Xem mẫu
- 227
CHƯƠNG 5
DE LA H R E DE TASSIGNY
LÀ Vĩ NHÂN TRONG c u ộ c CHIẾN CHỐNG PHÁT XÍT
NHƯNG CHỈ LÀ MỘT TÊN TƯỚNG CƯỚP TRONG CHIẾN
TRANH XÂM LƯỢC
PHÁT HUY MỌI KHẢ NĂNG c ơ ĐỘNG, PHÁO VÀ NAPALM,
KẾT HỢP PHÒNG TUYỂN BOONGKE VẪN KHÔNG GIÀNH
ĐƯỢC THẾ CHỦ ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG
TỘI ÁC LỚN NHẤT CỦA DE LATTRE; DựA VÀO ĐÔLA MỸ
VÀ XƯƠNG MÁU ĐỔNG LOẠI ĐỂ KÉO DÀI VÀ MỞ RỘNG
CHIẾN TRANH KHIỂN Nước PHÁP NGÀY CÀNG SA LẦY
CẢ HAI BỐ CON BỊ LOẠI KHỎI “CUỘC CHIẾN TRANH
BẨN THỈU”, VÙI SÂU
THÓI KIÊU CĂNG
NGẠO MẠN CỦA
MỘT TÊN QUÝ TỘC
De Lattre de Tassigny
- 229
Đám ma ông to lắm!
V ăn võ bá quan, lon vàng kiếm bạc, những quý tộc, những
ông chủ nhà băng, những nhà công thương tai to mặt lớn
bụng phệ như cái trông đihìg ngập hai bên đại lộ dẫn tới Khải
hoàn môn (Arc de Triomphe de letoile) - chiếc cửa cao 45,5m,
rộng 40m, lòng cửa 30m đã từng có một máy bay chui lọt, được
khởi công từ năm 1806, tốn 900 vạn quan, kỷ niệm chiến công
hiển hách của nước Pháp. Các quân binh chủng đủ màu cờ, sắc
áo xếp thành từng khối, từng khối nối dài như hất tận, tiễn đưa
ông Jean de Lattre de Tassigny, đại tướng Cao ủy Đông Dương
kiêm Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh về chầu Chúa.
Bà De Lattre trong bộ đồ đen, đi một mình, kiêu hãnh
ngẩng cao đầu, bước từng bước theo sau chiếc xe tang phủ vải
đen viền trắng do ngựa kéo chầm chậm chuyển bánh như đi
vào cõi mông lung. Mới hôm nào chồng bà đã đưa bà đến núi
Non Nước ở một phương trời xa thẳm, đặt vòng hoa trên mảnh
đâl con bà đã ngã xuống cho một cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Giờ đến lượt chồng bà ra đi đột ngột để bà trở thành một quả
phụ suôi đời.
Không khí của ngày quốc tang bao trùm. Những tiếng trao
đổi thì thầm. Ai cũng cố tạo cho mình một bộ mặt đưa đám.
- 230 VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...
Năm mươi năm sau ngày ông qua đời (11-1-1952 - 11-1-2002),
lễ tưởng niệm ông lại được tổ chức trọng thể tại Hetel National
des Invalides de Paris - kỳ công kiến trúc với nhà tròn cao hơn
lOOm do vua Louis XIV tạo dimg, chính giữa là mộ chôn câl
Napoléon bằng hồng cương thạch do Nga hoàng Nicolas tặng,
đang đưỢc sử dụng làm bảo tàng nhà binh - và tại Mouilleron-
en-Pareds, quê hương ông, nơi chôn cât thi hài hai bố con ông
với sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia, các tướng lĩnh và
đông đảo cựu chiến binh các thời kỳ 1914 - 1918, 1939 - 1940,
1944 - 1945. Người ta đã tổ chức diễu binh, rước cờ và gậy
thống chế. Tràn ngập những cờ là cờ, có đến 750 lá cờ xanh -
trắng - đỏ, tượng trưng cho tự do, bình đẳng, bác ái; người ta
đặt hoa tại Porte Dauphine, đốt lửa vĩnh cửu ở Arc de
Triomphe de retoile.
Xúc động quá! Long trọng quá!
Nhật lệnh số 1 ngày 11-1-1952 của Bộ trưỏng Quốc phòng
Pháp Georges Bidault tuyên dương ông là anh hùng, là vĩ nhân,
là người chiến thắng! S ĩ quan, binh sĩ dưới quyền ông gọi ông là
thủ lĩnh {grand ch ef), là cha. Trước nhà ông ở Mouilleron-en-
Pareds, người ta gắn tấm biển lớn ghi các chức tước của ông với
dòng chữ “II sauva le Tonkirì' (tạm dịch là Cứu tinh x ứ Bắc Kỳ).
Tên ông được đặt cho một đường phố" ở Hà Nội thời Pháp
chiếm đóng.
Vinh quang, gâ"p mẩy mươi lần vinh quang!
- 231
II
ean de Lattre de Tassigny sinh ngày 2-2-1889 tại Mouilleron-
J en-Pareds (Vendée) trong một gia đình địa chủ quý tộc. Tốt
nghiệp Trường Võ bị Saint-Cyr với quân hàm trung úy. Trong
chiến tranh thế giới thứ nhâ"t 1914 - 1918, De Lattre đã 5 lần bị
thương, 8 lần được tuyên dương, sau đó tham gia chiến tranh
xâm lược Maroc lại bị thương 2 lần.
Năm 1939 thăng quân hàm thiếu tướng, năm 1940 làm Tư
lệnh Sư đoàn bộ binh thứ 14. Năm 1941 làm Tổng chỉ huy quân
dội Pháp ở Tunisia. Năm 1942 làm Tư lệnh Sư đoàn bộ binh
thứ 16 ở Montpellier. Do từ chôl hỢp tác với phát xít Đức, tập
hỢp lực lượng chống Hitler, De Lattre bị Chính phủ Vichy bắt
cầm tù ở Toulouse rồi Lyon với án 10 năm. Năm 1943, De Lattre
trốn khỏi Riom cùng vỢ con, liên lạc với tướng De Gaulle ở
London, sau đó sang Alger tổ chức một đơn vị lớn \ắy tên là
“Quân đoàn B”, sau dổi là Quân đoàn Pháp quốc thứ nhâd
(b'"'' Armee’ Pranẹaise) để chống phát xít.
Ngày 17-6-1944, De Latữe cùng đồng đội đổ bộ lên đảo
Elbe, sau đó lên Provence, hỢp nhất Quân đoàn B với Tập đoàn
Hải ngoại Pháp - Italia (Corps Expéditionnaire Eranẹais dltalie -
CEEE) của tướng Juin đánh chiếm Toulon, Marseille, giải
phóng 25 quận dọc sông Rhône và Saôhe, dùng thuyền buồm
đổ bộ lên Normandie đánh đòn quyết định đắt giá giải phóng
- 232 VỂ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...
Vosges-Alsace. Ngày 30-3-1945, đội quân của De Lattre vượt
sông Rhin đến Áo.
Ngày 8-5-1945 nhân danh nước Pháp, ông ta cùng đại diện
các nước Đồng minh tiếp nhận việc ký kết văn bản đầu hàng
của phát xít Đức tại Berlin. Năm 1949, ông ta làm Tổng chỉ huy
các lực lượng lục quân của Tây Âu trong Khối quân sự Bắc Đại
Tây Dương (NATO).
Năm 1950, ta mở chiến dịch Biên giới tiêu diệt 6.000 quân
địch, xóa sổ hai binh đoàn Charton - Le Page, giải phóng
4.000km^ đâl đai, 35 vạn dân, khai thông toàn tuyến biên giới,
phá thế bao vây của giặc, thu một khối lượng binh khí kỹ thuật
đủ trang bị cho 5 trung đoàn. Pháp lâm vào thế bị động, vội
vàng điều Beaulre lên giữ Tiên Yên, Erolin giữ tuyến Việt Trì,
Phúc Yên, Bắc Ninh ngăn chặn quân ta tràn về trung du, uy
hiếp Hà Nội. De Lattre được cử sang Đông Dương khảo sát tình
hình, tìm phương cách cứu vãn. ô n g ta gợi ý tổ chức ngay
những binh đoàn cơ động theo kiểu Mỹ để đối phó với đối
phương một cách linh hoạt.
Binh đoàn cơ động Bắc Phi (GMNA) do đại tá Edon chỉ huy
và Binh đoàn cơ động số 3 do trung tá Vanuxem cầm đầu được
hình thành ngay sau đó theo chủ ý của De Lattre.
Trong lúc nước Pháp lâm vào tình trạng khủng hoảng Tổng
tư lệnh quân đội viễn chinh tại Đông Dương, nội các Pháp định
đưa Boyer de Latour - người có sáng kiến hình thành hệ thống
tháp canh để bủa vây nhân dân Nam Bộ làm Tổng tư lệnh, ô n g
này đã từng hất mãn trước sự xáo trộn và thay đổi liên tiếp các
vị tổng tư lệnh, bị Chanson - vị tướng trẻ - thay thế, đã từ chức,
không ,hào hứng nhận nhiệm vụ với những khó khăn chồng
chất. Người được tham khảo tiếp là tướng Juin, ông này từ chối
vì không muốn mât danh dự ở châu Á. Theo quan niệm của
- Chương 5: DE LATTRE DE TASSIGNY 233
ông, sớm muộn gì Pháp cũng phải buông Đông Dương vì quá
xa và tốn kém. Tướng Koenig, người đã nổi danh trong trận
Bir - Hakeim cũng được chọn, song vì ông này đặt ra quá nhiều
điều kiện, đòi động viên thanh niên Pháp sang Đông Dương,
đòi gửi thêm quân, V.V ., nên đã bị gạt.
Tổng thống Auriol bàn đưa đại tướng Jean Marie Gabriel
de Lattre de Tassigny đang làm Tổng thanh tra quân lưc Pháp
sang Đông Dương đảm nhiệm chức vụ trên. Như vậy, người ta
đã nhìn De Lattre với con mắt không thích thú lắm, song
không còn ai xứng dáng nữa nên phải chọn ông. vả lại, trong
giai đoạn cần dùng vũ lực hầu rửa nhục cho Pháp sau thảm
bại trên đường số 4 hơn là cơ mưu chính ưị thì De Lattre là
“con át chủ bài', vì ông là người phản đối mọi chủ trương chủ
bại của chính phủ và hội đổng tướng Imh Pháp hổi bấy giờ,
khinh bỉ thậm chí không thèm chào hỏi những kẻ bất tài, bất
tướng như Carpentier; rất quyết đoán, có tư thế và đã có
những thành công trong nghề làm tướng với nghệ thuật chỉ
huy sắc sảo.
Letourneau, Cao ủy Đông Dương, đã được giao nhiệm vụ
đến thuyết phục De Lattre. ô n g tỏ ra chần chừ, đòi có thời gian
để suy nghĩ và đòi được nới rộng quyền hạn. Sau ít hôm ông
nhận lời, Chính phủ Pháp đã châp nhận điều kiện cho ông làm
Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh. Người ta bảo
ông đòi phải có thời gian suy nghĩ chỉ để làm bộ, làm tịch, biểu
thị thái độ kiêu ngạo kinh niên của một vị tướng dòng dõi quý
tộc, thực ra khi được vời, trong thâm tâm ông mừng rỡ như mở
cờ vì một thời gian dài người ta đã mấy lần tước mất quyền
hành của ông. Thoạt đầu, De Gaulle tước của ông chức Tư lệnh
Quân đoàn 1 (quân đoàn Rhine và Danube), k ế đó, ông bị giải
nhiệm chức Tổng tham mưu trưởng, tiếp theo là sự lẩh át của
- 23 4 VỂ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...
Montgomery - viên tướng Anh - về quyền chỉ huy các luc lượng
vũ trang trên bộ khối Tây Âu.
Bước sang tuổi 61, De LatUe cứ tưởng cuộc đời binh nghiệp
của mình đã đến lúc châ"m dứt, vậy mà lại có cơ hội thi thố tài
năng trên một cương vị lớn, một mình nắm giữ cả quyền chỉ
huy dân sự và quân sự một phương, vừa là Cao ủy - một chức
vụ giống như toàn quyền lại kiêm Tổng tư lệnh quân đội viễn
chinh tại Đông Dương. Một lý do khác như một động cơ thúc
đẩy là từ lâu ông và vợ vẫn thường xuyên nhận được thư của
dứa con trai duy nhâl: Trung úy Bemard de Lattre đang phục
vụ tại chiến trường Đông Dương, luôn mong cha sang lãnh
nhiệm vụ “cứu vãn” tình thế và cũng là chỗ dựa dể cho con
thăng tiến trong binh nghiệp.
Mười ngày sau khi nhận quyết định, sớm 17-12-1950 ông
lên đường sang Đông Dương k ế nhiệm Leclerc, Valluy, Blaizot
và Carpentier đã ra đi sau những phen ngã ngựa.
Việc đầu tiên là ông sắp xếp lại bộ máy chiến tranh. Ngoài
viên đại tá Allard sẽ làm Tổng tham mưu trưởng, còn có tướng
Cogny làm Chánh văn phòng, Beauíre - chiến lược gia, Goussalt
sẽ thực thi những công việc “nho nhỏ" cần sự tín nhiệm đặc biệt
của ông. Salan, người mà ông cho là thông thạo các vẩh đề bản
xứ, đưỢc coi như Tư lệnh hành quân. Hai viên cựu quan chức
thuộc địa là Gauthier và Aurillac được giao làm cố vấn các vân
đề chính trị.
Ông không để các bộ tư lệnh không quân và hải quân đimg
biệt lập như trước mà tập trung dưới quyền chỉ huy trực tiếp
của ông. Tư lệnh chiến trường miền Nam ông giữ nguyên
Chanson vì ông hài lòng thấy Chanson không phản img khi bị
bớt xén quân trong biên chế cho chiến trường miền Bắc, lại tháo
vát trong hoạt động, ơ miền Bắc, Alessandri bị thay thế bằng
- C hương5:Đ ^ LATTRE DE TASSIGNY 235
de Latour - người đã tạo ra dĩ vãng đáng chú ý trên chiến
trường miền Nam từ tháng 7-1947 đến tháng 10-1949 trong
công cuộc bình định’.
Về phương diện tổ chức chiến đâu, De Lattre đặt tướng
Gonzales de Linares làm phụ tá hành quân, đặc biệt phụ trách
một số lực lượng lưu động xung kích và nhảy dù.
Bộ binh xung kích được tổ chức thành 7 liên đoàn lưu động
(Groupement mobile, gọi tắt là G.M.) với các liên đoàn trưởng
là các đại tá Edon, Blanckaert, de Casưies, Erubin, Vanuxem,
Clement, Thomazo.
1. Chanson nhờ được các tướng Trần Văn Soái và Ba Cut thuộc giáo
phái đem lại an nừih cho trục lộ Mỹ Tho - Vữih Long đã đến viếng thăm Sa
Đéc, bâ't ngờ bị ám sát chết ngày 31-7-1951.
De Latour bị mât chức vì đã rút bỏ địa điểm Đình Lập, lại còn cho Pháp
kiều tản cư. De Lattre coi đây là hành động gieo hoang mang tinh thần dân
chúng nên đã đưa Salan thay thế.
- 2 36
III
T rong lúc Quốc trưởng Lavan và Thống chế Pétain của nước
Pháp quỳ gối đầu hàng phát xít Đức, hân hoan chúc mừng
chiến thắng của chúng (ngày 22-6-1942), De Lattre đã có nhãn
quan chính trị sáng suốt, đứng về phía nhân dân Pháp và
quân đôi Đ ổng minh, tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng,
đánh đuổi bon xâm lược ra khỏi đất nước là môt hành đông
đúng đắn, dũng cảm, đáng đươc tôn vinh. Tên ông đáng được
ghi vào sử sách và lá cờ của nước Pháp.
Nhưng từ khi nhận chức Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh quân
đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, ông không còn là ông
nữa. Ông lớn tiếng tuyên bố “C húng ta tiến hành cuộc chiến
tranh không vu lợ i tại Đ ông D ương (ngày 19-12-1950) nhimg
thực châl De Lattre de Tassigny đã biến thành môt tên hùm
xâm lươc, nói nôm na là môt tên kẻ cướp.
Clausewitz, nhà lý luận và sử học quân sư của Đức (1780 -
1831) qua nghiên cihi 130 cuộc chiến tranh từ năm 1566 đến
năm 1815, trong tác phẩm nổi tiếng Bàn về chiến ữanh đã nêu
lên một kết luận rất có giá trị: “Chiến ữanh là công cụ của chính
trị. N ó nhâí định phải m ang tính chất chính trị'. Cuộc chiêh
tranh mà De Lattre de Tassigny tiếp tục lao vào khác về bản
châl so với cuộc chiến tranh giải phóng nước Pháp mà 6 năm
trước đó ông ta đã tham gia. Đây là một cuộc chiến tranh phi
- C h ư ơ n g LATTRE DE TASSIGNY 237
nghĩa, phục vụ cho mục đích chính trị xâm lược, hòng thống trị
một đất nước, một dân tộc của bọn thực dân Pháp và tẩt nhiên
là của cả đ ế quốc Mỹ. Những trang sử hào hùng về cuộc đời De
Lattre trở nên hoen ố. vầng hào quang trên đầu ông ta không
còn tỏa sáng.
Ô ng ta là cứu tinh x ứ Bắc K ỳ ư? ô n g ta cứu ai và ai cần ông
ta cứu? Ô ng ta đã cứu nhân dân Bắc K ỳ bằng cách nào? Và n h ư
thê'nào?
Ông ta luôn nhắc thuộc hạ là phải coi Bắc Kỳ là chiếc
"chìa khóa" của mọi vân đề ở Đông Dương và trong quan hệ
quốc tế. Đại bản doanh của ông được đưa từ Sài Gòn ra Bắc
để chỉ huy lực lượng chủ lực cơ động được điều động tập
trung nơi đây không ngoài ý đồ bình định Bắc Kỳ, nơi có
căn cứ địa Việt Bắc thần thánh, đầu não của cuộc kháng
chiến chống xâm lược của nhân dân V iệt Nam bằng mọi giá,
hòng cứu vãn sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ đã
lỗi thời. Ông còn cho xây ngay m ột biệt thự xinh đẹp sau
Hotel de la Point tại khu nghỉ mát Đồ Sơn, Hải Phòng nhìn
ra Hòn Dáu để thư giãn sau những giờ phút bàn định âm
mưu căng thẳng và cũng để chứng tỏ ông sẽ ngự trị tại đây
lâu dài.
Tờ trình đầu tiên của ông sau khi đặt chân tới Đông Dương
gửi Chính phủ Pháp được coi là tờ trình đặc biệt để xin viên
binh, trước hết và chủ yếu nhằm đối phó với chiến trường sôi
đông ở miển Bắc V iêt Nam.
Ông viết: “Ke từ khi quân đội cộng sản Trung Quốc tới sát
biên giới và làm tăng thêm tiềm lực chiến tranh cho Việt Minh,
quân số của ta ở miền Bắc đã thiếu hụt, với khoảng 22 - 25 tiểu
đoàn không thể chống lại từ 60 - 80 tiểu đoàn của đối phương.
- 23 8 VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG..
Tại Trung Việt ta có 14 tiểu đoàn chống lại 18 tiểu đoàn và ở
Nam Việt có 9 tiểu đoàn chống với 14 tiểu đoàn.
Vì lý do tâm lý, không thể rút thêm các vùng khác được
nữa. Quân đội quốc gia (quân ngụy) thì rãt yếu kém. Câp thời
ta chỉ tin cậy những đơn vị Pháp vào khoảng 1 sư đoàn gồm 9
tiểu đoàn và 3 tiểu đoàn pháo.
Pháp phải chuẩn bị 1 sư đoàn để tăng cường cho đoàn quân
viễn chinh gồm 11 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo, 1 đơn vị
xe thám thính, các đại đội phòng không và vũ khí nặng để bảo
vệ pháo lũy cùng 1 tiểu đoàn công binh.
Trường hỢp xảy ra chiến tranh với Trung Quốc cộng sản,
cần thêm 1 sư đoàn bộ binh, 11 đại đội phòng không, 1 hàng
không mẫu hạm, 1 hạm đội vận tải. c ầ n thiết phải tăng cường
thêm các phi cơ đủ mọi loại.
Nếu vấn đề phòng thủ Bắc Việt không được đặt ra một cách
chắc chắn, chửứì quyền Bảo Đại sẽ chạy theo điều đình với Việt
Minh. Đe ngăn chặn tình hình bât thường này, phải thi hành
một cách ngay thẳng các thỏa ước với Bảo Đại và thành lập
quân đội quốc gia”.
Chính phủ Pháp, Tổng trưởng Quốc phòng Jules Moch,
Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng, tướng Blanc, đều không
tán thành các đề xuâl của Tassigny. Họ không muốn mở rộng
vùng chiếm đóng mới tại miền Bắc mà là củng cố nơi chiếm
được ở miền Nam tới v ĩ tuyến 16. Theo họ, Tổng tư lệnh phải
làm sao tránh sự tổn thâl của quân đội viễn chinh, dồn phần lớn
nỗ lưc chiến tranh và chính trị cho miền Nam.
De Latữe không chịu, cuối tháng 3-1951 ông ta về Paris đích
thân tranh đấu cho việc xin tăng viện. Phe phản đối vẫn giữ lập
trường, duy trì đoàn quân viễn chinh ở mức 143.000 người, đòi
- Chưcfng5:ĩ)Y, LATTRE DE TASSIGNY 239
ông áp dụng ửiích đáng chiến lược quân sự trong phạm vi khả
năng, giải quyết chiến tranh bằng giải pháp chính trị.
De Lattre một mực đòi chống giữ bằng quân sự tới khi quân
đội quốc gia của Bảo Đại trưởng thành (cuối năm 1951) để giữ
vị trí xứng đáng của nước Pháp. Được tướng Juin ủng hộ, cuối
cùng Chính phủ Pháp chấp thuận cho lấy ở Bắc Phi 11 tiểu
đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn kỵ binh thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo, 1
tiểu đoàn truyền tin với điều kiện là phải giao lại các đơn vị này
cho Bắc Phi vào năm 1952 (sau này các đơn vị trên chỉ được trả
về 2 tiểu đoàn).
Rập khuôn theo Giáo hoàng Thiên Chúa giáo Urban II tập
hỢp những người đứng đầu nhà thờ ở Clermont (Pháp) tiến
hành một cuộc thập tự chinh mùa Thu 1095 về vùng Đất Thánh’
(Ixraen ngày nay) để có sự giàu có, quyền lực và địa vị chúìh trị,
De Lattre cũng là người đầu tiên để xướng “Thâp tư chinh”
nhằm lôi cuốn Mỹ và đồng minh của Mỹ can thiêp sâu vào
cuôc chiến tranh xâm lược ở V iêt Nam trong khi Mỹ đang
không từ một âm mưu thâm độc nào chống lại Liên bang Xôviết.
Đầu tháng 5-1951, Hội nghị Singapore nhóm họp với mục
đích quy tụ các quốc gia thuộc vùng ảnh hưởng Đông Nam Á
thành một khối để đối phó với sự bành trướng của Trung Quốc
cộng sản về phía nam. Tại đây, De Lattre đã bày tỏ “thiện chí”
của nước Pháp tại vùng Đông Nam Á, nhẫt là đang biến Bắc
Việt thành một tiền đồn chống cộng với việc xây dựng phòng
tuyến De Latưe quanh đổng bằng Bắc Việt.
1. Thập tự chinh: gốc chữ latừứi “crux”(chữ thập), biểu tưỢng được mang
trên quần áo người tham gia. Pierre rErm ite (1050 - 1115), một tu sĩ đã hô
hào và tham gia cuộc thập tư chmh lần thứ nhât (1096 -1099).
- 24 0 VỂ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG.
Tháng 9-1951, De Lattre đã sang Hoa Kỳ để xin tăng
cường viện trỢ quân sự và tài chính cho chiến tranh Đông
Dương. Từ sau cách mạng Trung Quốc thành công, Truman
lo ngại sự bành trướng của cộng sản ở Bắc Á đã coi vai trò
của Pháp ở Đông Dương là một phần kháng cự của các quốc
gia trong th ế giới tự do chống lại cộng sản. Do đó, Mỹ sẵn
sàng viện trỢ quân sư và kinh tê cho Pháp. Ngày 17-7-1950,
chính quyền Mỹ cử John Melby sang Việt Nam họp với
Pignon, Carpentier, Harteman (Tư lệnh không quân Pháp ở
Viễn Đông) bàn cách đối phó với tình thế mới. Sau cuộc họp,
Mỹ cử tướng Donald Heath làm đại sứ đầu tiên bên cạnh
chính quyền Bảo Đại.
Tháng 10-1951, dưới danh nghĩa Trưởng Phái bộ kinh tế
Mỹ, trùm tình báo Mỹ Thibaut de Saint Phalle đã đến Việt Nam
để nghiên cứu về vấh đề viện trỢ, thực châl là để chỉ đạo Cơ
quan tình báo của Mỹ(Central Intelligence Agency - CIA) đã
được đặt tại Nam Việt Nam từ năm 1950 thay thế cho Cơ quan
phục vụ chiến lược (Of£ice Strategic Sevice - OSS) hình thành từ
hồi kháng Nhật.
De Lattre sang Đông Dương tỏ ý không thích Thibaut dòm
ngó vào công việc của mình. Thibaut phải về nước, chỉ còn phái
bộ quân sự Mỹ do tướng Brinks cầm đầu việc nghiên cứu viện
trỢ cho Pháp.
Người Mỹ không bằng lòng Pháp thực hiện chính sách
thuộc địa cổ lỗ sĩ. Họ e ngại thanh niên Mỹ cũng phải sang
chiến đâu cho Pháp như đã đi Cao Ly nên Chính phủ Mỹ
không bộc lộ sự quan tâm quá đáng tới De Lattre. Nhờ sự hỗ
trợ của Eisenhovver và thượng nghị sĩ Cabot Lodge, nguyên sĩ
quan liên lạc cho Quân đoàn 1 của De Lattre, Chính phủ Mỹ đã
- Chưcfng5:ĩ)E LATTRE DE TASSIGNY 241
hứa giúp trong vòng 6 tháng với 200 chiến đấu cơ, 300 đại bác,
1 triệu viên đạn đại bác, 15 triệu viên đạn thường, 150 tàu
xuồng đổ bộ và 100 ngàn súng trường cho Pháp ở Việt Nam.
Về mặt tài chính, trong năm 1952 ngân sách của Pháp phải
chi cho chiến tranh Đông Dương 399 tỉ quan nhưng chỉ đáp ling
359 tỉ quan, số thiếu hụt do Mỹ đài thọ. Ngoài ra, Mỹ còn hứa
viện trỢ dồi dào để Tassigny thành lập quân đội quốc gia cho
Bảo Đại.
Ngày 28-9-1951, nghĩa là chỉ hai ngày sau khi De Lattre
chấm dứt chuyến công cán sang Mỹ, chiếc tàu Eartham Bay đã
chở từ Manila tới Sài Gòn nhiều vũ khí và trang bị đủ loại.
Cũng ữong ngày, một loại chiến cụ quan trọng khác là 30
phóng pháo cơ B.26 được chính người Mỹ từ Philippines bí mật
đưa tới Cát Bi trao cho Pháp. Loại máy bay này bay nhanh hơn
các loại máy bay mà Pháp có. Mỗi chiếc mang được 8 trái bom
500 bảng Anh và 6 hỏa tiễn. Mỹ đã cải tiến 12 chiếc trong số đó
thành máy bay soi sáng gọi là tàu bay đom đóm (Luciole) có
khả năng thả hỏa châu soi sáng một giờ liền để yểm trỢ quân
Pháp trước những cuộc tiến công hoặc di chuyển ban đêm của
đối phương.
Có tiền, De Lattre đã tạo dựng thêm 11 tiểu đoàn bộ binh, 2
tiểu đoàn dù. Cộng với số đơn vị có trước và sô được đưa thêm
từ chính quốc sang, đoàn quân viễn chinh đang từ 143.000 vọt
lên 189.183 người, trong số đó có 120.000 lính gốc Pháp, Bắc Phi
và lê dương.
De Lattre đăc biêt chú ý vấn để V iêt hóa cuộc chiến tranh,
xây dưng cái goi là “quân đôi quốc gia”, thúc giục bọn ngụy
quyền ra sức đôn quân bắt lính để làm bia đỡ đạn, giảm bớt
máu của người Pháp đổ trên chiến trường Đông Dương, trong
- 24 2 VỂ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...
khi nhân dân Pháp ngày càng ửiấy rõ cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam là phi nghĩa, họ không muốn con em chết cho
cuộc chiến tranh bẩn thỉu.
Lệnh động viên đã được ngụy quyền ban hành tháng 7-1951
(chiếu theo dụ ngày 15-7-1951). Cuối năm 1950, các sắc lính
nguy có 65.000 người, giữa năm 1952 đội quân này đã lên tới
131.881 người. Lực lượng chủ lực lên tới 44 tiểu đoàn, trong đó
có các tiểu đoàn thuộc các trung đoàn tự trị của các giáo xứ Bùi
Chu - Phát Diệm và 8 tiểu đoàn Sơn cước hoàn toàn gốc người
Thượng do sĩ quan Pháp chỉ huy mà Pháp coi như lính đánh
thuê. Các đơn vị chủ lưc được phân phôi đóng đồn 24 tiểu
đoàn, 14 tiểu đoàn cơ động và 6 tiểu đoàn trong tình trạng
huấn luyện. Bọn chúng còn gọi thêm 6 vạn thanh niên nhập
ngũ, thụ huẫh 2 tháng tại quân trường, tạm thời về nhà đợi
lệnh huy động; vũ ưang thanh niên nông thôn, ban hành
chính sách quân sự học đường, thành lập ngành hiến binh
(ngày 1-9-1951) để thi hành các biện pháp cưỡng bức động
viên nhân lực.
Các binh chủng kỹ thuật cũng được hình thành; không
quân (dụ số 9 ngày 25-6-1951), hải quân (ngày 6-3-1952), thiết
giáp (cuôl năm 1950), pháo binh (cuối năm 1951), binh xa -
ngành chuyên chở bằng quân xa (năm 1951), truyền tin (năm
1951). Đe đáp ứng nhu cầu Việt hóa cuộc chiến tranh, chúng
gâ'p rút mở các trường võ bị, các ữung tâm huấn luyện... mà
trước đây được thực hiện tại Pháp và tại những quân trường
của Pháp ở Đông Dương.
Cùng lúc, Bộ Tổng tham mưu ngụy ra đời với 150 sĩ quan,
hạ sĩ quan, trong đó Pháp chiếm 36 vị trí then chốt. De Lattre đã
đòi Bảo Đại đưa Nguyễn Văn Hĩnh, một tên tây lai, vỢ đầm,
- Chưcfng5:T)^ LATTRE DE TASSIGNY 243
con trai của thủ tướng Nguyễn Văn Tâm đang là Chánh võ
phòng quôh trưởng mang lon trung tá lên làm Tổng tham mưu
trưởng với quân hàm cấp tướng.
Tiềm lực chiến tranh của Pháp năm 1951 với sự viện trỢ của
Mỹ đưỢc xác nhận như sau: 18.000 quân xa đủ loại, 2.300 thiết
giáp, 230 tàu bè, 22.600 trung đại liên, 3.800 súng phóng hỏa
tiễn, 3.500 súng cối, 748 đại bác, phần lớn là loại 105mm.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Chính phủ
Pháp đã có sự thỏa thuận với Giáo hoàng về hoạt động Thiên
Chúa giáo tại Việt Nam. De Lattre đã sang Vatican bệ kiến Pie XII
dàn xếp để Ngô Đình Diệm - kể đã được Nigel Canthome
(trong Bam es & Noble, New York, 2004) xếp là một trong
những bạo chúa sánh cùng 100 tên độc tài độc ác nhất trong lịch
sử, ngang Tần Thủy Hoàng, Võ Hậu, Từ Hi, Richard III, Ceasar,
Hitler... về “giúp nước” và để Dooley được làm Tổng Giám muc
Khâm sứ Tòa thánh ở Việt Nam. Ngày 9-11-1951, Dooley đã tổ
chức Hội nghị giám mục toàn quốc ra một quyết định “p h i tôn
giáo” câ"m giáo sĩ, giáo dân tham gia kháng chiến, ủng hộ cách
mạng và chính phủ kháng chiến. Người Công giáo phải hợp tác
với Pháp chông cộng sản. Theo đó, Giáo hội Thiên Chúa giáo
đã thành lập Trung đoàn nghĩa quân Công giáo tự trị để giữ hai
giáo xứ Phát Diệm - Bùi Chu. Gọi là tự trị nhưng Pháp đã đặt ở
mỗi tiểu đoàn ba “c ố vấ n , thực chất là chỉ huy đạo quân này.
Không những được trang bị về vũ khí, huấn luyện về kỹ thuật,
các tiểu đoàn nằm trong trung đoàn còn được đặt tên bằng
tiếng Pháp. Tiểu đoàn Phát Diệm mang tên G roupe M obíle
A utonom e N o .l (GMA N o.l); tiểu đoàn Bùi Chu mang tên
G roupe M obile A utonom e N o.2 (GMA No.2) với mức lưoíng
Pháp trả cho binh sĩ lên tới 720 đồng/người. ít lâu sau, các tiểu
- 24 4 VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...
đoán này chuyên thành các tiểu đoàn BVN (Bataillon du Việt
Nam ) do Pháp trực tiếp nắm.
Nỗ lực chiến tranh được dồn cho miền Bắc. Tại đây, số tiểu
đoàn bộ birửì tăng từ 36 lên 50, tiểu đoàn dù từ 4 tăng lên 8,
thiết giáp từ 9 tăng lên 21 chi đoàn (Escadron).
T assigny đã huy đông môt số quân đông đảo càn quét
tai đổng bằng Bắc Bô với phương châm “càn đi, càn tới, càn
qua, càn lạ ỉ’ để đánh phá cơ sở và khu trục lực lượng của ta.
Để trả thù thâl bại trong chiến dịch Trần Hưng Đạo, phục hồi
bộ máy kìm kẹp tại cơ sở bị tan rã từng mảng trên địa bàn
Vữìh Yên trong chiến dịch, ngay sau khi chiến dịch kết thúc
(ngày 18-1-1951), ngày 21-1-1951, Tassigny đã huy động Binh
đoàn cơ động số 2 và số 3 khóa chốt tuyến quốc lộ số 2 và đê
sông Hổng, đưa tiểu đoàn 2 và 3 thuộc lữ đoàn lê dương xây
dựng hàng loạt lô cốt bêtông cốt sắt trên tuyến tiền tiêu từ Toa
Đen, Vàng, Đạo Tú đến Núi Đinh, Thằn Lằn. Sau tuyến tiền
tiêu, chúng lập tuyến chiếm đóng dọc đường quốc lộ số 2 gồm
các bốt Toa Đen, c ầ u Trắng, Thượng Lạp, Sơn Kiệu và tuyến
hành lang theo đê sông Hồng từ Toa Đen qua Thùng Mạch,
Quảng Cư đến Lồ. Ngoài các tuyến này, trên địa bàn hai huyện
với 45 xã, diện tích 26.720ha với 260.000 dân, chúng còn xây
thêm 19 bốt, trong đó có 2 bôl phân khu, 1 bốt tiểu khu, 49 tháp
canh, 5 phòng nhì chuyên tra tấh giam cầm những người bị
chúng bắt.
Với 2.446 quân ngụy và lính Âu - Phi đóng giữ, chúng đã
liên tiếp mở các trận càn trong nhiều ngày vào hai huyện Vĩnh
Tường và Yên Lạc, chà đi xát lại nhiều lần các xã Đại Đồng,
Minh Đức, Tân Cương, Cao Đại, Tuân Chính, Vũ Di. Do ta chủ
quan, bộc lộ lực lượng khi chiến dịch Trần Hưng Đạo trên đà
- Chương 5:Đ'Ẽ LATTRE DE TASSIGNY 245
phát triển, lúc chiến dịch kết thúc, bọn phản động trỗi dậy đưa
giặc về cuốc hầm, lùng bắt cán bộ, du kích, nhiều đồng chí sa
vào tay giặc, ô n g Nguyễn Văn Trai ở Quảng Cư là một cán bộ
lão thành, kiên quyết bám cơ sở, giặc đến đã lặn xuống ao sen,
phủ kín lá, thở bằng thân cây sen cũng bị chúng chỉ điểm cho
giặc bắt, giam cầm, tra tăh đến chết trong ngục. Cơ sở nhiều
nơi mới được phục hồi lại bị tan vỡ, nhiều cán bộ, đảng viên,
quần chúng phải bật ra vùng tự do. Người dân sống trong
vòng kìm kẹp của chúng khốn khổ trăm bề. Ruộng đâ't gần các
vị trí của chúng không được cày cẫy. Lúa chín chúng bắn pháo
bừa bãi không dám đi gặt, mỗi suất đinh phải dóng 10 đồng
Đông Dương một năm, mỗi mẫu ruộng phải nộp 7 đồng, ai
nuôi trâu bò, có nhà ngói mỗi năm phải nộp 1 thúng thóc,
hằng tháng phải nộp gạo thịt theo định lượng nuôi bọn hương
dũng. Chỉ riêng năm 1951 dân huyện Yên Lạc đã phải nộp 6
vạn cây tre, 14.250 đồng tiền Đông Dương. Địch còn đốt hết
nhà cửa, tịch thu tài sản của những người trong diện "tình n gh ỉ’,
bằng mọi cách cắt đứt con đường liên lạc giữa cán bộ, đảng
viên với quần chúng.
ở Khu 3, ngày 24-4-1951 Pháp đưa 12 tiểu đoàn bộ binh
phối hỢp với chiến hạm phong tỏa từ biển càn quét Hải Dương,
chiếm đóng Thanh Hà, Tứ Kỳ, Ninh Giang; nối tiếp cuộc hành
quân Meduse kéo dài 12 ngày là cuộc hành quân Reptile mở
ngày 9-5-1951 tảo thanh Kẻ Sặt. Ngày 10-5-1951, chúng mở cuộc
hành quân Citron và Mandarine bình định Thái Bình, bắt tất cả
thanh niên về tỉnh lỵ để thanh lọc.
Thưc hiện chức năng Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh, De Lattre
de Tassigny coi một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ông
là trực tiếp chỉ huy lực lượng biệt kích không vận hỗn hợp.
- 2 46 VỂ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...
viết tắt là GCMA trực thuộc Bộ Chỉ huy Cơ quan tình báo đối
ngoại và phản gián (SDCDE) do đại tá Grall - một “n g ư ờ i h ù n g
của n ư ớ c Pháp” trong Chiến tranh th ế giới thứ hai - trực tiếp
phụ trách, làm nhiệm vụ tối mật mang mật danh là “chiến dịch X
với danh nghĩa là không vận tiếp tế cho các đơn vị thân binh
vũ trang của các trùm phỉ thuộc các dân tộc thiểu số ở Tây
Bắc Việt Nam và đông - tây bắc Lào để duy trì hoạt dộng của
bọn này nhằm phá hoại các vùng căn cứ kháng chiến của ta,
nhưng thưc chấ"t là thu gom hàng tâ"n thuốc phiện từ các vùng
trên chuyển về sân bay Tân Sơn Nhât tại Sài Gòn bán cho Bảy
Viễn - thủ lĩnh Bình Xuyên. Số thuốc phiện này được nhập
kho của Bình Xuyên ở sô" 43 đường Lacaze, nay là đường
Nguyễn Biểu cạnh cầu chữ Y. Từ đây, nó được giao cho Lý
Long Thân, tên mại bản người Hoa, để phân phối cho 2.500
tiệm hút do các băng đảng người Hoa kiểm soát tại Sài Gòn -
Chợ Lớn. Phần còn lại chúng bán cho Mathevv Panchini - một
tay găngtơ người đảo Corse thuộc Pháp, có vỢ người Hoa
chuyển sang Marseille cho tập đoàn Mafia do anh em Antoine
Guerini chế biêh thành heroin cung câ"p cho thị trường châu Âu
và Mỹ. Cuối năm 1952, thanh tra quân đội Pháp đã bắt giữ
SOOkg thuốc phiện ngay tại kho của GCMA. Đe tránh tiếng,
GCMA bị giải tán, nhimg những chuyến bay chở đầy thuôc
phiện tiếp tục được thực hiện bởi một đơn vị mới với cái tên
khác là Đội can thiệp hỗn hợp (GMI) vì nó mang về một nguồn
lợi kếch xù.
Ngoài nỗ lưc tăng cường hệ thông chiến lũy Hải Phòng, mở
rộng phi ữường Cát Bi, Tassigny đã giao cho tướng Gazin đuổi
dân^ san bằng làng mạc, xây dựng mới phi trường Kiến An, đục
núi Phù Liễn làm những kho an toàn, bảo đảm hoạt động của
- Chương5: DE LATTRE DE TASSIGNY 247
5 sư đoàn quanh Hải Phòng đề phòng trường hợp quân đội
cộng sản Trung Quôc tấh công.
De Lattre cũng đã quyết định thành lập một phòng tuyến
bao quanh vùng châu thổ ngăn cách đồng bằng với vùng rừng
núi Việt Bắc mang tên phòng tuyến De Lattre với 1.700 pháo
đài, thường được gọi là hệ thống boongke chạy theo một hành
lang trắng rộng 3km để ngăn chặn sự xâm nhập của đối
phương vào đổng bằng. Công tác xây dựng bắt đầu từ tháng
2-1951 và được xúc tiến mạnh mẽ vào tháng 3-1951 tới tháng
8-1951. Phía Pháp đã có 800 pháo đài được hoàn thành với
trang bị đầy đủ súng ống vật dụng và người canh giũ.
Khác với những tháp canh De Latour tại miền Nam xây
bằng gạch cao lênh khênh không chịu được một quả bộc phá,
một phát DKZ (súng đại bác không giật) hoặc bazôka, các
pháo đài này đều được xây nửa chìm, nửa nổi bằng bêtông
cốt thép, chịu đựng được sức công phá của hàng chục
kilôgam thuốc nổ và vài quả đạn pháo cỡ 105mm. Mỗi khu
phòng thủ trên diện tích hình tam giác thường có một pháo
đài chính có điện đài của sở chỉ huy, xung quanh là các lô cô't
phu có hỏa lực bắn chéo yểm hộ lẫn nhau. Mỗi khu pháo đài
cách nhau khoảng Ikm . De Lattre đã sử dung tới 20 tiểu đoàn
để bảo vệ phòng tuyến, song vẫn không ngăn dược các lực
lượng trung kiên, cốt cán của ta từ vùng tự do vượt qua
phòng tuyến của chúng trở về vùng địch hậu bám đất, bám
dân, xây dựng căn cứ ngay trong lòng địch, phát triển phong
trào du kích chiến tranh. Trong năm 1951, nhân dân vùng
địch hậu của hai huyện Vữìh Tường - Yên Lạc đã vượt qua
phòng tuyến De Lattre và khu trắng, chuyển 140 tấh lương
thực cho kháng chiến cùng 52.427 đổng tiền Đông Dương.
nguon tai.lieu . vn