Xem mẫu

  1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH GỬI CON ĐI DU HỌC CỦA PHỤ HUYNH: NGHIÊN CỨU PHỤ HUYNH VIỆT NAM Nguyễn Thị Anh Trường Cao đẳng Xây dựng Nam Định TÓM TẮT Cuộc khảo sát này được thực hiện nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định gửi con đi du học của phụ huynh tại Việt Nam. Một lý thuyết mở rộng về Hành vi lập kế hoạch (TPB) được áp dụng làm khung khái niệm cho nghiên cứu này. Đó là sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính bằng phỏng vấn sâu bán cấu trúc đối với phụ huynh học sinh đang có ý định gửi con đi du học tại các thành phố lớn, nơi có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tiền tố TPB, giá trị nhận thức và mong muốn ảnh hưởng tích cực đến ý định gửi con đi du học. Yếu tố rủi ro nhận thức có tác động tiêu cực đến việc đưa con em đi du học. Tuy nhiên, rủi ro về nhận thức không phải là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến ý định gửi con đi du học của phụ huynh Việt Nam. Từ khóa: Gửi con đi du học nước ngoài, giá trị nhận thức, mong muốn, lý thuyết hành vi có kế hoạch, phụ huynh học sinh Việt Nam. ABSTRACT: This survey is researched to find out about the factors that influence parents' intention to send their children to study abroad in Vietnam. An extended theory of Planning Behavior (TPB) is applied as a conceptual framework for this research. It is using qualitative research methods by semi-structured in-depth interviews with parents of students who have been intending to send their children to study abroad in big cities where the economics, social conditions are developed in the northern Vietnam. The results of the research show that: TPB prefixes, perceived values and desire positively affect the intention of send children to study abroad. The perceived risk factor has a negative impact on sending children to study abroad. However, perceived risk is not the most important factor affecting Vietnamese parents' intention to send their children to study abroad. Keywords: Send children to study abroad, perceived value, derise, theory of Planning Behavior, Vietnamese students' parents. 1. GIỚI THIỆU 1.1. Lý do nghiên cứu Giáo dục quốc tế đã và đang trở thành xu hướng giáo dục phát triển toàn cầu, Đối với một số quốc gia, quốc tế hóa giáo dục được coi trọng và rất được quan (Bodycott, 2009; Tran Le Huu Nghia, 2015; Zhuang và cộng sự, 2015). Du học sinh có nhiều đóng góp cho các cơ sở đào tạo quốc tế và nước sở tại, phát triển cơ sở vật chất kinh tế - xã hội và văn hóa. Vì vậy, việc tuyển dụng du học sinh đã trở thành một chiến lược quan trọng để duy trì sự phát triển ở các nước có nền kinh tế tri thức (Tran Le Huu Nghia, 2015). Số lượng sinh viên theo học tại các cơ sở nước ngoài ngày càng tăng, với sự gia tăng đáng kể số lượng sinh viên đến từ Đông Nam Á, trong đó châu Á đóng góp hơn một nửa tổng số sinh viên quốc 559
  2. tế. Trên thị trường toàn cầu và do đó, hành vi của sinh viên châu Á nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Mặt khác, do sự khác biệt lớn về điều kiện văn hóa, thể chế và kinh tế, cũng như trong các chương trình nghiên cứu được cung cấp ở nước ngoài, chủ đề giáo dục quốc tế có vẻ đầy hứa hẹn. với các nhà nghiên cứu tiềm năng ở châu Á (Tran Le Huu Nghia, 2015; Petzold và Moog, 2017). Đặc biệt, Việt Nam là quốc gia đang có nhiều chuyển mình về kinh tế, rất có ý thức đầu tư cho giáo dục. Đây là bối cảnh nghiên cứu hấp dẫn và cần được quan tâm nhiều hơn. Theo Schnusenberg và cộng sự (2012), việc áp dụng lý thuyết TPB vào lĩnh vực giáo dục quốc tế là khá mới. Đặc biệt, các ứng dụng trước đây của TPB đưa ra những mâu thuẫn. Presley và cộng sự (2010) cho biết, các tiêu chí chủ quan cho việc du học là dự đoán nhiều nhất về ý định tương ứng, trong khi thái độ đối với việc du học diễn ra. tác dụng yếu nhất. Ngược lại, Goel và cộng sự (2010); Schnusenberg và cộng sự (2012) đưa ra một mô hình mà ý định đi du học chỉ bị ảnh hưởng bởi thái độ đối với việc du học, trong khi việc kiểm soát các tiêu chuẩn và niềm tin vẫn tồn tại mà không có bất kỳ ảnh hưởng nào. Do đó, việc áp dụng TPB trong bối cảnh nghiên cứu ở nước ngoài là một lựa chọn mới và đáng cân nhắc để nghiên cứu và kiểm tra mức độ phù hợp của mô hình với bối cảnh nghiên cứu và xem xét những mâu thuẫn hiện có. các ứng dụng mô hình. Do đó, cần nghiên cứu ứng dụng lý thuyết TPB và giải thích mối quan hệ trung gian của mong muốn giữa thái độ, chuẩn mực chủ quan, hành vi chi phối nhận thức và ý định đưa con đi du học. Bổ sung vào lý thuyết TPB mở rộng và dựa vào kết quả kiểm tra để giải thích sự khác biệt giữa mong muốn và ý định. Ở Việt Nam, theo hiểu biết của tác giả, chưa có nghiên cứu khoa học nào về giáo dục quốc tế tập trung vào phụ huynh học sinh tại Việt Nam. Trong khi Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Khổng Tử, ý kiến của phụ huynh chi phối hành vi lựa chọn của con cái, trong đó có ý định đi du học. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định gửi con đi du học của phụ huynh: Nghiên cứu Phụ huynh Việt Nam” được thực hiện nhằm nâng cao hiểu biết về hành vi đưa con em ra nước ngoài học tập và lấp đầy lỗ hổng nghiên cứu về du học khi áp dụng mô hình TPB. Ngoài ra, nghiên cứu này góp phần hiểu rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng đến ý định gửi con đi du học của các bậc phụ huynh Việt Nam. 1.2. Các lý thuy t đ ợc vận dụng để nghiên cứu ý định du học Lý thuyết hành động hợp lý (Theory of reasoned action - TRA) Lý thuyết hành động hợp lý được đề xuất bởi Fishbein và jzen (1975) được sử dụng để dự đoán và tìm hiểu về hành vi của một cá nhân (Ajzen và Fishbein, 1980). Theo Puschel và cộng sự (2010), TR được xem là lăng kính lý thuyết dẫn đường cho các nghiên cứu tâm lý xã hội nói chung và hành vi khách hàng nói riêng. TRA giải định rằng: (1) con người đưa ra những quyết định dựa trên những thông tin có sẵn và (2) họ xem xét các kết quả có thể có trước khi chọn có hành động hay không và họ thường chọn thực hiện các hành động sẽ dẫn đến những kết quả họ mong muốn. Theo TR , ý định hành vi là dự đoán trước về hành vi thực tế của khách hàng. Do đó, các nhà nghiên cứu sử dụng lý thuyết hành động hợp lý (TR ) để nghiên cứu ý định hành vi thay vì nghiên cứu hành vi thực tế của họ. Hai yếu tố chính tạo nên lý thuyết này là thái độ và các chỉ tiêu chủ quan ảnh hưởng đến ý định của cá nhân để thực hiện hành động hoặc hành vi đó. Trong lý thuyết hành động hợp lý, thái độ đối với một hành vi bao gồm niềm tin hành vi và đánh giá kết quả của hành vi. Niềm tin hành vi là niềm tin cá nhân của cá nhân về hành vi hoặc hành động cụ thể, trong khi đánh giá kết quả là những gì họ thấy trước các kết quả hoặc kết quả của hành vi hoặc hành động. Sau đó, tiêu chuẩn 560
  3. chủ quan khám phá niềm tin và động lực quy định để tuân thủ. Niềm tin tiêu chuẩn được định nghĩa là niềm tin của cá nhân về những gì người khác xem xét về hành vi hoặc hành động và do đó ảnh hưởng đến việc họ thực hiện hoặc không thực hiện hành vi hoặc hành động cụ thể đó. Động lực để tuân thủ là sự sẵn lòng của người đó để thực hiện các kỳ vọng của người khác trong việc tiếp tục hành vi hoặc hành động. Kết quả là, tiêu chuẩn chủ quan của một người và thái độ đối với một hành vi hoặc hành động dẫn đến ý định hành vi của họ và thường dẫn đến hành vi hoặc hành động. Mô hình TR có điểm tương đồng với mô hình thái độ ba thành phần: nhận thức, cảm xúc và thành phần xu hướng nhưng trong TR ba thành phần này được sắp xếp theo thứ tự khác nhau và mô hình này giải thích chi tiết hơn vì thêm thành phần chuẩn mực chủ quan. TR đã được một số tác giả áp dụng trong nghiên cứu về hành vi khách hàng trong bối cảnh giáo dục quốc tế (BaileyShea, 2009; Phillips, 2014; Wang và cộng sự, 2016). Tuy nhiên, TRA bị gới hạn khi dự đoán việc thực hiện các hành vi của khách hàng khi mà họ không thể kiểm soát được bởi vì mô hình này bỏ qua tầm quan trọng của yếu tố xã hội mà trong thực tế có thể là một yếu tố quyết định đối với hành vi cá nhân (Grandon và Pearson, 2004). Đây là nguyên nhân dẫn đến một số tác giả phê phán mô hình nghiên cứu này. Lý thuyết hành vi có hoạch định (Theory of planned behavior - TPB) Lý thuyết hành vi có hoạch định (TPB) là một lý thuyết tâm lý - xã hội được áp dụng rộng rãi, giải thích cách cá nhân hình thành ý định và thực hiện hành vi (Ajzen, 1985). TPB là một phần mở rộng của lý thuyết hành động hợp lý (TRA) của Fishbein và Ajzen (1975) vào năm 1985 và được hoàn thiện vào năm 1991 ( jzen, 1991). TPB đã bổ sung thêm nhân tố nhận thức về kiểm soát hành vi vào mô hình để khắc phục hạn chế của TR khi thái độ đối với hành vi và chuẩn mực chủ quan không đủ để giải thích cho hành vi của khách hàng. Trong công bố của Fitzsimmons và cộng sự (2013) khi kiểm định cả hai mô hình TPB và mô hình TRA, cho thấy kết quả từ mô hình TPB giải thích và phản ánh tốt hơn hành vi khách hàng. Theo TPB ý định hành vi và nhận thức về kiểm soát hành vi của khách hàng tác động lên hành vi thực tế của họ. Trong đó, ý định hành vi của khách hàng chịu sự ảnh hưởng của ba nhân tố: (1) Thái độ đối với hành vi (Attitude toward the behavior - ATT): là tình cảm tích cực hay tiêu cực của cá nhân về việc thực hiện một hành vi cụ thể (Ajzen và Fishbein, 1980). (2) Chuẩn mực chủ quan (Subjective norm - SN): là nhận thức của cá nhân về những tác động xã hội để thực hiện hoặc không thực hiện hành vi (Ajzen, 1991). (3) Nhận thức về kiểm soát hành vi (Perceived behavioral control - PBC): là nhận thức của cá nhân về sự sẵn có các nguồn lực hay các cơ hội để thực hiện hành vi phản ánh mức độ dễ hay khó trong thực hiện hành vi (Ajzen, 1991). TPB đã được áp dụng thành công cho các nghiên cứu về mối quan hệ giữa niềm tin, thái độ, ý định hành vi và hành vi trong các lĩnh vực khác nhau như quảng cáo, quan hệ công chúng, công nghệ thông tin và chăm sóc sức khỏe và cả lĩnh vực giáo dục (Goel và cộng sự, 2010). Trong bối cảnh nghiên cứu hành vi du học nước ngoài, TPB được coi là một lý thuyết hợp lý và được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu trước (ví dụ: Goel và cộng sự, 2010; Presley và cộng sự, 2010; Petzold và Moog, 2017; Schnusenberg và cộng sự, 2012; Zhuang và cộng sự, 2015). Các kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng giải thích ý định mua của khách hàng thông qua mô hình lý thuyết này là đáng kể. Tuy nhiên, tầm quan trọng hay mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố tác động đến ý định hành vi là không hoàn toàn giống nhau trong những bối cảnh nghiên cứu hành vi khác nhau 561
  4. (Petzold và Moog, 2017). Do đó, theo jzen (1991) mô hình lý thuyết hành vi có hoạch định có thể bổ sung thêm các nhân tố mới ảnh hưởng đến ý định hành vi và giải thích cho ý định hành vi. Mục tiêu nghiên cứu của tác giả là tập trung tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định của phụ huynh khi cho con tham gia vào các chương trình nghiên cứu ở nước ngoài nên lý thuyết hành vi có hoạch định (TPB) được vận dụng làm cơ sở lý thuyết là phù hợp. Lý thuyết này đã được sử dụng rộng rãi để tìm hiểu các loại niềm tin khác nhau thúc đẩy ý định và hành vi thực tế (Armitage and Conner, 2001). Sau khi tổng quan các công trình nghiên cứu khoa học về hành vi, tác giả tin rằng các yếu tố của TPB đã được chứng minh là quan trọng trong bối cảnh nghiên cứu ở nước ngoài. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam, khi cảm nhận về giá trị (kỳ vọng của gia đình và người học, giá trị nhận thức được về việc đi du học) được xem là yếu tố thúc đẩy ý định đi/cho con đi du học, tác giả có bổ sung thêm yếu tố giá trị nhận thức và mong muốn vào mô hình TPB với mong muốn kiểm định khả năng giải thích tốt hơn cho ý định gửi con đi du học nước ngoài của các bậc phụ huynh học sinh. Giá trị nhận thức Giá trị nhận thức của khác hàng về một sản phẩm hay một dịch vụ nào đó là điều được các tổ chức và các doanh nghiệp quan tâm với mong muốn hiểu được khách hàng và mang lại giá trị cao nhất cho khách hàng của họ. Trong lĩnh vực nghiên cứu, nhận thức của khách hàng cũng được các nhà khoa học quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề này được sử dụng dưới nhiều thuật ngữ khác nhau như: giá trị cảm nhận của khách hàng, giá trị của người tiêu dùng, cảm nhận của khách hàng, nhận thức của khách hàng về một sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nào đó. Các nghiên cứu khoa học trước đây đã công nhận giá trị nhận thức của những người tham gia đóng một vai trò quan trọng trong việc hiểu các động lực của việc du học. Nhưng có rất ít nghiên cứu thực nghiệm, khái quát giá trị nhận thức trong nghiên cứu giáo dục quốc tế (Relyea và cộng sự, 2008). Vấn đề này cần được tìm hiểu thêm. Gần đây, một số nghiên cứu đã áp dụng TPB để điều tra ý định học tập và nghiên cứu của sinh viên ở nước ngoài; nhưng trước Zhuang và cộng sự (2015), chưa có nghiên cứu nào khảo sát vai trò của giá trị nhận có ý thức tham gia giáo dục quốc tế. Vì vậy, nhận thức về giá trị trong nghiên cứu ở nước ngoài đáng được xem xét nhiều hơn. Hơn nữa, cuộc khảo sát điều tra mối quan hệ này trong nghiên cứu của Zhuang được thực hiện ở Mỹ. Một đất nước có nhiều khác biệt về môi trường nghiên cứu đối với Việt Nam cả về kinh tế, văn hóa và chính trị, vì vậy giá trị cảm nhận của phụ huynh học sinh Việt Nam đối với ý định cho con em mình đi du học là rất cao. Tác giả đề xuất đưa yếu tố giá trị nhận thức vào mô hình nghiên cứu với giả thuyết giá trị nhận thức ảnh hưởng đến ý định gửi con đi du học của phụ huynh. Mong muốn Một khái niệm khác về mong muốn được sử dụng rất phổ biến của Shaw và cộng sự (2000) như sau: Mong muốn thể hiện định hướng tương lai của một người hướng tới một hành động. Gần như các nhà nghiên cứu đều thống nhất mong muốn và ý định hành vi là hai khái niệm phân biệt (Perugini và Prestwich, 2007). Tuy vậy, mong muốn và sự thoả mãn của khách hàng mối liên kết chặt chẽ với nhau (Prestwich và cộng sự, 2008). Trong một nghiên cứu của Shaw và cộng sự (2007) phải phác thảo 4 điều kiện để xác định mối quan hệ trung gian của mong muốn giữa các tiền đề TPB (thái độ, tiêu chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức) và ý định như sau: (1) Các biến dự báo (thái độ, tiêu chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức) tác động đáng kể đến yếu tố hòa giải (mong muốn) theo hướng mong đợi. 562
  5. (2) Yếu tố hòa giải (mong muốn) tác động đáng kể đến cấu trúc phụ thuộc (ý định) theo hướng mong đợi. (3) Các biến dự báo (thái độ, tiêu chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức) tác động đáng kể đến cấu trúc phụ thuộc (ý định) theo hướng mong đợi. (4) Hiệu quả của thái độ, tiêu chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Kết quả cho thấy mô hình trung gian sau đây (xem Hình 1.7) giải thích nhiều nhất mối quan hệ giữa các tiền đề TPB, mong muốn và ý định hành vi hiệu quả nhất trong nghiên cứu của Shaw và cộng sự (2007). Kiểm tra mô hình trung gian cho thấy thái độ, tiêu chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi tác động đáng kể đến mong muốn, và mong muốn tác động đáng kể đến ý định. Hơn nữa, trọng số hồi quy cho ba tiền đề này đều dương tính như mong đợi, các giả thuyết đều được hỗ trợ, sự phù hợp của mô hình này là đầy đủ. 2. PHƯƠNG PHÁP Theo tìm hiểu của tác giả, ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về tác động của giá trị nhận thức và mong muốn đi du học nước ngoài của cha mẹ. Vì vậy, tác giả sử dụng nghiên cứu định tính để phát hiện ra các nhân tố mới, điều chỉnh và bổ sung các biến quan sát dùng để đo lường các khái niệm nghiên cứu. Kỹ thuật phỏng vấn sâu được sử dụng để thực hiện nghiên cứu này, với một bản nội dung bao gồm các câu hỏi mở đã được chuẩn bị trước. Buổi phỏng vấn diễn ra giữa người phỏng vấn và người được phỏng vấn là các bậc phụ huynh đã cho con em mình đi du học năm 2017, 2018 và đang có ý định và chuẩn bị cho con em mình đi du học trong năm 2018, 2019. Mẫu nghiên cứu Trước tiên tác giả phỏng vấn 6 phụ huynh học sinh, trong đó: 2 phụ huynh đã gửi con đi du học nước ngoài trong năm 2017 và 2018, 4 phụ huynh đã đăng ký cho con học ngoại ngữ tại các trung tâm du học nước ngoài và dự kiến sẽ nhập học vào cuối năm 2018 và đầu năm 2019. 06 đối tượng này được lựa chọn kỹ càng theo các tiêu chí về giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, mức thu nhập để đảm bảo tính đại diện được tham gia vào phóng vấn sâu. Thông tin về của các phụ huynh học sinh được mời tham gia phỏng vấn sâu thể hiện trong Bảng 1.1 như sau: Bảng 1.1: Thông tin về đối t ợng điều tra Đối tƣợng ĐT1 ĐT2 ĐT3 ĐT4 ĐT5 ĐT6 Giới tính Nam Nam Nữ Nữ Nam Nữ Đ tu i 45 50 38 40 55 52 Tr nh đ h c vấn THPT ĐH ĐH Sau ĐH Sau ĐH Sau ĐH Nghề nghiệp Kinh doanh Kỹ sư X y Nhân viên Giảng Cán b quản Cán b t do d ng v n phòng viên lý quản lý Thu nhập h gia đ nh (tr. đ tháng) 50 55 30 40 60 50 ơi sinh sống hiện t i A ĐỊNH A ĐỊNH HẢI PHÒNG HÀ NỘI HẢI PHÒNG HÀ NỘI Ngu n: Tổng hợp của tác giả Bên cạnh đó tác giả cũng lấy ý kiến từ của 04 giảng viên đại học bộ môn Marketing tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Thái Nguyên và Đại học Công nghiệp Hà Nội. 563
  6. Là một nghiên cứu bổ sung, hỗ trợ cho nghiên cứu khảo sát, với mục tiêu xây dựng bảng hỏi nên tổng mẫu cho nghiên cứu định tính không cần quá lớn. Với 06 phụ huynh học sinh và 04 chuyên gia thì đã đạt được yêu cầu đề ra và bão hoà về mặt thông tin thu thập được. Nội dung cuộc phỏng vấn Các cuộc phỏng vấn được thực hiện dưới hình thức phỏng vấn bán cấu trúc theo nội dung được chuẩn bị trước nhưng các câu hỏi và kế hoạch phỏng vấn không nhất thiết phải tuân thủ một trình tự chặt chẽ, có thể có các câu hỏi dẫn, và thứ tự các câu hỏi có thể thay đổi. Tác giả xây dựng bảng hướng dẫn câu hỏi phỏng vấn nhằm đảm bảo lượng thông tin thu thập được tập trung, đầy đủ và phù hợp với trọng tâm nghiên cứu. Về cơ bản, trọng tâm của cuộc phỏng vấn xoay quanh 3 vấn đề chính: Thứ nhất là: Các câu hỏi mở nhằm tìm hiểu về ý định gửi con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh. Tiếp theo là: Các câu hỏi mở về các yếu tố ảnh hưởng đến hành ý định gửi con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh. Cuối cùng là: Đánh giá độ phù hợp của thang đo các biến trong mô hình. Thu thập và xử lý thông tin Đối với các đối tượng được phỏng vấn tại Nam Định và Hà Nội được thực hiện bằng cách phỏng vấn trực tiếp (mặt đối mặt), còn các đối tượng được phỏng vấn tại Hải Phòng được tác giả thực hiện phỏng vấn qua Internet (Video chat). Thời gian cho mỗi cuộc phỏng vấn có thể kéo dài từ 30 - 45 phút, có thể thực hiện tại văn phòng hoặc một địa điểm hẹn trước tuỳ theo ý muốn của đối tượng phỏng vấn. Toàn bộ nội dung phỏng vấn được ghi chép đầy đủ và ghi âm (nếu đối tượng phỏng vấn cho phép). Các cuộc phỏng vấn được tác giả tiến hành gỡ băng ghi âm cho mỗi cuộc phỏng vấn dưới dạng văn bản. Tiếp theo tác giả lập một Profile dữ liệu tổng hợp ý kiến từ các đối tượng phỏng vấn theo từng nội dung và được lưu lại. Từ đó, tác giả so sánh các ý kiến, quan điểm từ các đối tượng phỏng vấn với nhau để tìm ra những điểm giống nhau, khác nhau và đưa ra kết luận để đề xuất mô hình thông qua ma trận phân tích. 3. KẾT QUẢ Kết quả nghiên cứu định tính với 6 đối tượng phỏng vấn đã được lựa chọn kỹ lưỡng để đảm bảo chất lượng thông tin thu thập được cho thấy về cơ bản mô hình lý thuyết tác giả đề xuất là phù hợp với bối cảnh nghiên cứu. Tuy nhiên, có một yếu tố mới được phát hiện mà hầu hết các phụ huynh được phỏng vấn đều đề cập đến: nhận thức của họ về những rủi ro khi cho con đi du học hay tiếp tục học trong nước. Ngoài ra, ý định đưa con đi du học nước ngoài cũng được làm rõ để phục vụ cho việc thiết kế bảng câu hỏi. Các yếu tố nhận thức rủi ro sẽ được tác giả đưa vào mô hình nghiên cứu. 3.1. Thái độ đối với hành vi Đây là chủ đề mà hầu hết các đối tượng phỏng vấn đều nói về việc cho con đi du học là một việc làm tích cực. Họ cảm thấy việc cho con đi du học là một lựa chọn đúng đắn, mang lại nhiều lợi ích cho con cái họ sau khi tốt nghiệp ở một đất nước phát triển hơn. Cụ thể, kết quả được tổng hợp: Con cái bạn bè tôi đi du học nhiều, sau này về Việt Nam làm việc nhưng có cơ hội hơn, tự tin hơn. (ĐT1) 564
  7. Tôi nghĩ xu hướng thôi, khi nền giáo dục trong nước còn nhiều bất cập thì việc cho con đi du học là điều nên làm. Bên cạnh đó, tôi nghĩ rằng du học không còn đắt đỏ như trước nữa. (ĐT3) Du học là đam mê của mình, mình đã bỏ lỡ cơ hội từ khi còn nhỏ, nhìn sự phát triển của các bạn, mình nghĩ thật là tốt. Đó là lý do tôi muốn anh ấy đi du học sớm. (ĐT4) Con trai lớn của tôi đã đi du học Pháp cách đây hai năm và giờ tôi thấy cháu rất tự lập và có ý thức về bản thân… Đến bây giờ tôi hoàn toàn hài lòng với quyết định này. (ĐT5) Qua kết quả nghiên cứu định tính có thể thấy thái độ đối với việc gửi con đi du học có ảnh hưởng tích cực tới ý định gửi con đi du học của các bậc phụ huynh Việt Nam. Bởi họ tự tin rằng việc gửi con đi du học nước ngoài là những việc nên làm, mang lại nhiều lợi ích cho con trẻ và sự danh tiếng của gia đình. 3.2. Chuẩn mực chủ quan Theo Ajzen và Fishbein (1980), các chuẩn mực chủ quan là nhận thức của một cá nhân về các tác động xã hội đến hành vi hoặc không. Khi được hỏi về chủ đề này, hầu hết các đại biểu đều cho biết họ phải chịu áp lực xã hội khi cho con đi du học. Kết quả được hiển thị như sau: Bạn tôi nghĩ rằng tôi đưa con đi Singapore. (ĐT1) Cách giáo dục của phụ huynh Hàn Quốc ảnh hưởng đến quyết định cho con đi du học ... Gia đình, ông bà và mọi người đều đ ng tình với ý kiến của chúng tôi. (ĐT2) Người thân của tôi đang sống ở Canada, cô ấy khuyên tôi nên sớm đưa con đi du học. (ĐT4) Có lẽ bản thân tôi đã là một minh chứng cho một sinh viên Việt Nam. Nên không khó để nhận được sự ủng hộ của mọi người… Bạn bè tôi cũng cho rằng điều đó là phù hợp. (ĐT6) Kết quả tổng hợp từ nghiên cứu định tính cho thấy việc gửi con đi du học của phụ huynh Việt Nam chịu nhiều áp lực xã hội. Vì tại Việt Nam, việc sớm gửi con đi du học nước ngoài đang trở thành xu hướng và những gia đình có con đi du học nước ngoài được cho là những gia đình thành đạt, và có tài chính ổn định, là niềm tự hào của con trẻ, phụ huynh đối với xã hội. 3.3. Nhận thức về kiểm soát hành vi Được phỏng vấn về chủ đề này, hầu hết những người được hỏi đều nói rằng họ có thể kiểm soát được hành vi của mình. Họ không gặp khó khăn gì trong việc tìm kiếm thông tin và cho con đi du học. Một số người được phỏng vấn cho biết: Thông tin không thiếu, tôi nghĩ trong thời buổi này, tìm kiếm thông tin không khó ... Ngu n thông tin chủ yếu là từ internet, các trung tâm tư vấn du học và bạn bè. (ĐT1) Tôi chọn cho con đi du học Hàn Quốc vì tôi đã ở đó. Tôi vẫn thường xuyên liên lạc với bố mẹ nuôi người Hàn Quốc… Đã là thời đại 4.0 r i nên việc lấy thông tin không quá khó. (ĐT2) Hai đứa đi du học cũng khá tốn kém nhưng lo được ... Thông tin chủ yếu do con trai tôi cung cấp nên rất tin tưởng. (ĐT5) Kết quảnghiên cứu định tính cũng cho thấy mức độ ảnh hưởng của nhận thức về kiểm soát hành vi đến ý định gửi con đi du học là đáng kể. Và các bậc phụ huynh Việt Nam khá chủ động trong việc cập nhật thông tin về du học nước ngoài, và đã có sự chuẩn bị về tài chính từ trước khi cho con đi du học. 565
  8. 3.4. Giá trị nhận thức Hầu hết các bậc phụ huynh tham gia phỏng vấn đều đánh giá tích cực lợi ích của việc cho con em mình đi du học. Họ cho rằng đi du lịch nước ngoài mang lại cho con em nhiều cơ hội, lợi thế cạnh tranh về việc làm sau khi tốt nghiệp, được giao lưu, học hỏi từ bạn bè quốc tế... Một số kết quả nghiên cứu như: Cơ hội việc làm Tôi nghĩ vậy. Doanh nghiệp thường có ấn tượng tốt với bằng cấp quốc tế… Họ sẽ sớm tự lập và bản lĩnh hơn trong cuộc sống sau này. (ĐT1) Tiếp xúc với môi trường giáo dục tiên tiến, có cơ hội phát triển nghề nghiệp trong tương lai. Tôi thích đi du lịch nên tôi nghĩ du học cũng là cơ hội để trải nghiệm một nền văn hóa mới, ở một đất nước khác. (ĐT3) Tăng khả năng thích ứng với môi trường xung quanh… Học hỏi được nhiều điều từ một nền giáo dục tiên tiến… Cơ hội định cư và làm việc tại nước ngoài. (ĐT4) Với những lợi ích đáng kể mà các bậc phụ huynh cảm nhận được từ du học nước ngoài có ảnh hưởng tích cực đến ý định gửi con đi du học của họ. 3.5. Mong muốn Theo Shaw và cộng sự (2000), mong muốn là định hướng tương lai của các bậc phụ huynh khi cho con em mình đi du học. Đối với những phụ huynh tham gia phỏng vấn, những giá trị cảm nhận của họ có ảnh hưởng tích cực đến ý định cho con ra nước ngoài của họ. Điều này được thể hiện qua kết quả phỏng vấn sau: Gia đình tôi rất mong chờ kết quả thi tiếng Anh của cháu. Chúng tôi hy vọng cô ấy sẽ hoàn thành các thủ tục và bắt đầu nhập học vào đầu năm sau. (ĐT1) Đó là mong muốn của tôi ngay sau khi được tiếp xúc với một đất nước phát triển như Hàn Quốc. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định của tôi khi cho con đi du học. (ĐT2) Tôi đang mong chờ từng ngày được nhìn con gái thực hiện ước mơ còn dang dở. (ĐT4) Mong muốn về một nền giáo dục văn minh thôi thúc tôi tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cháu đi du học. (ĐT5) Gia đình tôi rất phấn khởi khi đưa cháu nhập học. (ĐT6) Du học nước ngoài không chỉ là ước mơ của các bạn trẻ mà cũng có thể là ước mơ dang dở mà chưa thực hiện được của các bậc phụ huynh, hoặc cũng có thể là những kinh nghiệm từ bản thân, bạn bè, người thân về du học nước ngoài. Chính vì thế, mong muốn có của các bậc phụ huynh về du học nước ngoài có ảnh hưởng đáng kể đến ý định gửi con đi du học. 3.6. Nhận thức rủi ro Theo Dowling và Staelin (1994), rủi ro nhận thức là sự không chắc chắn hoặc kết quả tiêu cực khi mua một sản phẩm hoặc dịch vụ. Lepp và Gibson (2003) định nghĩa rõ ràng hơn: Nhận thức rủi ro là sự thể hiện thái độ tiêu cực của một người đối với điều gì đó khiến họ cảm thấy e ngại, do dự và tâm lý sợ hãi, hạn chế tiếp xúc với đối tượng đó. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng rủi ro được nhận thức có tác động tiêu cực đến sự hài lòng của khách hàng (Chen và Li, 2007) và ý định của người tiêu dùng (Grewal và cộng sự, 2007). Trong nghiên cứu về ý định gửi con đi du học, nhận thức về rủi ro được hiểu là những cảm giác, suy nghĩ hoặc nhận thức tiêu cực liên quan đến việc du học. 566
  9. “Có lẽ khoảng cách về địa lý là thứ mà tôi lo lắng nhất. Chi phí chỉ là một chuyện nhưng còn thời gian, đâu phải lúc nào mình muốn là cũng có thể đi ngay được. Vợ tôi thì ổn nhưng bà nội của cháu thì rất lo lắng. Mẹ tôi muốn cho cháu học và làm việc tại Việt Nam sau này về kinh doanh cho bố mẹ, cuộc sống cũng rất ổn. Không phải lúc nào mình cũng có thể chia s với chúng khi chúng đi du học”. Phụ huynh học sinh đang kinh doanh tại Thành phố Nam Định “Trong thông báo tuyển sinh du học Hàn Quốc mà tôi nhận được có những thông tin viết rất chung chung, tôi không thích điều này. Tôi cần mọi thứ phải rõ ràng hơn. Những điều còn hoài nghi tôi đã phúc đáp qua trung tâm tư vấn du học và đang chờ sự phản h i của họ. Hơn nữa khi cháu đi du học chúng tôi không thể lúc nào cũng ở bên để chia s và động viên con. Mặc dù, đã có công nghệ nhưng nó không thể thay thế được tất cả”. Phụ huynh học sinh là một kỹ sư xây dựng tại Nam Định “Trong gia đình tôi là người quyết định cho con đi du học sớm. Nhưng mọi ý định của tôi đều không xuất phát từ kinh nghiệm của bản thân, tôi là nhân viên văn phòng học cũng bình thường nên việc đầu cho con là tôi theo trào lưu. Suy nghĩ của tôi bị ảnh hưởng nhiều bởi bạn bè đó là điều tôi lo lắng. Vì thực tế tôi không biết trước được kết quả sẽ như thế nào. Tất cả đều là sự phỏng đoán của cá nhân”. Phụ huynh học sinh là nhân viên văn phòng tại Thành phố Hải Phòng “Du học nước ngoài mang lại niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn cho con cái của chúng tôi. Tuy nhiên, là các bậc phụ huynh chúng tôi cũng còn nhiều điều trăn trở lắm. Điều tôi lo lắng nhất vẫn là sự xa cách giữa hai đất nước. Tôi không thể thường xuyên ở bên, chăm sóc cho con; nhất là khi có sự cố tâm lý, sức khoẻ đối với cháu. Môi trường sống thay đổi, không biết có ảnh hưởng nhiều không? Khi nào bọn nhỏ mới thích nghi được? Con tôi bị xoang nên tôi lo lắng về điều này”. Phụ huynh học sinh là giảng viên tại Hà Nội “Có anh trai cháu đang du học bên đó r i (Pháp) tôi rất tin tưởng và yên tâm. Mặc dù vậy, tôi vẫn lo sợ những tình huống bất ngờ xảy ra khi cho các cháu tự lập và mình không thể ở gần bọn tr . Thời gian vừa qua, như bạn biết đấy, các vụ khủng bố đẫm máu tại Pháp làm tôi lo lắng”. Phụ huynh học sinh là cán bộ quản lý tại Thành phố Hải Phòng “Việc sinh viên du học bị hành hung và giết hại, đặc biệt là vấn nạn xâm hại tình dục đã trở nên vô cùng phổ biến. Phải đương đầu mọi việc ở nơi xứ người, không có người thân bên cạnh có thể làm các bạn tr trở nên yếu đuối và rơi vào trạng thái trầm cảm. Thiếu đi điểm tựa sẽ đẩy các con dễ rơi vào cạm bẫy của k xấu và dễ dàng bị lợi dụng hơn. Điều này khiến tôi hoang mang khi lựa chọn cho con đi du học”. Phụ huynh học sinh là cán bộ quả lý tại Thành phố Hà Nội Ngoài kết quả từ các cuộc phỏng vấn, tác giả cũng xem xét các tài liệu về nhận thức về các rủi ro của giáo dục quốc tế đã nghiên cứu trước đây. Theo Relyea và cộng sự (2008), việc xác định các yếu tố rủi ro liên quan đến ý định đi du học là rủi ro liên quan đến trải nghiệm không chắc chắn. Một số kết quả nghiên cứu khác cũng cho thấy rủi ro xa gia đình, gia đình và người thân ảnh hưởng đến khả năng du học (Luethge, 2004); Nỗi sợ không biết cũng ảnh hưởng tiêu cực đến ý định đi du học (Mueller, 2008). Những người không thích rủi ro hoặc nhận thức quá rõ về 567
  10. rủi ro của họ sẽ có tác động tiêu cực đến khả năng tham gia chương trình nghiên cứu ở nước ngoài của họ (Janice et al., 2012). Qua phân tích trên, tác giả cho rằng nhận thức về rủi ro có tác động đến ý định gửi con đi du học của mình. Cha mẹ nào nhận thức được mức độ rủi ro càng cao thì khả năng con họ đi du học càng thấp vì họ bị ảnh hưởng bởi những rủi ro đó. Và ngược lại, những người cảm thấy rủi ro thấp sẽ tin tưởng hơn vào sự lựa chọn của mình khi cho con đi du học. Như vậy, nhận thức về rủi ro có tác động tiêu cực đến ý định gửi con đi du học nước ngoài. 4. KẾT LUẬN VÀ THẢO LUẬN 4.1. Thảo luận Ảnh hưởng của thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức về kiểm soát hành vi đối với giá trị cảm nhận Theo Ajzen (1991), có hai loại thái độ khác nhau: (1) thái độ đối với đồ vật, (2) thái độ đối với hành vi. Trong nghiên cứu này, tác giả đề cập đến thái độ đối với hành vi. Thái độ của khách hàng ảnh hưởng đến ý định thực hiện hành vi của họ (Fishbein và Ajzen, 1975; Ajzen, 1991). Trong bối cảnh nghiên cứu có ý định đi du học, thái độ đề cập đến cảm nhận tốt hay xấu của khách hàng về việc du học. Thái độ được liên kết với mục tiêu cá nhân của một cá nhân, và việc xem xét hậu quả của một hành vi cụ thể sẽ giúp đạt được những mục tiêu đó. Trong bối cảnh của các chương trình học tập ở nước ngoài, thái độ được hiểu là tầm quan trọng của nghiên cứu nước ngoài đối với mục tiêu nghề nghiệp, hoặc đối với sự phát triển cá nhân hoặc mục tiêu cá nhân (Goel và cộng sự, 2010). Trong một nghiên cứu của Maringe và Carter (2007) tập trung vào một mẫu nhỏ gồm 28 sinh viên châu Phi theo học các chương trình giáo dục đại học tại Vương quốc Anh. Tập trung vào các nhóm sinh viên châu Phi tại hai trường đại học ở Vương quốc Anh, các tác giả kết luận rằng sinh viên châu Phi đến học tập tại Vương quốc Anh với hứa hẹn về một nền giáo dục quốc tế hàng đầu. Theo Zhuang và cộng sự (2015), một sinh viên đã tham gia học tập ở nước ngoài vì họ nhận thấy lợi ích mà kinh nghiệm quốc tế là quan trọng cho sự nghiệp của họ. Điều này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu định tính của tác giả, khi người được hỏi cho biết ý định gửi con đi du học của họ chịu nhiều ảnh hưởng từ các tiền đề TPB (thái độ, chuẩn mực chủ quan, nhận thức về kiểm soát hành vi). Ảnh hưởng của thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức về kiểm soát hành vi đối với mong muốn Theo nghiên cứu của Shaw et al. (2007), ba yếu tố tiên quyết trong mô hình TPB bao gồm thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức hành vi đều được kiểm tra để có tác động tích cực đến mong muốn. Sử dụng mô hình TPB mở rộng, một số nhà nghiên cứu đã xác định lại thái độ ảnh hưởng đến ý định của hành vi gián tiếp thông qua mong muốn (Baker và cộng sự, 2007; Cheng và cộng sự, 2006; Lee và cộng sự, 2012; Leone và cộng sự, 2004; Perugini và Bagozzi, 2001; Prestwich và cộng sự, 2008). Tuy nhiên, về lĩnh vực dự định đi du học thì trước đây chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu về mối quan hệ này. Ở Việt Nam, phụ huynh muốn con cái tham gia chương trình du học nếu họ coi trọng lợi ích nhận được ngoài các chi phí liên quan. Ví dụ như nâng cao khả năng ngoại ngữ, giá trị của bằng cấp quốc tế so với chi phí đắt đỏ. Điều này cho thấy thái độ của phụ huynh Việt Nam có ảnh hưởng tích cực đến mong muốn cho con đi du học. 568
  11. Phụ huynh Việt Nam sẽ hối thúc cho con đi du học nếu nhận được lời khuyên, gợi ý từ người thân, bạn bè. Những người đã có kinh nghiệm đi du học hoặc có con cái, người thân đi du học hoặc có những trải nghiệm thú vị, hấp dẫn từ các nước. Phụ huynh của học sinh Việt Nam là những người trưởng thành và biết suy nghĩ, đối với một hành vi mục tiêu, họ biết mình định làm gì và làm như thế nào. Trong bối cảnh du học nước ngoài, các bậc cha mẹ dễ kiểm soát hành vi hơn. Họ là người đóng học phí và hỗ trợ con cái theo đuổi con đường du học, với sự thấu hiểu của cha mẹ, họ dễ dàng tìm kiếm và trao đổi thông tin du học hơn con cái, có khả năng kiểm soát tài chính (Schnusenberg et al., 2012) nên họ có nhiều khả năng cho con cái đi du học hơn. Nhận thức về kiểm soát hành vi của phụ huynh đối với việc cho con đi du học ảnh hưởng tích cực đến mong muốn của họ. Tác động của giá trị nhận thức đến ý định đi gửi con đi du học Trong bối cảnh các chương trình du học quốc tế, phụ huynh Việt Nam sẽ muốn con mình tham gia một chương trình du học nếu cá nhân đó tin rằng việc tham gia trải nghiệm quốc tế sẽ mang lại kết quả thuận lợi từ việc đạt được lợi thế cạnh tranh trên thị trường việc làm, thăng tiến sự nghiệp của bạn với tốc độ nhanh hơn. Điều này cũng phù hợp với kết luận của các nhà nghiên cứu trước đây rằng nhận thức về giá trị nhận được từ du học càng cao thì dự báo về ý định đi du học càng cao (Zhuang và cộng sự, 2015). Hơn nữa, dựa trên lý thuyết về kỳ vọng, một cá nhân sẽ cân nhắc cẩn thận khi theo đuổi một nhiệm vụ nếu họ mong đợi nỗ lực sẽ mang lại phần thưởng khi phần thưởng đó có giá trị (Oliver, 1974), (trích dẫn Zhuang và cộng sự (2015), trang 35). Như vậy, giá trị cảm nhận đối với du học có ảnh hưởng tích cực đến ý định gửi con đi du học của phụ huynh. Ảnh hưởng của mong muốn với ý định gửi con đi du học Tại Việt Nam, một phụ huynh thường xuyên tham dự các sự kiện quốc tế, hội chợ, diễn đàn chia sẻ về du học và thường xuyên cập nhật thông tin, chương trình du học hấp dẫn cho biết mong muốn cho con đi du học là rất cao và điều đó thúc đẩy họ đi du học. Điều này hoàn toàn phù hợp với những phát hiện của Shaw và cộng sự (2007) và Schnusenberg và cộng sự (2012), cho rằng mong muốn của một cá nhân có ảnh hưởng đáng kể và là một yếu tố dự đoán đáng tin cậy về ý định hành vi. 4.2. Phần k t luận Không phải lúc nào cũng dễ dàng phân tích sở thích và mong đợi của học sinh, cha mẹ học sinh và mối quan hệ giữa chúng. Sự phức tạp nằm ở tính chất tham gia cao của các nhà tiếp thị giáo dục và mối tương quan giữa hành động của người học và các tổ chức giáo dục quốc tế. Điều này là do quá trình giáo dục quốc tế tạo nên kỳ vọng của những người tham gia và gia đình của họ, và bản thân quá trình giáo dục quốc tế được hình thành bởi kỳ vọng này. Ở Việt Nam, một đất nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Khổng Tử, con cái chịu ảnh hưởng rất nhiều từ cha mẹ. Cha mẹ luôn quan tâm đến sự an toàn của con cái và tương lai thịnh vượng của chúng. Họ cũng bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của những người xung quanh và những kinh nghiệm trong quá khứ mà họ có được khi học tập, tham quan ở một đất nước khác hoặc đơn giản là lắng nghe những câu chuyện từ cha mẹ, người thân và bạn bè để đưa ra quyết định giáo dục con cái. Nhiều nhà nghiên cứu cho biết các khuyến nghị từ người thân, bạn bè hoặc các liên kết xã hội cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc du học, đặc biệt là sinh viên quốc tế đến từ các nước châu Á (Mazzarol và Soutar, 2002; Maringe và Carter, 2007; Yang, 2007; Rudd et al, 2012). 569
  12. Vì vậy, các nhà giáo dục quốc tế cần quan tâm đến mong muốn của học sinh Việt Nam và những giá trị mà con em họ sẽ nhận được khi tham gia khóa học và sau khi kết thúc khóa học. Đó có thể là lợi ích về năng lực chuyên môn, nâng cao trình độ ngoại ngữ, môi trường sống, cơ hội việc làm, cơ hội thăng tiến hoặc cũng có thể là tinh thần sống có trách nhiệm, tiếp xúc với một nền văn hóa đa dạng và cởi mở. Bên cạnh những yếu tố tác động tích cực đến ý định cho con em du học của phụ huynh, các nhà giáo dục quốc tế cũng cần quan tâm đến các yếu tố rủi ro về mặt nhận thức. Mặc dù kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro ảnh hưởng đến ý định của phụ huynh không nhiều nhưng cũng cản trở ý định gửi con đi du học của họ. Vì vậy, các trung tâm giáo dục quốc tế cần tạo niềm tin và loại bỏ các yếu tố rủi ro về nhận thức. Kết quả từ nghiên cứu của tác giả có thể đưa ra những định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo, khắc phục những hạn chế trong nghiên cứu này như quy mô mẫu có tính đại diện cho khu vực miền Bắc nhưng số lượng người tham gia còn hạn chế. Các biến đưa vào mô hình chưa được kiểm định độ chắc chắn nên việc thực hiện một nghiên cứu định lượng cho những vấn đề tác giả đã đưa ra là cần thiết để bổ sung vào độ chắc chắn của mô hình và làm gia tăng sự chính xác từ kết quả nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ajzen, I. (1985), 'From Intentions to Actions: A Theory of Planned Behavior', in Action Control: from Cognition to Behavior, ed. Julius Kuhl and Jurgen Beckman, Heidelberg: Springer, tr. 11-39. 2. jzen, I. (1991), „The Theory of Planned Behavior‟, Organizational Behavior & Human Decision Processes, Vol. 50, No. 2, pp: 179-211. 3. Ajzen, I. and Fishbein, M. (1980), 'Understanding Attitudes and Predicting Social Behavior', New Jersey: Prentice Hall. 4. Armitage, J. C. and Conner. M. (2001), 'Efficacy of the Theory of Planned Behaviour: A Meta- analytic Review', British Journal of Social Psychology, Vol. 40, no. 4, pp: 471-499. 5. BaileyShea, C. (2009), „Factors that Affect American College Students‟ Participation in Study Abroad‟. (Doctoral Dissertation). New York: University of Rochester. 6. Baker, E. W., Al-Gahtani, S. S. and Hubona, G. S. (2007), „The effects of gender and age on new technology implementation in a developing country: testing the theory of planned behavior (TPB)‟, Information Technology & People, vol. 20, no. 4, pp: 352-375. 7. Bodycott, P. (2009), 'Choosing a higher education study abroad destination What mainland Chinese parents and students rate as important', Journal of research in International education, vol. 8, no. 3, pp: 349-73. 8. Chang, M. K. (1998), „Predicting unethical behavior: comparison of the Theory of Reasoned ction and the Theory of Planned Behavior‟, Journal of Business Ethics, vol. 17, pp: 1825-1834. 9. Chen, C. H. and Zimitat, C. (2006), 'Understanding Taiwanese students‟ decision-making factors regarding Australian international higher education', International Journal of Education Management, Vol. 20, no. 2, pp: 91-100. 570
  13. 10. Cheng, S., Lam, T. and Hsu, C. (2006), „Negative word-of-mouth communication intention: an application of the theory of planned behavior‟, Journal of Hospitality & Tourism Research, Vol. 30, no. 1, pp: 95-116. 11. Cubillo, J.M., Cerviño, J. and Sánchez, J. (2006), 'International Students‟ Decision-Making Process', The International Journal of Educational Management, Vol. 20, No. 2, pp: 101-115. 12. Fishbein, M. and Ajzen, I. (1975), Belief, Attitude, Intention and Behavior: An Introduction to Theory andResearch, Addison-Wesley, Reading, MA. 13. Fitzsimmons, S. R., Flanagan, D. J. and Wang, X. (2013), 'Business Students' Choice of Short- Term or Long-Term Study Abroad Opportunities', Journal of Teaching in International Business,vol. 24, no. 2, pp: 125-137. 14. Goel, L., de Jong, P., & Schnusenberg, O. (2010), 'Toward a comprehensive framework of study abroad intentions and behaviors', Journal of Teaching in International Business, Vol. 21, pp: 248-265. 15. Grandon, E. E. and Pearson, J. M. (2004), 'Electronic commerce adoption: an empirical study of small and medium US businesses', Information and Management, Vol. 42, no. 1, pp: 197- 216. 16. Grewal, D., Gopalkrisnan, R. I., Gotlieb, J. and Levy, M. (2007), 'Developing a deeper understanding of post-purchase perceived risk and behavioural intentions in a service-setting', Journal of the Academy of Marketing Science, Vol. 35, pp: 250-258. 17. Lee, C. F. (2014), 'An Investigation of Factors Determining the Study Abroad Destination Choice: A Case Study of Taiwan', Journal of Studies in International Education, vol. 18, no. 4, pp: 362-381. 18. Lee, C. K. C. & Morrish, S. C. (2012), 'Cultural values and higher education choices: Chinese families', Australasian Marketing Journal, vol. 20, no. 1, pp: 59-64. 19. Lee, C. K., Song, H. J., Bendle, L. J., Kim, M. J. and Han, H. S. (2012), „The impact of non- pharmaceutical interventions for 2009 H1N1 influenza on travel intentions: a model of goal- directed behavior‟ Tourism Management, vol. 33, no. 1, pp: 89-99. 20. Lee, E. S. (1966), 'A Theory of Migration', Population Association of America, Demography, vol. 3, no. 1, pp: 47-57. 21. Luethge, D. (2004), 'Perceived Risk and Risk Reduction Strategies in Study Abroad Programs' Journal of Teaching in International Business, Vol. 15, pp: 23-45. 22. Maringe, F. and Carter, S. (2007), 'International students‟ motivations for studying in UK HE: Insights into the choice and decision making of African students', International Journal of Education Management, Vol. 21, No. 6, pp: 459-475. 23. Mazzarol, T. (1998), 'Critical Success Factors for International Education Marketing', The International Journal of Education Management, Vol. 12, No. 4, pp:163-175. 24. Mazzarol, T. and Soutar, GN. (2002), '“Push-pull” factors influencing international student destination choice', International Journal of Educational Management, vol. 16, no. 2, pp: 82-90. 25. Petzold, K. and Peter, T. (2015), 'The social norm to study abroad: determinants and effects', Higher Education, Vol. 59, no. 6, pp: 885-900. 571
  14. 26. Petzold, K., and Moog, P. (2017), 'What shapes the intention to study abroad? An experimental approach', Higher Education, https://doi.org/10.1007/s10734-017-0119-z. 27. Phillips, J. R. (2014), 'Examining predictors of U.S. student intent to study abroad from a communication perspective', Doctoral dissertation, University of Miami. 28. Presley, A., Datha, D. M. and Lin, Z. (2010), 'A study of business student choice to study abroad: A test of the theory of planned behavior', Journal of Teaching in International Business, vol. 21, no. 4, pp: 227-247. 29. Prestwich, ., Perugini, M. and Hurling, R. (2008), „Goal desires moderate intentionebehaviour relations‟, British Journal of Social Psychology, Vol. 47, no. 1, pp: 49-71. 30. Ravenstein, E. G. (1885), 'The Laws of Migration', Journal of the Royal Statistical Society, XLVIII, Part 2 (June, 1885), pp: 167-227. 31. Relyea, C., Faye, K. C. and Nareatha, L. S. (2008), 'The effect of perceived value in the decision to participate in study abroad programs', Journal of Teaching in International Business, Vol. 19, No. 4, pp: 346-361. 32. Ravenstein, E. G. (1889), 'The Laws of Migration', Journal of the Royal Statistical Society, LII (June, 1889), pp: 241-301. 33. Schnusenberg, O., de Jong, P. and Goel, L. (2012), 'Predicting study abroad intentions based on the theory of planned behavior', Decision Sciences Journal of Innovative Education, Vol. 10, No. 3, pp: 337-361. 34. Shaw, D., Shiu, E., Hassan, L., Bekin, C. and Hogg, G. (2007), 'Intending to be ethical: An examination of consumer choice in sweatshop avoidance', Advances in Consumer Research, Vol. 34, pp: 31-38. 35. Trần Lê Hữu Nghĩa (2015), 'Factors influencing prospective international students‟ motivation for overseas study and selection of host countries and institutions: The case of Vietnamese students', The 26th ISANA International Education Conference was held at the Pullman on the Park Melbourne, 1st - 4th December 2015. 36. Wang, L. C., Gault, J. J., Christ, P., and Diggin, P. A. (2016), 'Individual attitudes and social influences on college students‟ intent to participate in study abroad programs', Journal of Marketing for Higher Education, Vol. 26, no. 1, pp: 103-128. 37. Zhuang, W., King, K. & Carnes, L. (2015), 'Studying abroad: Understanding the relationships among beliefs, perceived value, and behavioral intentions' Journal of Teaching in International Business, Vol. 26, No. 1, pp: 32-45. 572
nguon tai.lieu . vn