về phạm vi nghiên cứu khi mới chỉ tập trung nghiên cứu vào các doanh nghiệp BĐS niêm yết trên HOSE. Việc mở rộng phạm vi nghiên cứu sang các doanh nghiệp BĐS niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội, sẽ góp phần đưa lại những nhận định thực nghiệm bao quát hơn và có nhiều ý nghĩa hơn trong việc xác định các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của phần lớn các doanh nghiệp BĐS tại Việt Nam. Thêm vào đó, nghiên cứu này mới chỉ sử dụng chỉ tiêu đo lường là lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) để đánh giá mức độ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp BĐS, thay vì sử dụng các chỉ tiêu khả năng sinh lời khác của các doanh nghiệp BĐS như (ROE, ROS). Những nghiên cứu tiếp theo có thể sử dụng các chỉ tiêu đó để có được cái nhìn đa dạng hơn về các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của các doanh nghiệp BĐS trên thị trường Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Agustin, H., Indrastuti, S. & Tanjung, A. (2020) “The examining the capital structure determinants: empirical analysis ofreal estate and property industry in Indonesia” Palarch’s Journal of Archaeology of Egypt/Egyptology 17(10), 320-327. [2] Ahmad, N., Salman, A. & Shamsi, A. (2015) “Impact of Financial Leverage on Firms’ Profitability: An Investigation from Cement Sector of Pakistan” Research Journal of Finance and Accounting Vol.6, No.7, 2015. [3] Al-Sakran, S. (2001) “Leverage determinants in the absence of corporate tax system: the case of non- financial publicly traded corporation in Saudi” [4] Alshatti, A. (2015). “The Effect of the liquidity management on profitability in the Jordanian commercial banks”. International Journal of Business and Management; Vol. 10, No. 1; 2015. [5] Asmirantho, E. (2012) “Effect of Financial Fundamental Factors and Macroeconomics to Stock Return with Implications on Corporate Value (Tobin's Q) Real Estate and Property Go Public in Indonesia”. © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 17
  9. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 [6] Azhar, K. & Ahmed, N. (2019) “Relationship between firm size and profitability investigation from textile sector of Pakistan” International Journal of Information, Business and Management, Vol. 11, No.2, 2019. [7] Bauer, P. (2004) “Determinants of capital structure empirical Evidence from the Czech Republic” Czech Journal of Economics and Finance. [8] Binh, T. Q., Huong, V. T. T. và Loan, N. T. B. (2020) “Zombie companies experimental research from real estate listed sectors” 2020, Vol. XXIX, N°5, 1360-1369. [9] Bolek, M. & Wili'ski, W. (2012) “The influence of liquidity on profitability of Polish construction sector companies” e-Finanse: Financial Internet Quarterly, ISSN 1734-039X, University of Information Technology and Management, Rzeszów, Vol. 8, Iss. 1, pp. 38-52. [10] Bradley, M., Jarell, G. & E. Han Kim. (1984) “On the existence of an optimal capital structure: Theory and evidence” The Journal of Finance, 39: 857-80. [11] Bùi Ngọc Toản (2016) “Tác động của chính sách vốn lưu động đến khả năng sinh lời trên tổng tài sản của các doanh nghiệp ngành Bất động sản Việt Nam” Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 44 (2016): 18-27. [12] Burja, C. (2011) “Factors Influencing The Companies Profitability” Annales Universitatis Apulensis Series Oeconomica, 13(2), 2011. [13] Caesar, G. & Holmes, S. (2003) “Capital Structure and Financing of SMEs: Australian Evidence”. Journal of Accounting and Finance, 43: 123-147. [14] Czekaj, J. & Dresler, Z. (2001). “Zarządzanie Finansami Przedsiębiorstw. Warszawa: Wydawnic- two Naukowe PWN”. [15] Diaz, T. & Hindro, M. (2017) “Factors Affecting the Profitability of Indonesian Real Estate Publicly-listed Companies” Asian Journal of Finance & Accounting 2017, Vol. 9, No. 1 [16] Dương Thị Hồng Vân và Trần Phương Nga (2018) “Ảnh hưởng của quản trị vốn lưu động tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp: Bằng chứng từ các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng tại Việt Nam” Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018. [17] Esperanca, J., Ana, P. & Mohamed, A. (2003) “Corporate debt policy of small firms: An empirical relexamination”. Journal of Small Business and Enterprise Development, 10(1): 62-80. [18] Fama, F. & French, R. (2004) “The Capital Asset Pricing Model: Theory and Evidence” Journal of Economic Perspectives—Volume 18, Number 3—Summer 2004—Pages 25–46. [19] Ferri, M. & Jones, W. (1979). “Determinants of Financial Structures: A New Methodological Approach”. J. Finance., 34(3): 631-644. [20] Hang, D. T., Duong, P. T., Ha, N. T. & Hong, H. T. L. (2020) “Factors Affecting Financial Risk: Evidence from Listed Enterprises in Vietnam” Journal of Asian Finance, Economics and Business Vol 7 No 9. [21] Hung, D. N., Van, V. T. T., Xuan, N. T. & Ha, H. T. V. (2019) “Study the Impact of Growth, Firm Size, Capital Structure, and Profitability on Enterprise Value: Evidence of Enterprises in Vietnam” The Journal of Corporate Accounting & Finance / January 2019. [22] Jordan, l., Lowe, J. & Taylor, P. (1998) “Strategy and Financial Policy in UK Small Firms”, Journal of Business Finance & Accounting 25, 1-27. [23] Kester, C. (1986) “Capital and ownership structure: a comparison of United States and Japanese manufacturing corporations”. Finance Manage; 15:5-16. [24] Laichena, K. & Obwogi, T. (2015) “Effects of macroeconomic variables on stock returns in the east african community stock exchange market” International Journal of Education and Research Vol. 3 No. 10 October 2015. 18 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
  10. Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0 [25] Mishra, C. &. McConaughy. (1999) “Founding Family Control and Capital Structure Entrepreneurship” Theory and Practice 23.4. [26] Myers, S. (1977) “The Determinants of Corporate Borrowing”. Journal of Financial Economics 5, 147-175. [27] Ngô Thị Hằng, Nguyễn Thị Thuỳ Linh (2020) “Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định” Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 223- Tháng 12. 2020. [28] Ngô Thị Ngọc, Đinh Thị Thùy Linh và Nguyễn Thu Hà (2020) “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất sinh lợi của các doanh nghiệp trong nhóm ngành dầu khí niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” Khoa học Thương mại số 146/2020. [29] Odusanya, I., Yinusa, O. & Ilo, B. (2018) “Determinants of Firm Profitability in Nigeria: Evidence from Dynamic Panel Models” SPOUDAI Journal of Economics and Business, Vol.68 (2018), Issue 1, pp. 43-58 [30] Petersen, M. & Rajan, R. (1994) “The Benefits of Lending Relationship: Evidence from Small Business Data”. Journal of Finance 49(1) (1994): 3-37. [31] Rajan, R. & Zingales, L. (1995) “The Great Reversals. The Politics of Financial Developments in the 20th Century”. National Bureau of Economic Research Working paper, 8178. [32] Rajan, R. & Zingales, L. (1995) “The Great Reversals. The Politics of Financial Developments in the 20th Century”. National Bureau of Economic Research Working paper, 8178. [33] Renaldi, J., Pinem, D. & Permadhy, Y. (2020) “Analysis Of Factors Affecting the Value Of Manufacturing Industry Companies in the Indonesian Stock Exchange (IDX)” EJBMR, European Journal of Business and Management Research Vol. 5, No. 1, February 2020. [34] Safarova, Y. (2010) “Factors That Determine Firm Performance of New Zealand Listed Companies”. [35] Seissian, A., Gharios, T. & Awad, B. (2018) “Structural and market-related factors impacting profitability: A cross sectional study of listed companies” arab economic and business journal 13 (2018) 125–133. [36] Selcuk, E. (2016) “Does firm age affect profitability? Evidence from Turkey” international Journal of Economic Sciences Vol. V, No. 3 / 2016 pp. 1-9. [37] Setyowati, R., Masitoh, E. & Siddi, P. (2020) “Factors affecting the value of companies in the food and beverage companies listed on BEI” Journal of Business, Management, and Accounting E-ISSN 2714-870X. [38] Shari, T., Purohit, H. & Pillai, R. (2015) “Analysis of Factors Affecting Share Prices: The Case of Bahrain Stock Exchange” International Journal of Economics and Finance; Vol. 7, No. 3; 2015. [39] Simiyu, L. & Huo, X. (2013) “Factors Affecting Leveraging for Quoted Real Estate Development Companies in China” International Journal of Economics and Finance; Vol. 5, No. 7; 2013. [40] Stulz, R. (1990) “Managerial Discretion and Optimal Financing Policies”. Journal of Financial Economics, 26, pp. 3-27. [41] Stulz, R. (1990), “Managerial Discretion and Optimal Financing Policies”. Journal of Financial Economics, 26, pp. 3-27. [42] Susanti, N. & Restiana, N. (2018) “What’s the Best Factor to Determining Firm Value?” Jurnal Keuangan dan Perbankan, 22(2):301–309, 2018. [43] Trang, D. T. T. (2020) “Profitability of real estate firms: Evidence using GMM estimation” Management Science Letters 10 (2020) 327–332. [44] Vina, A., Kosasih, J., Susanto, K. & Astuty, F. (2019) “The Influence Of Cash Position, Debt To Asset Ratio And Firm Size On Dividend Payout Ratio In Property And Real Estate Companies Listed On The Indonesia Stock Exchange For The 2014-2018 Period”. [45] Waluyo, W. (2017) “Firm Size, Firm Age, and Firm Growth on Corporate Social Responsibility in Indonesia: The Case of Real Estate Companies” European Research Studies Journal Volume XX, Issue 4A, 2017. © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 19
nguon tai.lieu . vn