Xem mẫu

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 3, pp. 145-154 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn CÁC PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TRONG NGHIÊN CỨU BIÊN GIỚI QUỐC GIA Nguyễn Đăng Hội Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga, Bộ Quốc Phòng Tóm tắt. Nghiên cứu biên giới quốc gia là một trong ba nội dung quan trọng nhất của khoa học Địa lí chính trị. rên cơ sở phân tích đặc điểm cụ thể của Việt Nam, bài báo đã đề xuất cách thức vận dụng các phương pháp tiếp cận cho từng loại hình biên giới, từng đối tác láng giềng cụ thể. Các phương pháp tiếp cận sẽ góp phần làm rõ hơn vấn đề, đồng thời đảm bảo tính khoa học, tính quốc tế trong giải quyết một vấn đề khó và nhạy cảm của không chỉ quốc gia nào. Đây cũng là cơ sở để Việt Nam xác định mục tiêu căn bản và lâu dài là củng cố, phát triển vùng biên trên hầu hết các mặt như bất kỳ vùng nào khác của đất nước. Từ khóa: Nghiên cứu biên giới, cách thức tiếp cận, quan điểm tiếp cận. 1. Mở đầu Nghiên cứu biên giới quốc gia là một trong ba nội dung quan trọng nhất của khoa học Địa lí chính trị [3]. Để phục vụ cho việc xác định đường biên giới, đảm bảo tính ổn định (như mong muốn của chúng ta) hay sự mở rộng, bành trướng (như mong muốn của khá nhiều cường quốc), chính phủ hoặc nhà cầm quyền cần có những cơ sở tài liệu khoa học về địa lí, lịch sử nhất định. Đặc biệt, việc xem xét biên giới bao giờ cũng cần những nghiên cứu thực tiễn, xác định đường biên giới cũng như các đơn vị lãnh thổ bằng một công cụ nào đó, điều này chỉ có thể được thực hiện trên các bản đồ - là kết quả nghiên cứu của khoa học địa lí mà thôi. Để nghiên cứu về biên giới, cần có quan điểm tiếp cận và phương pháp thích hợp, phụ thuộc vào quan điểm, hệ tư tưởng của mỗi quốc gia, mỗi trường phái. Trong khuôn khổ bài báo này, xin đề cập và phân tích những vấn đề cốt lõi về phương pháp tiếp cận nghiên cứu biên giới quốc gia trên góc độ địa lí chính trị. Bên cạnh đó, có liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn của nước ta giai đoạn hiện nay. Ngày nhận bài 11/1/2014. Ngày nhận đăng 25/05/2014. Liên lạc Nguyễn Đăng Hội, e-mail: danghoi110@yahoo.com/ danghoi110@gmail.com 145
  2. Nguyễn Đăng Hội 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Biên giới và nghiên cứu biên giới Biên giới quốc gia là nơi cuối cùng của một quốc gia giáp với quốc gia khác hoặc hải phận quốc tế. Đặc trưng đó được thể hiện bằng đường phân chia lãnh thổ và không gian chính trị của hai quốc gia liền kề (đường biên giới). Trong nhiều trường hợp, có thể sử dụng cụm từ “đường biên giới” đồng nghĩa với “ranh giới quốc gia”. Đường biên giới xác định khu vực hình thành quyền tự chủ và thống nhất quốc gia. Đồng thời chứng minh khả năng của quốc gia đảm bảo sự bảo vệ và quyền bất khả xâm phạm, là bằng chứng về sức mạnh và uy thế trong cộng đồng quốc tế. Theo Điều 1 của Luật biên giới quốc gia năm 2003 của Việt Nam, biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [5]. Thực chất, biên giới quốc gia chính là các bề mặt vuông góc với bề măt đất, mặt nước mà đường biên ta thấy trên bản đồ chỉ là giao tuyến mà thôi. Dù vậy, thực tế xác lập chưa cho thấy tính rõ ràng và ổn định của hệ thống các mặt phẳng đó. Chỉ tính đoạn biên giới trên bộ với Campuchia, theo thoả thuận cấp Chính phủ, tới năm 2012 mới cơ bản phân định xong với dấu hiệu là các cột mốc xây dựng vĩnh cửu, có hệ toạ độ địa lí xác định. Như vậy, biên giới không đơn giản là “đường” như nhiều người nhầm tưởng, đó là khu vực kéo dài và tương đối rộng lớn, gồm cả trên bầu trời, dưới biển và chứa đựng rất nhiều các thành phần, yếu tố về chính trị, văn hoá, kinh tế, lịch sử, quân sự. . . của mỗi quốc gia có chung đường biên. Thậm chí cũng xuất hiện những yếu tố của những nước không có chung đường biên giới nhưng có liên quan về quyền lợi (đó là thực tế khách quan). Ví dụ như yếu tố “Mỹ” và Trung Quốc ở khu vực Kasmia giữa Ấn Độ và Pakistan, hay “Mỹ” và “Nga” ở khu vực bắc Grudia với Apkhadia và Nam Oxetia. Sau này, nhiều nghiên cứu về biên giới đã đề cập một cách đầy đủ và toàn diện hơn các mặt của các đơn vị lãnh thổ vùng biên; những mối tương tác của biên giới đối với mỗi quốc gia láng giềng và toàn khu vực. Nhiều nhà địa chính trị đã chú ý phân tích hệ quả của mối quan hệ quốc tế với việc xem biên giới vừa như là tuyến xuất phát, vừa như là cuối cùng của mối quan hệ [12]. Vào những năm cuối của thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, những nghiên cứu biên giới đã gắn liền với những đơn vị chính trị lãnh thổ hay lãnh thổ tộc người, đồng thời tập trung hơn để tạo lập cơ sở xây dựng các quốc gia dân tộc. 2.2. Các quan điểm tiếp cận nghiên cứu biên giới Cho đến những năm gần đây, khoa học nghiên cứu về biến giới chủ yếu mang nặng tính mô tả (sử dụng các phương pháp tịnh tính). Tuy nhiên, vẫn có những nghiên cứu đề xuất lí thuyết để giải thích và chứng minh cho quá trình hình thành và phát triển của các đường biên giới quốc tế (trong đó có đường biên giới quốc gia) với sự kết hợp giữa những phương pháp định tính và định lượng. 146
  3. Các phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu biên giới quốc gia Trong địa lí chính trị, ngoài phương pháp tiếp cận chủ đạo: Tiếp cận hệ thống, còn có 4 cách tiếp cận để nghiên cứu về biên giới được cho là có tính khả thi để áp dụng vào nghiên cứu cho các khu vực cụ thể, đó là: Tiếp cận lịch sử - bản đồ, tiếp cận phân loại, tiếp cận chức năng, tiếp cận địa chính trị. 2.2.1. Tiếp cận lịch sử - bản đồ Bản chất của phương pháp tiếp cận này là dựa trên nguyên tắc lịch sử trong mối liên hệ với các thành tố và được thể hiện cụ thể trên các loại bản đồ. Nguyên tắc lịch sử đảm bảo cho việc nghiên cứu, phân tích quá trình ra đời của biên giới. Thực tế đã chứng minh, trên thế giới có rất ít biên giới của 1 quốc gia lại không thay đổi sau 100 năm [11]. Càng thay đổi nhiều, biên giới càng trở nên “trẻ” hơn và ảnh hưởng càng mạnh tới hoạt động xã hội của khu vực xung quanh, từ đó có vai trò càng lớn trong mối quan hệ giữa các nước láng giềng. Biên giới có mối liên hệ, và phụ thuộc nhiều vào thể chế, chế độ chính trị của quốc gia và “không thể nghiên cứu biên giới mà lại bỏ qua bản chất quốc gia [11]. Mối liên hệ còn được biểu hiện qua những giá trị về kinh tế, chính trị và quân sự. Các nước mạnh thường lợi dụng biên giới để có lợi cho mình hay thậm chí là chiếm một phần lãnh thổ của nước láng giềng yếu hơn. Nếu một nước láng giềng có nền kinh tế mạnh hơn nước bên kia thì mức độ ảnh hưởng của 2 nước lên vùng biên sẽ khác nhau thông qua tỉ lệ “lôi kéo” của kinh tế và một số loại hình hoạt động nhất định (hình 1). Tất nhiên, những ảnh hưởng của quốc gia lên vùng biên giới còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa và kinh tế chỉ là một phần quan trọng. Hình 1. Khả năng “lôi kéo” của 2 nước qua đường biên giới Một số tác giả phương Tây trong thế kỉ XX còn ra sức xây dựng và bảo vệ quan điểm “biên giới tự nhiên”. Theo học thuyết này, biên giới tin cậy, bền vững và an toàn là biên giới trùng với các giới hạn rõ rệt do tự nhiên tạo ra, đó là các dãy núi, con sông lớn. . . Điều này đã một giai đoạn biện hộ cho mưu đồ bành trướng lãnh thổ của nhiều cường quốc. Tất nhiên, nếu biên giới đã được trùng lặp với những giới hạn tự nhiên đó thì việc 147
  4. Nguyễn Đăng Hội phân định sẽ rõ ràng và có lí do để ổn định lâu dài. Tuy vậy, trên trái đất, thật khó tìm được toàn bộ biên giới dạng tự nhiên hoàn hảo cho 1 quốc gia. Phân tích cấu trúc và thành lập bản đồ chuyên đề và bản đồ tổng hợp khu vực dọc biên giới giữa 2 quốc gia láng giềng là nội dung cần được thực hiện một cách nghiêm túc và khách quan. Để có thể hiểu được quá trình diễn ra ở vùng biên giới, cần phải trả lời các câu hỏi: Biên giới phân chia cái gì? Như vậy, chỉ có phân tích lịch sử - địa lí và phương pháp trắc địa bản đồ chính xác, các nhà nghiên cứu mới có thể giúp làm rõ cơ sở tồn tại vùng lãnh thổ cũng như chứng minh sự không thể tách rời của một lãnh thổ hay không gian nào đó của quốc gia, đồng thời tài liệu đó cũng có thể được sử dụng ở Uỷ ban Quốc tế về phân định biên giới của Liên hiệp quốc. Với cách tiếp cận lịch sử - bản đồ, G. Minghi, một nhà địa lí chính trị người Mỹ đã nghiên cứu nguồn gốc, sự chuyển đường biên và vai trò của biên giới Pháp – Ý cùng với hậu quả về kinh tế, văn hoá của nó [8]. Tuy vậy, cũng cần hiểu rằng, bản đồ dù chuẩn bị chu đáo đến đâu cũng khó có thể giải quyết xung đột nếu các nước láng giềng có chung đường biên không có thiện chí và mục đích quá xa nhau. Đó cũng là kết quả nghiên cứu của nhà sử học người Mỹ P. Sahlins khi nghiên cứu về biên giới giữa Pháp và Tây Ban Nha ở Kataloni - kiểu biên giới hiện đại đầu tiên được kí kết theo Hiệp ước Pirênê giữa Pháp và Tây Ban Nha năm 1659 [10]. 2.2.2. Tiếp cận phân loại Phân loại đối tượng thường được áp dụng trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Điều này không những bảo đảm cho hiệu quả và tính khoa học của vấn đề mà còn có ý nghĩa rõ rệt trong khai thác, sử dụng vào các mục đích khác nhau. Biên giới cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Có nhiều cách để phân loại biên giới, phụ thuộc vào quan điểm và “sở trường” của người nghiên cứu, thậm chí là quan điểm của thể chế chính trị. Trước hết, đó là hệ thống phân loại theo hình thái. Việc phân loại này hoàn toàn phụ thuộc vào hình dáng và đặc điểm của các yếu tố được quy ước từ trước đó như theo kinh tuyến và vĩ tuyến, theo các đoạn thẳng, đoạn gấp khúc có ý nghĩa nào đó. Dựa vào các chỉ tiêu từ đặc điểm tự nhiên của khu vực như đặc điểm địa hình (gờ núi, vách đá) hay đặc điểm thuỷ văn (dòng sông) để lập nên hệ thống phân loại theo đặc điểm tự nhiên. Đây cũng là những dấu hiệu thường được vận dụng trong quá trình đàm phán về biên giới, song đôi khi bị lạm dụng cho những mục đích khác. Phân loại theo nguồn gốc, lịch sử là hệ thống đã được sử dụng khá phổ biến, nhất là ở những khu vực rộng lớn, vốn là nơi tranh chấp thuộc địa, tranh chấp quyền lợi giữa các nước lớn, các nước thắng trận trong các cuộc chiến tranh. Kiểu phân loại này được phản ánh rõ nét qua ví dụ ở châu Mỹ Latinh. Xuất xứ biên giới quốc gia được phân định hiện vẫn còn tồn tại với các tỉ lệ khác nhau: do hệ quả của phân chia thuộc địa trước chiến tranh thế giới lần II, sau chiến tranh, kết quả của các cuộc đàm phán và thiết lập nhờ trung gian và tranh cãi. Có thể thấy rằng, với một quốc gia có thể cùng tồn tại nhiều dạng biên giới khác 148
  5. Các phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu biên giới quốc gia nhau. Có đoạn là kết quả của đàm phán lịch sử, có đoạn là sự phân định căn cứ vào đặc điểm tự nhiên. . . 2.2.3. Tiếp cận chức năng Phương pháp tiếp cần dựa trên chức năng thực của biên giới đối với mỗi quốc gia có chung đường biên hay là nhóm các quốc gia có liên quan đến quyền lợi. Thực chất, chức năng biên giới được xác định trên cơ sở phân tích mối tương tác giữa các hợp phần tự nhiên và nhân sinh. G. Prescott cho rằng, nhiệm vụ của nhà địa lí, một mặt nghiên cứu ảnh hưởng các hợp phần cảnh quan lên vị trí, quá trình vạch đường biên giới trên bản đồ và ngoài thực địa. Những hợp phần cảnh quan đó có thể là tính chất địa hình, đất đai, mạng lưới thuỷ văn, phân bố tài nguyên, nơi cư trú của các nhóm xã hội khác nhau, thậm chí là sự sắp đặt các giá trị tâm linh địa phương (nghĩa trang, đền thờ. . . ); một mặt phải nghiên cứu ảnh hưởng ngược trở lại của biên giới lên các hợp phần cảnh quan. Cũng cần ghi nhận rằng, biên giới trước hết có tác động nhiều hơn, rõ nét hơn lên kinh tế, văn hoá và con người hơn là lên các hợp phần tự nhiên của cảnh quan [9]. Khi nghiên cứu về biên giới giữa Mỹ và Mêhicô, nhà địa lí chính trị người Anh G. House đã đưa ra sơ đồ phương pháp đặc biệt nghiên cứu tác động qua lại của biên giới và phân loại chi tiết các “luồng” qua biên giới [6]. Giả sử, A và B và 2 nước láng giềng của nhau; A1 , A2 . . . , B1 , B2 ... là những khu vực biên giới của 2 nước. Tình hình các khu vực biên giới này, theo mô hình của House sẽ hình thành các mối quan hệ sau: + “A - B” – Quan hệ ở mức độ quốc gia, được thể chế hoá bởi cấp chính phủ 2 nước và căn cứ vào quyền lợi chung của 2 dân tộc. + “A - A1 , A2 ” và “B - B1 , B2 ” – Quan hệ của từng khu vực biên giới với chính quốc gia của nó (lấy trọng tâm là Trung ương). Do đó, nó phụ thuộc rất nhiều vào vị trí của khu vực trong hệ thống kinh tế - chính trị đất nước. + “A1 - B1 ” và “A2 - B2 ” - Những mối quan hệ có tính chất quốc tế “trực tiếp” (không qua Trung ương) giữa những khu vực giới hạn vùng biên giới do chính quyền địa phương đảm nhiệm, xuất phát từ khả năng và quyền lợi của địa phương mình. + “A1 - A2 - ...” và B1 - B2 - ...” – Quan hệ giữa các vùng biên giới của cùng một quốc gia với nhau, trong đó chứa đựng sự đoàn kết và khả năng bảo vệ quyền lợi trước chính phủ. Khi vận dụng quan điểm chức năng, cần tập trung chú ý vào những yếu tố phi vật chất và các dòng văn hoá, chính trị. Thậm chí có thể đề cập những vấn đề này theo mùa vụ, bởi sự tương tác giữa 2 bên của biên giới có thể bị đảo ngược theo yếu tố thời gian trong năm. Từ đó mới có căn cứ giúp chính phủ quản lí vùng biên một cách hiệu quả. Cũng cần biết rằng, trong mọi trường hợp, biên giới quốc gia chính là một bộ phận không tách rời của hệ thống biên giới quốc tế. 149
  6. Nguyễn Đăng Hội 2.2.4. Tiếp cận địa chính trị Phương pháp tiếp cận này không xuất phát từ khoa học địa lí mà được sử dụng đầu tiên trong khoa học chính trị. Để hiểu rõ hơn, trước hết ta xem xét thế nào là Địa chính trị (để phân biệt với Địa lí chính trị). Địa chính trị là bộ môn trong hệ thống các khoa học chính trị nghiên cứu mối quan hệ giữa các sự kiện, quá trình chính trị của các nước, các khu vực. Vì lẽ đó, các yếu tố địa lí được xem xét có thể là tổng hợp, có khi là đơn lẻ và tính chất lãnh thổ đôi khi không được phản ánh rõ nét (địa lí chính trị thì ngược lại). Đối với các nhà địa chính trị, quan trọng nhất là nghiên cứu ảnh hưởng của biên giới và sự ổn định của nó lên trạng thái quan hệ quốc tế. Hình 2. Các mối quan hệ qua biên giới ở các cấp độ khác nhau theo quan điểm hệ thống [11] Ở góc độ của địa lí chính trị, phương pháp tiếp cận này cho phép phân tích các mối quan hệ trên những đơn vị lãnh thổ cụ thể. Theo G. Starr và B. Most thì quốc gia nào có nhiều láng giềng hơn thì nước đó tham gia vào chiến tranh nhiều hơn, nhất là khu vực biên giới [11]. Tuy nhiên, khi xem xét vấn đề chiến tranh, nhiều tác giả không thể giải thích được nguyên nhân xung đột biên giới một cách rành mạch. Lí do chỉ có thể là do họ đã không xem xét mối liên hệ giữa lãnh thổ và dân cư; chưa thấy được mối liên hệ giữa bản chất quốc gia và đặc điểm biên giới. Thực tế, chưa bao giờ biên giới chính trị và hành chính cũng như các giới hạn văn hoá bên trong và bên ngoài của một quốc gia được xem xét như một hệ thống nhất. Chính điều này đòi hỏi phải nghiên cứu biên giới theo cách tiếp cận địa chính trị mới, xem con người và xã hội là một phần quan trọng của hệ thống biên giới. Có công trong đề xuất phương pháp tiếp cận này là nhà địa lí Phần Lan A. Paasi. Theo ông, các quan điểm xã hội về gốc rễ dân cư và văn hoá của họ, về an ninh quốc gia, 150
  7. Các phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu biên giới quốc gia về các mối hiểm hoạ từ bên ngoài. . . đã ảnh hưởng mạnh tới thái độ của con người và các nhà chính trị về biên giới. Trên cơ sở phân tích các mối liên hệ, quốc gia trở thành một phần trong hệ thống thế giới, và là hệ thống của các hệ thống địa phương. Hình 2 cho thấy mối liên hệ và sự tương tác của các hệ thống theo cách tiếp cận địa chính trị. 2.3. Tiếp cận để nghiên cứu biên giới của nước ta hiện nay Theo thoả thuận ở cấp Chính phủ, năm 2012 Việt Nam đã cơ bản xác định mốc biên giới trên bộ với 3 nước láng giềng. Tuy vậy, biên giới quốc gia vẫn là vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng đến an ninh, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước trong tương lai. Nghiên cứu biên giới không chỉ dừng lại ở việc xác định chủ quyền mà địa lí chính trị còn có nhiệm vụ đề xuất giải pháp khai thác tổng hợp, sử dụng và bảo vệ lãnh thổ vùng biên, vùng biển đảo trong các mối liên hệ một cách lâu bền với đơn vị lãnh thổ phía bên kia đường biên (chú ý tới Lào và Campuchia) [3]. Các phương pháp tiếp cận nghiên cứu biên giới đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở các cường quốc và của các nhà khoa học ở các nước phương Tây khi nghiên cứu về châu Phi, Trung Cận đông, hay Mỹ latinh. . . Ở nước ta, có thể khẳng định, các kết quả nghiên cứu về biên giới còn khiêm tốn và tư liệu lưu trữ cũng mới dừng lại ở dạng chứng cứ lịch sử, một phần có tính mô tả. Chính vì vậy, cần có cách tiếp cận mới, phù hợp với các chuẩn mực thế giới để đảm bảo sự bền vững biên giới, chủ quyền và quyền chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ mà chúng ta đang quản lí và cả những vùng đã bị mất quyền quản lí như quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa. 2.3.1. Tiếp cận lịch sử - bản đồ Trong quá trình giải quyết các vấn đề về biên giới, về biển, đảo, chúng ta đã vận dụng khá tốt phương pháp tiếp cận lịch sử - bản đồ. Hàng loạt các dẫn liệu lịch sử đã được tập hợp để chứng minh cho chủ quyền và quyền chủ quyền của chúng ta với các vùng lãnh thổ và vùng biển đảo. Bên cạnh đó, các loại bản đồ (chủ yếu là sơ đồ), cũng được sưu tập và củng cố thêm cho kho tàng tư liệu. Thực tế cho thấy, các tư liệu lịch sử và đặc biệt là bản đồ còn thiếu tính hệ thống, là những dẫn liệu đơn lẻ, thậm chí đứt đoạn. Các sơ đồ không có độ chính xác, thậm chí có những bản vẽ chỉ mang tính ước lệ, tưởng tượng mà thiếu hệ toạ độ định lượng hoặc mốc chuẩn cần thiết. Vì lẽ đó, với sự trợ giúp của các công cụ hiện đại, cần hệ thống hoá tư liệu, xây dựng các bản đồ chuyên đề, bản đồ tổng hợp với độ chính xác cao. Nên quán triệt là, nghiên cứu biên giới không chỉ để phục vụ cho việc đòi hỏi chủ quyền, quyền chủ quyền mà sâu xa hơn là việc làm cho nó ổn định, khu vực ngày càng thịnh vượng. Bản đồ phải được xây dựng trên cơ sở có sự liên kết với nước láng giềng, đảm bảo tính thống nhất, nếu có tính quốc tế thì càng quí. Nghiên cứu biên giới không chỉ là cho hiện tại mà còn cho các thế hệ tương lai, có thể là tương lai rất xa. Trong trường hợp của chúng ta, đôi khi yếu tố lịch sử trong một giai đoạn nhất định có thể được 1 hoặc 2 nước chấp nhận nhưng lại không phù hợp về mặt pháp lí (kể cả luật 151
  8. Nguyễn Đăng Hội pháp quốc tế) và thực tiễn, thậm chí không phải là cơ sở lịch sử lâu bền. Điều này đang là một cản trở không nhỏ ở vùng biển Vịnh Thái Lan giữa ta và Campuchia và giữa 4 bên: Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaysia. 2.3.2. Tiếp cận phân loại Việc phân loại biên giới trong nghiên cứu là cần thiết. Hơn nữa với một quốc gia có biên giới dài, “khổ” rộng và phức tạp (cả trên đất liền, trên biển) thì việc phân loại cần được vận dụng một cách linh hoạt. Trong quá trình đàm phán phân giới cắm mốc trên bộ với Trung Quốc, phương pháp tiếp cận này đã có lúc sử dụng. Đó là phân loại theo đặc điểm tự nhiên như vùng cửa sông Bắc Luân (ở phía đông), một phần theo dòng chảy sông Thao (ở phía tây). Hoặc theo nguồn gốc lịch sử mà căn cứ quan trọng là sử dụng đường biên giới cũ được thoả thuận trong Công ước Pháp – Thanh năm 1887 giữa chính Quyền Pháp và Triều đình Nhà Thanh (Trung Quốc). Tuy vậy, trong quá trình quản lí, sử dụng, không nên quá coi trọng đến kiểu loại để có chế độ phân biệt khu vực biên giới. Thực tế, dù phân loại theo kiểu gì thì cũng cần có chính sách bình đẳng đối với cộng đồng cư dân vùng biên. Cần có chính sách hợp lí về khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên cơ sở tiềm năng tự nhiên vốn có, tiềm lực con người (tại chỗ và từ bên ngoài, có khi là từ trên trung ương). 2.3.3. Tiếp cận chức năng Nếu như tiếp cận lịch sử - bản đồ là cơ sở quan trọng để phân định các biên giới trên bộ thì tiếp cận chức năng có ý nghĩa lớn trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường cho khu vực vùng biên. Điều này có nghĩa là, xác định chức năng khu vực biên giới không phải nhằm mục đích đòi hỏi chủ quyền, cũng không phải đòi hỏi quyền chủ quyền. Thực tiễn của nước ta hiện nay, cách tiếp cận chức năng tỏ ra phù hợp cho hầu hết các khu vực biên giới, đặc biệt là biên giới phía bắc và biên giới phía tây tiếp giáp với nước bạn Lào. Khu vực biển Vịnh thái Lan cũng tỏ ra phù hợp với cách tiếp cận này, bởi vì trong khi ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đảo là đối tượng để các bên đòi hỏi chủ quyền thì ở đây, vai trò của đảo lại như là dấu hiệu quan trọng để phân chia vùng biển, xác định đường biên giới biển. Rõ ràng, phương pháp chức năng cần được vận dụng để giải quyết vấn đề. Phân khu chức năng vùng biên cần gắn kết 2 yếu tố tự nhiên và nhân sinh. Các yếu tố sẽ được giới hạn về không gian nhưng vẫn chứa đựng “tính mở” theo các đơn vị hành chính lãnh thổ các cấp (hệ thống chính trị - lãnh thổ dưới quốc gia), trong đó đơn vị cấp huyện và tương đương là quan trọng. Nên phân tích, vận dụng triệt để các mối quan hệ vùng biên mà G House đã đề xuất. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta về phân chia lãnh thổ hành chính, các mối quan hệ dạng A1 – A2 và B1 – B2 không phải là yếu tố và dấu hiệu ưu tiên, nhất là đơn vị đó là cấp “xã”. 2.3.4. Tiếp cận địa chính trị Lịch sử nước ta trải dài qua rất nhiều giai đoạn khác nhau. Sự khác nhau này có điểm căn bản là sự khác nhau về thể chế. Quá trình mở mang bờ cõi là một thực tế khách 152
  9. Các phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu biên giới quốc gia quan của lịch sử, song nhiều khi ta cũng phải gánh chịu hậu quả của những quyết định đặt ra ngoài quyền lợi dân tộc. Trường hợp rõ rệt nhất về vấn đề biên giới là trong thời kì Pháp thuộc. Trong giai đoạn này, vấn đề lãnh thổ, quyền lợi dân tộc không được coi trọng. Hệ quả đó đã làm nên những thay đổi căn bản, đồng thời cũng là rào cản trong quá trình giải quyết biên giới hiện tại, nhất là vùng biển Vịnh Thái Lan. Khi nghiên cứu về biên giới, không nên tách rời yếu tố con người, xã hội và các giá trị văn hoá, kinh tế, chính trị và lịch sử. Vấn đề này sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn khi xác lập các đơn vị chính trị lãnh thổ biên giới như là hệ thống con trong hệ thống quốc gia chứa đựng các mối tương tác, mối quan hệ bên trong và bên ngoài. Vì lẽ đó, sự tác động lên một thành phần nào đó của hệ thống sẽ có ảnh hưởng tới các hợp phần còn lại, từ đó là căn nguyên làm thay đổi hệ thống ở các mức độ khác nhau. Sự thay đổi đó có thể là tích cực, cũng có thể là tiêu cực, phụ thuộc vào phương pháp giải quyết của chính quyền ở cấp độ quốc gia và địa phương vùng biên. Phương pháp tiếp cận địa chính trị cũng là sự xác lập cách giải quyết vấn đề ở khía cạnh không gian chính trị. Đó là tiếp cận không gian địa chính trị, trường địa chính trị và khu vực địa chính trị của vùng biên. Không gian địa chính trị cho phép giải quyết bài toán theo mối liên hệ vùng - miền; Trường địa chính trị đảm bảo giải quyết những mối tương tác lên vùng biên từ hai nước, có thể tương tác đó là thân thiện hoặc xung đột. Trường địa chính trị tỏ ra có hiệu quả khi giải quyết những khu vực hiện đang còn tranh cãi hay chưa thể giải quyết được mà chấp nhận để lại như một bài toán cho thế hệ tương lai (chẳng hạn như hiện đang tồn tại “trường trao đổi” giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vùng vịnh Bắc Bộ). Tiếp cận khu vực địa chính trị là việc làm rõ vị trí, vai trò của khu vực biên giới; xác định chức năng của hệ thống chính trị lãnh thổ trong vùng, của Việt Nam, thậm chí có sự so sánh với vùng phụ cận của nước láng giềng. Trên cơ sở đó, phải xác định đúng các mối quan hệ theo các thứ tự ưu tiên (sử dụng quan điểm “nhân tố trội”). 3. Kết luận Nghiên cứu biên giới không chỉ dừng lại ở việc xác định chủ quyền mà địa lí chính trị còn có nhiệm vụ đề xuất giải pháp khai thác tổng hợp, sử dụng và bảo vệ lãnh thổ vùng biên, vùng biển đảo trong các mối liên hệ một cách lâu bền với đơn vị lãnh thổ phía bên kia đường biên. Để phục vụ cho việc xác định đường biên giới, đảm bảo tính ổn định, chính phủ cần có những cơ sở tài liệu khoa học về địa lí, lịch sử nhất định Ngoài phương pháp tiếp cận hệ thống còn có bốn phương pháp tiếp cận nghiên cứu biên giới quốc gia được đang được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới, đó là: Tiếp cận lịch sử - bản đồ, tiếp cận phân loại, tiếp cận chức năng, tiếp cận địa chính trị. Mỗi cách tiếp cận như là góc độ nhìn nhận biên giới, do vậy khi nghiên cứu không nhất thiết phải tách bạch rạch ròi từng phương pháp tiếp cận. Việt Nam là nước có đường biên và vùng biên giới dài và phức tạp, các phương pháp tiếp cận cần được nghiên cứu vận dụng một cách phù hợp cho từng loại hình, từng đối tác cụ thể. Các phương pháp tiếp cận sẽ góp phần làm rõ hơn vấn đề, đồng thời đảm bảo tính khoa học, tính quốc tế trong giải quyết một vấn đề khó và nhạy cảm của không 153
  10. Nguyễn Đăng Hội chỉ quốc gia nào. Đây cũng là cơ sở để Việt Nam xác định mục tiêu căn bản và lâu dài là củng cố, phát triển vùng biên trên hầu hết các mặt như bất kỳ vùng nào khác của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Đăng Hội, 2007. “Những phạm trù cơ bản của Khoa học địa lí Chính trị và đinh hướng vận dụng ở Việt Nam”. T/c Khoa học Quân sự Việt Nam, Số 10, 2007, Hà Nội, tr 78-83. [2] Nguyễn Đăng Hội, 2008. “Trung Cận đông nhìn từ góc độ Địa lí chính trị”. Tuyển tập báo cáo khoa học Hội nghị Địa lí toàn quốc lần III, Hà Nội, tr.892-899. [3] Nguyễn Đăng Hội, 2010. “Một số vấn đề về lí thuyết và vận dụng nghiên cứu địa lí chính trị ở nước ta”. Tuyển tập báo cáo khoa học Hội nghị Địa lí toàn quốc lần V, Hà Nội, tr.1207-1218. [4] Yvơ Laccôxtơ, 1988. Những vấn đề địa chính trị Hồi giáo, biển, Châu Phi (Vũ Tự Lập dịch từ nguyên bản tiếng Pháp). Nhà in Thông tin tư liệu địa chất, Hà Nội, 252tr. [5] Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và tìm hiểu hiến pháp Việt Nam, 2013. Nxb Lao động – Xã hội. [6] House J.W., 1982. Frontier on the Rio Grande: A political geography of development and social deprivation. Oxford. [7] Luật biên giới Quốc gia năm 2003. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [8] Minghi J., 1963. “Boundary stadies in political geography”. Annual, association of Americal geographers, Vol.53. [9] Prescott J.R, 1987. Political frontiers and boundaries. London. [10] Sahtlin P., 1989. The making of France and Spain in the Pyrenees. Kerkeley. [11] Kolosov V. A., Mironhenko N. S., 2005. Geopolicy and Polical Goegraphy. “Aspect Press”, Moscow, 477p. [12] Dysankov P. A., 2006. Theory of International Relations “Gardariki”. Moscow, 590p. ABSTRACT Methods to determine national borders The determination of national borders is an important aspect of political geography science. Base on an analyzation of the specific characteristics of Vietnam, this paper proposes a way to apply this approach to all national borders. The approach is to clarify issues and ensure a scientific resolution of difficult and sensitive issues. This can allow Vietnam to define objectives and long-term goals to consolidate and develop the border region. 154
nguon tai.lieu . vn