- Trang Chủ
- Đầu tư Chứng khoán
- Các yếu tố tác động đến lợi nhuận của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Xem mẫu
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
ID: YSC3F.301
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN LỢI NHUẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẤT
ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LẠI CAO MAI PHƯƠNG1, HUỲNH QUỐC TRỌNG1, VŨ PHẠM GIA BẢO1
1
Khoa Tài chính – Ngân hàng, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
laicaomaiphuong@iuh.edu.vn, quoctrong2907@gmail.com, vuphamgiabao199@gmail.com
Tóm tắt. Bài viết này được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận của
các công ty bất động sản tại Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện bằng cách sử dụng dữ liệu của 30 công
ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2016-2020. Nghiên cứu
này sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính bao gồm mô hình phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS), mô
hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM). Bên cạnh đó các kiểm định cũng
được thực hiện nhằm chọn ra mô hình phù hợp. Trong nghiên cứu này, lợi nhuận của công ty được đo bằng
lợi nhuận trên tài sản (ROA). Kết quả nghiên cứu cho thấy tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến lợi
nhuận; đòn bẩy, quy mô công ty và lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận; bên cạnh đó tốc độ tăng
trưởng doanh thu và tỷ lệ thanh toán hiện hành không tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Từ khóa. Lợi nhuận, Bất động sản, dữ liệu bảng, ROA
FACTORS AFFECTING PROFIT OF REAL ESTATE ENTERPRISES LISTED ON
VIETNAM STOCK MARKET
Abstract. This article is designed to study the factors affecting the profitability of real estate companies
in Vietnam. The research is conducted using data from 30 real estate companies listed on the Ho Chi Minh
Stock Exchange for the period 2016-2020. This Research is used to use the current rule of modeling
including the smallest method (OLS) model, fixed effect model (FEM), and random modeling application
(REM). Besides tests are also performed to choose suitable for the model. In this study, corporate
profitability is measured by return on product (ROA). Research results for active economic growth to gain
profits; attack, company size and development have an effect on profitability; besides, the enterprise
revenue growth rate and the current payment rate do not affect the profit of the business.
Keywords. Profits, Real Estate, panel data, ROA
1. GIỚI THIỆU
Trên báo cáo tài chính, lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh rõ nhất kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Thông thường, lợi nhuận được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng tài
sản (ROA). Trong thời kỳ Việt Nam đang dần từng bước hòa nhập cùng nền kinh tế thế giới, việc nâng cao
lợi nhuận của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến sự tồn tại của các doanh
nghiệp, mà còn tác động tới sự phát triển của ngành và rộng hơn là toàn bộ nền kinh tế nói chung. Ngành
bất động sản (BĐS) là ngành có nhiều tiềm năng phát triển, chiếm tỷ trọng khá lớn và đóng góp vai trò
quan trọng trong các hoạt động kinh tế và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Nghiên cứu này sẽ tiến
hành tìm hiểu sự tác động của các yếu tố đến lợi nhuận của 30 doanh nghiệp ngành BĐS niêm yết trên sàn
chứng khoán thành phố Hồ Chí Mính (HOSE) trong giai đoạn 2016- 2020. Xuất phát từ tầm quan trọng của
lợi nhuận đối với các doanh nghiệp BĐS nói riêng cũng như đối với nền kinh tế nói chung, việc nghiên cứu
các nhân tố tác động đến lợi nhuận nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành
BĐS là cần thiết.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
2.1 Cơ sở lý thuyết
❖ Lý thuyết mô hình CAPM
Mô hình CAPM được xây dựng bởi Sharpe (1964), Lintner (1965), Mossin (1966) dựa trên mô hình lựa
chọn danh mục đầu tư do Harry Markowitz (1959) phát triển. Fisher Black (1972) đã phát triển một phiên
bản khác của mô hình CAPM, được gọi là Black CAPM, không bao gồm giả định về sự tồn tại của tài sản
10 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
không rủi ro. Mô hình này phù hợp hơn trong việc kiểm tra thực nghiệm và giúp mô hình CAPM được chấp
nhận rộng rãi hơn. Trong mô hình của Markowitz, các nhà đầu tư xem mỗi khoản đầu tư khác nhau được
đại diện cho một sự phân phối xác suất của tỷ suất sinh lợi mong đợi lên một vài thời kỳ nắm giữ. Các nhà
đầu tư luôn tối đa hóa lợi ích trong một kỳ nhất định. Các nhà đầu tư đánh giá rủi ro của danh mục dựa trên
phương sai của tỷ suất sinh lợi mong đợi. Các nhà đầu tư căn cứ trên quyết định độc lập của tỷ suất sinh lợi
và rủi ro mong đợi, vì vậy đường cong hữu dụng của họ là một phương trình của tỷ suất sinh lợi mong đợi
và phương sai (độ lệch chuẩn) của tỷ suất sinh lợi. Với một mức độ rủi ro cho trước, các nhà đầu tư ưa thích
tỷ suất sinh lợi cao hơn là một tỷ suất sinh lợi thấp. Tương tự, với một mức tỷ suất sinh lợi mong đợi cho
trước, các nhà đầu tư lại thích ít rủi ro hơn là nhiều rủi ro. Markowitz đo lường rủi ro thông qua phương sai
hay độ lệch chuẩn với giả định tỷ suất sinh lợi được phân phối chuẩn.
❖ Lý thuyết lãi suất của Fisher
Lý thuyết lãi suất của Fisher rất cần thiết cho khuôn khổ nhằm mục tiêu lạm phát. Lý thuyết này là cơ sở
cho ý tưởng rằng chính sách tiền tệ nên chủ yếu tập trung vào việc quản lý kỳ vọng lạm phát trong nỗ lực
giữ lãi suất thực sự ổn định. Điều này nhằm mục đích thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư. Khái niệm đầu tư vốn
vào lý thuyết của Fisher có thể bắt nguồn từ sự ra đời của bản chất vốn và thu nhập (1906) và lãi suất (1907),
khái niệm này rất quan trọng trong lý thuyết của Fisher (1930). Giả định cơ bản của Fisher là tất cả vốn lưu
thông trong nền kinh tế và nó được sử dụng hết trong quá trình sản xuất. Do đó, với lãi suất thực tế cần
thiết, bất kỳ sự gia tăng (hoặc giảm) dự kiến nào về tỷ lệ lạm phát sẽ dẫn đến tăng (hoặc giảm) lãi suất danh
nghĩa thông qua chênh lệch giữa thu nhập tổng hợp trong tương lai và hiện tại. Do đó, nếu trong một giai
đoạn (t = 0) nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng việc làm đầy đủ mà không có lạm phát dự kiến, thì đột
nhiên trong giai đoạn (t = 1) ngân hàng trung ương dự kiến sẽ tăng nguồn cung tiền trong thời gian sao cho
có lạm phát dự kiến, thu nhập thực tế tổng hợp tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn số tiền thực dự kiến cần
được hoàn trả.
2.2 Tổng quan các nghiên cứu trước
Trên thế giới và tại Việt Nam vấn đề nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty đã
được nhiều tác giả thực hiện ở nhiều nền kinh tế và khu vực khác nhau trên thế giới. Dưới đây là phần tóm
lược nội dung của một số nghiên cứu về chủ đề này tại một số ngành.
❖ Lợi nhuận của công ty
Lợi nhuận của một công ty đo lường lợi nhuận của nó trong những năm hoạt động. Theo Bauer (2004) các
công ty có lợi nhuận cao hơn nên có đòn bẩy cao hơn cho thu nhập mà họ bảo vệ khỏi thuế. Nó giữ quan
điểm rằng nhiều công ty lợi nhuận nên tận dụng nhiều khoản nợ hơn một cách có chủ đích để phục vụ như
một biện pháp kỷ luật cho các nhà quản lý. Bằng chứng thực nghiệm từ các nghiên cứu trước đây cho thấy
mối quan hệ tiêu cực giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận Jordan & ctg (1998); Mishra & McConaughy (1999)
nhưng Petersen & Rajan (1994) đã báo cáo một mối quan hệ tích cực giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận.
❖ Tăng trưởng công ty
Tầm nhìn của các công ty để mở rộng trong tương lai đòi hỏi cam kết vốn lớn hơn đối với các quỹ được tạo
ra bởi các công ty, buộc họ phải đảm nhận tài chính nợ. Theo Marsh (1982) các công ty có mức tăng trưởng
cao sẽ nắm bắt tỷ lệ nợ tương đối cao hơn. Theo Myers (1977), các công ty có cơ hội tăng trưởng cao trong
tương lai nên sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu hơn trong tài chính của họ vì một công ty có đòn bẩy cao hơn
có khả năng bỏ qua các cơ hội đầu tư có lợi hơn. Một số nghiên cứu báo cáo mối quan hệ tích cực như
Kester (1986) trong khi các nghiên cứu khác cho thấy các công ty tăng trưởng cao hơn sử dụng ít nợ hơn
Stulz (1990); Rajan & Zingales (1995).
Các nghiên cứu của Diaz (2017) đối với 47 công ty bất động sản được niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Indonesia từ năm 2010 đến 2014 và Safarova (2010) đối với 76 công ty niêm yết trên Sàn giao dịch
chứng khoán New Zealand trong giai đoạn 1996-2007. Cả hai nghiên cứu đều cho thấy tốc độ tăng trưởng
doanh thu có tác động tích cực đối với lợi nhuận.
© 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 11
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
❖ Đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy có thể được đo lường và xác định theo nhiều cách như tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu bằng với nợ
dài hạn chia cho vốn chủ sở hữu của cổ đông phổ thông. Rajan & Zingales (1995) nói rằng định nghĩa về
đòn bẩy đặc biệt dựa trên mục tiêu của phân tích. Các biện pháp đòn bẩy khác bao gồm nợ trên tổng tài sản,
tổng nợ phải trả trên tổng tài sản, nợ đối với tài sản ròng và nợ vốn hóa. Nợ áp đặt nghĩa vụ cố định đối
với các công ty xảy ra bất kể doanh số bán hàng. Khi suy thoái kinh tế đại diện cho một giai đoạn giảm
doanh số nói chung, những công ty bán các mặt hàng không cần thiết có thể phải đối mặt với một hạn chế
đáng kể về doanh thu. Kết quả là nợ có thể gây rủi ro đáng kể cho công ty do khủng hoảng tài chính đi kèm.
Khi đòn bẩy của một công ty tăng lên, công ty có khả năng gặp khó khăn hơn. Theo Opler & Titman (1994),
các công ty có đòn bẩy thấp hơn đạt được thị phần lớn hơn cho các đối tác có đòn bẩy cao của họ. Điều này
có thể được giải thích vì các nhà đầu tư sẽ không muốn tham gia vào các công ty nhận ra tổn thất hoặc trải
qua khủng hoảng tài chính. Hơn nữa, Opler & Titman (1994) đã lập luận rằng các công ty mạnh hơn về tài
chính đặc biệt sử dụng những giai đoạn suy thoái công nghiệp này để tích cực chinh phục thị phần lớn hơn
của các công ty đối tác dễ bị tổn thương hơn của họ bằng cách tăng quảng cáo và giá cả chiến lược. Ngoài
ra, họ cho rằng các công ty có đòn bẩy cao và đầu tư đáng kể vào nghiên cứu và phát triển có xu hướng
chịu nhiều hơn và chịu rủi ro cao hơn trong thời kỳ suy thoái kinh tế.
Các nghiên cứu của Ahmad & ctg (2015) đối với 18 công ty sản xuất xi măng từ 2005 đến 2010; Safarova
(2010) trên thị trường chứng khoán New Zealand và Selcuk (2016) đối với 302 công ty Thổ Nhĩ Kỳ được
niêm yết trên thị trường chứng khoán Borsa Istanbul 2005 đến 2014. Các nghiên cứu này cho thấy đòn bẩy
tài chính có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận. Ngược lại với Ahmad & ctg (2015); Safarova (2010)
và Selcuk (2016), nghiên cứu của Burja (2011) đối với một công ty hóa chất Rumani từ năm 1999-2009
cho thấy đòn bẩy tài chính có tác động tích cực đối với lợi nhuận.
Tại Việt Nam các nghiên cứu của Trang (2020) trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và
thị trường chứng khoán Hà Nội; Toản (2016) trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; Hằng
& Linh (2020) đối với 27 công ty bất động sản niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn từ 2010 tới 2019; Vân và Nga (2018) đối với 42 công ty sản xuất vật liệu xây dựng
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2012- 2016; Ngọc & ctg (2020) đối với 20
công ty ngành dầu khí được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam với 100 quan sát từ năm 2014
đến 2018. Các nghiên cứu này đều cho thấy đòn bẩy tài chính có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận
của công ty.
❖ Quy mô công ty
Quy mô của một công ty đã được xem là một trong những đặc điểm cụ thể của nó xác định cấu trúc vốn
của nó. Về mặt lý thuyết, Bauer (2004) cho rằng ảnh hưởng của kích thước đối với đòn bẩy là không có.
Rajar & Zingales (1995) cho rằng: "Các công ty lớn hơn có xu hướng đa dạng hơn”. Nếu vậy, quy mô nên
có tác động tích cực đến nợ cung. Tuy nhiên, quy mô cũng có thể là một biến số cho thông tin mà các nhà
đầu tư bên ngoài có, điều này sẽ làm tăng ưu tiên của họ đối với vốn chủ sở hữu so với nợ". Mối quan hệ
giữa quy mô và cơ cấu vốn của một công ty đã được chứng minh theo kinh nghiệm là tích cực bởi một số
nghiên cứu như: Barclay & Smith (1996); Al-Sakran (2001). Các nghiên cứu cho thấy các công ty lớn hơn
có xu hướng sử dụng nợ trong khi những công ty nhỏ hơn có nhiều khả năng sử dụng vốn chủ sở hữu. Mối
quan hệ giữa quy mô công ty và tỷ lệ nợ dài hạn được tìm thấy là tích cực. Tuy nhiên, một mối quan hệ tiêu
cực tồn tại giữa quy mô và tỷ lệ nợ ngắn hạn trong các nghiên cứu của Caesar & Holmes (2003); Esperanca
& ctg (2003). Các công ty nhỏ hơn dường như sử dụng tài chính ngắn hạn hơn các công ty lớn hơn vì chi
phí giao dịch của họ khi họ phát hành nợ dài hạn hoặc vốn chủ sở hữu cao hơn. Tuy nhiên, Ferri & Jones
(1979) kết luận rằng quy mô công ty ảnh hưởng đến cơ cấu vốn doanh nghiệp nhưng không tích cực như
nó đã được đưa ra giả thuyết.
Các nghiên cứu của Diaz (2017) trên thị trường chứng khoán Indonesia; Bolek & ctg (2012) trên thị trường
chứng khoán Warsaw; Azhar & Ahmed (2019) đối với 10 công ty dệt may niêm yết hàng đầu trên Sàn giao
dịch chứng khoán Pakistan từ năm 2012 đến 2016; Selcuk (2016) trên thị trường chứng khoán Borsa
Istanbul và Safarova (2010) trên thị trường chứng khoán New Zealand. Các nghiên cứu này đều cho thấy
quy mô công ty có tác động tích cực đến lợi nhuận của công ty.
12 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
Tại Việt Nam các nghiên cứu của Toản (2016) và Hằng & Linh (2020) trên thị trường chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh; Vân và Nga (2018) và Ngọc & ctg (2020) trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Các
nghiên cứu này đều cho thấy quy mô công ty có tác động tích cực đến lợi nhuận của công ty. Ngược lại với
các nghiên cứu này, nghiên cứu của Trang (2020) trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và
thị trường chứng khoán Hà Nội cho thấy quy mô công ty có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận.
❖ Tỷ lệ thanh toán hiện hành
Tỷ lệ thanh toán hiện hành là tỷ lệ được sử dụng thường xuyên nhất Czekaj và Dresler (2001). Nó cung cấp
một cái nhìn chung về thanh khoản của công ty và là điểm khởi đầu của phân tích của nó. Nó xác định mức
độ tài sản hiện tại bao gồm các khoản nợ ngắn hạn. Nó xác định khả năng tiềm năng của một doanh nghiệp
để trả tất cả các khoản nợ hiện tại của mình thông qua thanh lý các nguồn lực sở hữu của tài sản hiện tại.
Giá trị của tỷ lệ càng cao, khả năng này càng cao.
Nghiên cứu của Diaz (2017) trên thị trường chứng khoán Indonesia cho thấy tỷ lệ thanh toán hiện hành có
tác động ngược chiều đối với lợi nhuận. Nghiên cứu của Trang (2020) trên thị trường chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh và thị trường chứng khoán Hà Nội cho thấy tỷ lệ thanh toán hiện hành có tác động tích
cực đối với lợi nhuận của công ty.
❖ Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Nghiên cứu của Bolek & ctg (2012) đối với 44 công ty ngành xây dựng được niêm yết Sở giao dịch chứng
khoán Warsaw trong giai đoạn 2000-2010. Nghiên cứu này cho thấy tốc độ tăng trưởng doanh thu có tác
động tích cực đến lợi nhuận của công ty. Tại Việt Nam các nghiên cứu của Trang (2020) đối với 55 công
ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh và Hà Nội trong giai đoạn 2010-2018
và Toản (2016) đối với 35 doanh nghiệp ngành bất động sản Việt Nam trong giai đoạn 2010-2014. Cả hai
nghiên cứu này đều cho thấy tốc độ kinh tế có tác động tích cực đối với lợi nhuận.
❖ Tỷ lệ lạm phát
Nghiên cứu của Odusanya & ctg (2018) đối với 114 công ty được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
Nigeria (NSE) từ năm 1998 đến 2012. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lạm phát có tác động ngược chiều đối với
lợi nhuận. Tại Việt Nam nghiên cứu của Trang (2020) trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh và thị
trường chứng khoán Hà Nội. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lạm phát có tác động tích cực đến lợi nhuận.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình nghiên cứu
Theo nghiên cứu trước đây, như một chỉ số về lợi nhuận, lợi nhuận trên tài sản (ROA) chủ yếu được sử
dụng. Các biến độc lập ảnh hưởng đến lợi nhuận của một công ty bao gồm tốc độ tăng trưởng doanh thu,
quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, tỷ lệ thanh toán hiện hành và tỷ lệ lạm phát. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng
kinh tế được thêm vào như một chỉ số về tình hình kinh tế vĩ mô và được dự đoán sẽ ảnh hưởng đến lợi
nhuận của các công ty bất động sản tại Việt Nam.
Do đó, mô hình nghiên cứu được ước tính bằng phương trình sau:
ROAi = β0 + β1GROWTHi + β2LEVi + β3SIZEi + β4CRi + β5GDPi + β6INFi + εi
Biến phụ thuộc:
• Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)
Các biến số độc lập bao gồm:
• Tốc độ tăng trưởng doanh thu (GROWTH)
• Đòn bẩy (LEV)
• Quy mô công ty (SIZE)
• Tỷ lệ thanh toán hiện hành (CR)
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
• Tỷ lệ lạm phát (INF)
© 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 13
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
Bảng 1: Thống kê các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu
Tên biến Ký hiệu Cách tính Dấu tác động Các tác giả nghiên cứu trước
Lợi nhuận trên ROA Lợi nhuận / Tổng tài
tổng tài sản sản
Tốc độ tăng GROWTH [Doanh thu của năm t - + Diaz (2017)
trưởng doanh thu Doanh thu của năm (t- Safarova (2010)
1)] / Doanh số của năm
(t-1)
Đòn bẩy tài chính LEV Tổng nợ / Tổng tài sản + Burja (2011)
- Ahmad & ctg (2015); Safarova
(2010); Selcuk (2016); Trang
(2020); Ngọc & ctg (2020); Hằng
& Linh (2020); Toản (2016); Vân
& Nga (2018)
Quy mô công ty SIZE Logarit (Tổng tài sản) + Diaz (2017); Safarova (2010);
Selcuk (2016); Bolek & ctg
(2012); Ngọc & ctg (2020); Hằng
& Linh (2020); Toản (2016)
- Trang (2020)
Tỷ lệ thanh toán CR Tài sản ngắn hạn/ Nợ + Trang (2020)
hiện hành ngắn hạn - Diaz (2017); Vân và Nga (2018)
Tốc độ tăng GDP Dữ liệu từ tổng cục + Bolek & ctg (2012); Trang
trưởng kinh tế thống kê (2020); Toản (2016)
Tỷ lệ lạm phát INF Dữ liệu từ tổng cục + Trang (2020)
thống kê - Odusanya & ctg (2018)
Lưu ý: (+) Thể hiện tác động cùng chiều; (-) Thể hiện tác động ngược chiều
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
3.2 Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán được công bố trên website của 30 công ty
bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh từ năm 2016 đến 2020. Dựa trên dữ liệu
thu thập được, nhóm tác giả đã tính toán ra được các biến dữ liệu khác nhau. Ngoài ra, dữ liệu về tốc độ
tăng trưởng kinh tế (GDP) và tỷ lệ lạm phát (INF) đã được thu thập Tổng cục thống kê của Việt Nam.
3.3 Các phương pháp hồi quy dữ liệu bảng và các kiểm định
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng sử dụng dữ liệu bảng, bao gồm phương pháp
bình phương nhỏ nhất (OLS), mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM).
Sau đó nghiên cứu sử dụng các kiểm định để chọn ra được mô hình phù hợp. Sau khi chọn được mô hình
nghiên cứu phù hợp sẽ kiểm tra các khuyết điểm có trong mô hình là phương sai thay đổi và hiện tượng tự
tương quan. Nếu trong trường hợp mô hình xảy ra các khuyết điểm, nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp
(GLS) để khắc phục.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Thống kê mô tả
Bảng 2: Kết quả thống kê các biến nghiên cứu
Biến Obs Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
ROA 150 0,0520849 0,0504649 -0,1227524 0,220912
GROWTH 150 0,7244384 2,895224 -0,9105565 24,67571
14 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
LEV 150 0,5751704 0,1615662 0,1922544 0,8429651
SIZE 150 15,92075 1,337187 13,40476 19,86588
CR 150 2,354981 1,73238 0,4999649 12,28338
GDP 150 0,06006 0,0158357 0,0291 0,0708
INF 150 0,03382 0,0082625 0,0231 0,0474
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm tác giả
Bảng 2 trình bày thống kê mô tả bao gồm giá trị trung bình, độ lệch chuẩn cũng như giá trị nhỏ nhất và giá
trị lớn nhất của các biến có trong mô hình. Bảng 2 cho thấy rằng tính trung bình các công ty trong mẫu có
lợi nhuận trên tổng tài sản khoảng 5%, tốc độ tăng trưởng doanh thu khoảng 7% mỗi năm, đòn bẩy tài chính
khoảng 5.7%, tỷ lệ thanh toán hiện hành khoảng 2.35%. Theo kết quả quan sát được lợi nhuận trên tổng tài
sản cao nhất là công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn (SGR) vào năm 2016, thấp nhất là công ty Cổ phần tập
đoàn Đại Dương (OGC) vào năm 2016. Tốc độ tăng trưởng doanh thu cao nhất là công ty Cổ phần đầu tư
Năm Bảy Bảy (NBB) vào năm 2017, thấp nhất là công ty Cổ phần đầu tư Phát triển Đô thị và Khu công
nghiệp Sông Đà (SJS) vào năm 2017. Đòn bẩy tài chính cao nhất là công ty Cổ phần Kinh doanh và phát
triển Bình Dương (TDC) vào năm 2017, thấp nhất là công ty Cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo
(ITA) vào năm 2020. Quy mô công ty cao nhất là Tập đoàn VINGROUP-CTCP (VIC) vào năm 2020, thấp
nhất là công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển nhà Đà Nẵng (NDN) vào năm 2016. Tỷ lệ thanh toán hiện hành
cao nhất là công ty Cổ phần Phát triển Hạ tầng Vĩnh Phúc (IDV) vào năm 2017, thấp nhất là công ty Cổ
phần Hoàng Anh Gia Lai (HAG) vào năm 2018. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất là vào năm 2018, thấp
nhất là vào năm 2020. Tỷ lệ lạm phát cao nhất là vào năm 2016, thấp nhất là vào năm 2020.
4.2 Ma trận tương quan
Bảng 3: Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu
ROA GROWTH LEV SIZE CR GDP INF
ROA 1,0000
GROWTH 0,1161 1,0000
LEV -0,1262 0,0292 1,0000
SIZE -0,2397 -0,0938 0,0937 1,0000
CR 0,2630 -0,0337 -0,1585 -0,3057 1,0000
GDP -0,0011 -0,0637 0,0187 -0,0582 0,0950 1,0000
INF -0,0895 0,0337 0,0066 -0,1198 0,1660 0,5054 1,0000
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm tác giả
Trong bảng 3, các biến độc lập LEV, SIZE, GDP và INF có tác động ngược chiều đối với ROA. Trong khi
đó, các biến độc lập khác có tác động cùng chiều với ROA. Hệ số tương quan lớn nhất trong mô hình là
(0.5054
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
SIZE 1,13 -0,00641** 0,00875 0,00647 -0,00537***
CR 1,15 0,00661*** 0,00426 0,0000878 0,000354
GDP 1,36 0,00227 0,00278 0,00255 0,00221***
INF 1,38 -0,01143** -0,00507 -0,00942** -0,00615***
Cons 0,176*** 0,0174 0,213** 0,179***
N 150 150 150 150
R2 0,141 0,155 0,117
Significance F(6, 143)= 3,91 F(6, 114)= 3,49 Wald chi2(6)= Wald chi2(6)=
16,50 49,00
Kiểm định White Chi2(26) = 43,80
Prob>chi2 = 0,0159
Kiểm định F(1, 29) = 12,923
Wooldridge Prob>F = 0,0012
Kiểm định Hausman Chi2(6) = 12,11
Prob>F = 0,0595
Kiểm Định F F(29, 114) = 6,57
Prob>F = 0,0000
Kiểm Định LM Chibar2(01) = 62,54
Prob>chibars = 0.0000
Lưu ý: *, ** và *** cho biết tầm quan trọng ở mức 10%, 5% và 1%
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm tác giả
Trong bảng 4, ta có thể thấy được hệ số phóng đại VIF của tất cả các biến đều nhỏ hơn 10 và giá trị trung
bình của VIF là 1.18 cho nên không xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến.
Với biến phụ thuộc là (ROA) sau khi dung phương pháp (GLS) khắc phục hiện tượng tự tương quan và
phương sai thay đổi kết quả hồi quy cho thấy rằng hệ số của đòn bẩy (LEV), quy mô công ty (SIZE) và tỷ
lệ lạm phát (INF) có tác động ngược chiều đối với biến phụ thuộc lợi nhuận (ROA), có ý nghĩa ở mức 1%.
Bên cạnh đó nghiên cứu tìm ra tác động cùng chiều của tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đối với lợi nhuận
(ROA) ở mức 1%. Trong khi đó với với kết quả thu được biến tăng trưởng công ty (GROWTH) và tỷ lệ
hiện tại (CR) không có tác động đối với biến lợi nhuận (ROA).
Kết quả này có thể được giải thích như sau:
Đòn bẩy (LEV) có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận (ROA) của các công ty bất động sản và có ý
nghĩa ở mức 1%. Kết quả này cũng được tìm thấy trong các nghiên cứu của Ahmad & ctg (2015); Safarova
(2010); Selcuk (2016); Trang (2020), Ngọc & ctg (2020); Hằng và Linh (2020); Toản (2016); Vân và Nga
(2018). Điều này cho thấy rằng các doanh nghiệp nào vay nợ nhiều sẽ gặp những khó khăn nhất định trong
việc tăng được lợi nhuận của công ty. Do đó, họ cần phải sử dụng các khoản vay một cách hiệu quả để cải
thiện lợi nhuận.
Quy mô công ty (SIZE) có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận (ROA) của các công ty bất động sản và
có ý nghĩa ở mức 1%. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Trang (2020). Kết quả này cho thấy rằng
việc tăng quy mô của các công ty có thể làm giảm đi lợi nhuận của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó kết quả
này trái ngược với những nghiên cứu của Diaz (2017); Safarova (2010); Selcuk (2016); Bolek & ctg (2012);
Ngọc & ctg (2020); Hằng và Linh (2020); Toản (2016) cho rằng quy mô công ty có tác động cùng chiều
đối với lợi nhuận.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) có tác động cùng chiều đối với lợi nhuận (ROA) của các công ty bất
động sản và nó có ý nghĩa ở mức 1%. Kết quả này giống với kết quả nghiên cứu của Bolek & ctg (2012);
Trang (2020). Điều này cho thấy rằng khi tốc độ tăng trưởng GDP tăng cho thấy rằng đời sống người dân
cũng được nâng cao, nhu cầu mua sắm hay xây dựng nhà cửa, các công trình BĐS được tăng lên. Từ đó
các doanh nghiệp ngành BĐS cũng sẽ kinh doanh thuận lợi, phát triển mạnh từ đó lợi nhuận của các doanh
nghiệp ngành BĐS cũng được tăng lên. Điều đó sẽ khuyến khích các công ty giải quyết hàng tồn kho của
họ và sau đó cải thiện lợi nhuận.
16 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
Tỷ lệ lạm phát (INF) có tác động ngược chiều với lợi nhuận (ROA) của các công ty bất động sản và tầm
quan trọng ở mức 1%. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Odusanya & ctg (2018). Điều
này cho thấy lạm phát cao có thể gây ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận của công ty.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Lợi nhuận là một chỉ báo quan trọng của việc lập báo cáo tài chính và cũng là một chỉ báo cho hiệu quả
hoạt động trong tương lai của công ty cũng như là một công cụ hữu ích cho việc xác định giá trị công ty.
Do đó, lợi nhuận của một công ty có tác động đáng kể đến quyết định của các bên liên quan, chẳng hạn như
cổ đông, trái chủ, ngân hàng, những nhà hoạch định chính sách, nhà cung cấp và các đối thủ cạnh tranh.
Công ty có lợi nhuận cao nếu thông tin trên báo cáo tài chính mô tả chính xác hiệu quả của hoạt động kinh
doanh. Nghiên cứu đã xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của 30 công ty bất động sản niêm yết
trên thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 2016-2020. Nghiên cứu này sử dụng mô
hình hồi quy tuyến tính bao gồm mô hình phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS), mô hình hiệu ứng cố
định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM). Bên cạnh đó các kiểm định Hausman cũng được thực
hiện nhằm chọn ra mô hình phù hợp giữa mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên
(REM) và sau đó phương pháp (GLS) cũng được sử dụng để khắc phục các khuyết điểm xuất hiện trong
mô hình. Theo kết quả, các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty là đòn bẩy, tăng trưởng kinh tế,
quy mô công ty và tỷ lệ lạm phát.
Trên cơ sở xác định các nhân tố tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp ngành BĐS ở Việt Nam, bài viết
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của các doanh nghiệp ngành BĐS niêm yết trên thị
trường chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE).
Kết quả cho thấy các yếu tố kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của các doanh nghiệp bất
động sản, vì vậy các cơ quan chức năng cần xây dựng các chính sách phù hợp để ổn định và cải thiện tình
hình kinh tế vĩ mô là tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát cụ thể. Các doanh nghiệp cần quan tâm mở rộng
quy mô doanh nghiệp, việc mở rộng quy mô làm cho doanh nghiệp tăng thị phần, có vị thế trên thị trường.
Các doanh nghiệp cần phải sử dụng các nguồn vốn vay một cách hợp lý để tránh gây ảnh hưởng đến lợi
nhuận của công ty.
Nghiên cứu này còn hạn chế về phạm vi nghiên cứu khi mới chỉ tập trung nghiên cứu vào các doanh nghiệp
BĐS niêm yết trên HOSE. Việc mở rộng phạm vi nghiên cứu sang các doanh nghiệp BĐS niêm yết trên Sở
giao dịch Chứng khoán Hà Nội, sẽ góp phần đưa lại những nhận định thực nghiệm bao quát hơn và có nhiều
ý nghĩa hơn trong việc xác định các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của phần lớn các doanh nghiệp BĐS
tại Việt Nam. Thêm vào đó, nghiên cứu này mới chỉ sử dụng chỉ tiêu đo lường là lợi nhuận trên tổng tài sản
(ROA) để đánh giá mức độ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp BĐS, thay vì sử dụng các chỉ tiêu khả
năng sinh lời khác của các doanh nghiệp BĐS như (ROE, ROS). Những nghiên cứu tiếp theo có thể sử
dụng các chỉ tiêu đó để có được cái nhìn đa dạng hơn về các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của các doanh
nghiệp BĐS trên thị trường Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Agustin, H., Indrastuti, S. & Tanjung, A. (2020) “The examining the capital structure determinants: empirical
analysis ofreal estate and property industry in Indonesia” Palarch’s Journal of Archaeology of Egypt/Egyptology
17(10), 320-327.
[2] Ahmad, N., Salman, A. & Shamsi, A. (2015) “Impact of Financial Leverage on Firms’ Profitability: An
Investigation from Cement Sector of Pakistan” Research Journal of Finance and Accounting Vol.6, No.7, 2015.
[3] Al-Sakran, S. (2001) “Leverage determinants in the absence of corporate tax system: the case of non- financial
publicly traded corporation in Saudi”
[4] Alshatti, A. (2015). “The Effect of the liquidity management on profitability in the Jordanian commercial banks”.
International Journal of Business and Management; Vol. 10, No. 1; 2015.
[5] Asmirantho, E. (2012) “Effect of Financial Fundamental Factors and Macroeconomics to Stock Return with
Implications on Corporate Value (Tobin's Q) Real Estate and Property Go Public in Indonesia”.
© 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 17
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
[6] Azhar, K. & Ahmed, N. (2019) “Relationship between firm size and profitability investigation from textile sector
of Pakistan” International Journal of Information, Business and Management, Vol. 11, No.2, 2019.
[7] Bauer, P. (2004) “Determinants of capital structure empirical Evidence from the Czech Republic” Czech Journal
of Economics and Finance.
[8] Binh, T. Q., Huong, V. T. T. và Loan, N. T. B. (2020) “Zombie companies experimental research from real estate
listed sectors” 2020, Vol. XXIX, N°5, 1360-1369.
[9] Bolek, M. & Wili'ski, W. (2012) “The influence of liquidity on profitability of Polish construction sector
companies” e-Finanse: Financial Internet Quarterly, ISSN 1734-039X, University of Information Technology
and Management, Rzeszów, Vol. 8, Iss. 1, pp. 38-52.
[10] Bradley, M., Jarell, G. & E. Han Kim. (1984) “On the existence of an optimal capital structure: Theory and
evidence” The Journal of Finance, 39: 857-80.
[11] Bùi Ngọc Toản (2016) “Tác động của chính sách vốn lưu động đến khả năng sinh lời trên tổng tài sản của các
doanh nghiệp ngành Bất động sản Việt Nam” Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học
Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 44 (2016): 18-27.
[12] Burja, C. (2011) “Factors Influencing The Companies Profitability” Annales Universitatis Apulensis Series
Oeconomica, 13(2), 2011.
[13] Caesar, G. & Holmes, S. (2003) “Capital Structure and Financing of SMEs: Australian Evidence”. Journal of
Accounting and Finance, 43: 123-147.
[14] Czekaj, J. & Dresler, Z. (2001). “Zarządzanie Finansami Przedsiębiorstw. Warszawa: Wydawnic- two Naukowe
PWN”.
[15] Diaz, T. & Hindro, M. (2017) “Factors Affecting the Profitability of Indonesian Real Estate Publicly-listed
Companies” Asian Journal of Finance & Accounting 2017, Vol. 9, No. 1
[16] Dương Thị Hồng Vân và Trần Phương Nga (2018) “Ảnh hưởng của quản trị vốn lưu động tới khả năng sinh lời
của doanh nghiệp: Bằng chứng từ các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng tại Việt Nam” Tạp chí Khoa học
& Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018.
[17] Esperanca, J., Ana, P. & Mohamed, A. (2003) “Corporate debt policy of small firms: An empirical
relexamination”. Journal of Small Business and Enterprise Development, 10(1): 62-80.
[18] Fama, F. & French, R. (2004) “The Capital Asset Pricing Model: Theory and Evidence” Journal of Economic
Perspectives—Volume 18, Number 3—Summer 2004—Pages 25–46.
[19] Ferri, M. & Jones, W. (1979). “Determinants of Financial Structures: A New Methodological Approach”. J.
Finance., 34(3): 631-644.
[20] Hang, D. T., Duong, P. T., Ha, N. T. & Hong, H. T. L. (2020) “Factors Affecting Financial Risk: Evidence from
Listed Enterprises in Vietnam” Journal of Asian Finance, Economics and Business Vol 7 No 9.
[21] Hung, D. N., Van, V. T. T., Xuan, N. T. & Ha, H. T. V. (2019) “Study the Impact of Growth, Firm Size, Capital
Structure, and Profitability on Enterprise Value: Evidence of Enterprises in Vietnam” The Journal of Corporate
Accounting & Finance / January 2019.
[22] Jordan, l., Lowe, J. & Taylor, P. (1998) “Strategy and Financial Policy in UK Small Firms”, Journal of Business
Finance & Accounting 25, 1-27.
[23] Kester, C. (1986) “Capital and ownership structure: a comparison of United States and Japanese manufacturing
corporations”. Finance Manage; 15:5-16.
[24] Laichena, K. & Obwogi, T. (2015) “Effects of macroeconomic variables on stock returns in the east african
community stock exchange market” International Journal of Education and Research Vol. 3 No. 10 October
2015.
18 © 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
- Hội nghị Khoa học trẻ lần 3 năm 2021 (YSC2021) – IUH
Ngày 06/8/2021 ISBN: 978-604-920-124-0
[25] Mishra, C. &. McConaughy. (1999) “Founding Family Control and Capital Structure Entrepreneurship” Theory
and Practice 23.4.
[26] Myers, S. (1977) “The Determinants of Corporate Borrowing”. Journal of Financial Economics 5, 147-175.
[27] Ngô Thị Hằng, Nguyễn Thị Thuỳ Linh (2020) “Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp
bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định” Tạp chí Khoa học & Đào
tạo Ngân hàng Số 223- Tháng 12. 2020.
[28] Ngô Thị Ngọc, Đinh Thị Thùy Linh và Nguyễn Thu Hà (2020) “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất
sinh lợi của các doanh nghiệp trong nhóm ngành dầu khí niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” Khoa
học Thương mại số 146/2020.
[29] Odusanya, I., Yinusa, O. & Ilo, B. (2018) “Determinants of Firm Profitability in Nigeria: Evidence from Dynamic
Panel Models” SPOUDAI Journal of Economics and Business, Vol.68 (2018), Issue 1, pp. 43-58
[30] Petersen, M. & Rajan, R. (1994) “The Benefits of Lending Relationship: Evidence from Small Business Data”.
Journal of Finance 49(1) (1994): 3-37.
[31] Rajan, R. & Zingales, L. (1995) “The Great Reversals. The Politics of Financial Developments in the 20th
Century”. National Bureau of Economic Research Working paper, 8178.
[32] Rajan, R. & Zingales, L. (1995) “The Great Reversals. The Politics of Financial Developments in the 20th
Century”. National Bureau of Economic Research Working paper, 8178.
[33] Renaldi, J., Pinem, D. & Permadhy, Y. (2020) “Analysis Of Factors Affecting the Value Of Manufacturing
Industry Companies in the Indonesian Stock Exchange (IDX)” EJBMR, European Journal of Business and
Management Research Vol. 5, No. 1, February 2020.
[34] Safarova, Y. (2010) “Factors That Determine Firm Performance of New Zealand Listed Companies”.
[35] Seissian, A., Gharios, T. & Awad, B. (2018) “Structural and market-related factors impacting profitability: A
cross sectional study of listed companies” arab economic and business journal 13 (2018) 125–133.
[36] Selcuk, E. (2016) “Does firm age affect profitability? Evidence from Turkey” international Journal of Economic
Sciences Vol. V, No. 3 / 2016 pp. 1-9.
[37] Setyowati, R., Masitoh, E. & Siddi, P. (2020) “Factors affecting the value of companies in the food and beverage
companies listed on BEI” Journal of Business, Management, and Accounting E-ISSN 2714-870X.
[38] Shari, T., Purohit, H. & Pillai, R. (2015) “Analysis of Factors Affecting Share Prices: The Case of Bahrain Stock
Exchange” International Journal of Economics and Finance; Vol. 7, No. 3; 2015.
[39] Simiyu, L. & Huo, X. (2013) “Factors Affecting Leveraging for Quoted Real Estate Development Companies in
China” International Journal of Economics and Finance; Vol. 5, No. 7; 2013.
[40] Stulz, R. (1990) “Managerial Discretion and Optimal Financing Policies”. Journal of Financial Economics, 26,
pp. 3-27.
[41] Stulz, R. (1990), “Managerial Discretion and Optimal Financing Policies”. Journal of Financial Economics, 26,
pp. 3-27.
[42] Susanti, N. & Restiana, N. (2018) “What’s the Best Factor to Determining Firm Value?” Jurnal Keuangan dan
Perbankan, 22(2):301–309, 2018.
[43] Trang, D. T. T. (2020) “Profitability of real estate firms: Evidence using GMM estimation” Management Science
Letters 10 (2020) 327–332.
[44] Vina, A., Kosasih, J., Susanto, K. & Astuty, F. (2019) “The Influence Of Cash Position, Debt To Asset Ratio
And Firm Size On Dividend Payout Ratio In Property And Real Estate Companies Listed On The Indonesia
Stock Exchange For The 2014-2018 Period”.
[45] Waluyo, W. (2017) “Firm Size, Firm Age, and Firm Growth on Corporate Social Responsibility in Indonesia:
The Case of Real Estate Companies” European Research Studies Journal Volume XX, Issue 4A, 2017.
© 2021 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 19
nguon tai.lieu . vn