Xem mẫu

  1. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN - GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM Nguyễn Đặng Hải Yến Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh Tóm tắt Các nghiên cứu gần đây cho thấy vai trò quan trọng của tài chính toàn diện trong xóa đói giảm nghèo và phát triển - ổn định kinh tế. Vấn đề này nhận được sự quan tâm đặc biệt từ các tổ chức phát triển quốc tế cũng như Chính phủ các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, bài viết tiến hành tổng hợp các nghiên cứu có liên quan đến việc nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính của các thành phần dân cư và doanh nghiệp nhất là nhóm dân số dễ bị tổn thương và các nhóm có nhu cầu chưa được đáp ứng tại các quốc gia đang phát triển. Kết quả cho thấy có 3 nhân tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện (1) Sự phát triển của thị trường tài chính: mạng lưới tài chính, sản phẩm tài chính, tổ chức tài chính và chính sách phát triển tài chính (2) Người tiêu dùng: giới tính, độ tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập…(3) Môi trường kinh tế - xã hội: truyền thông, mức độ cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở nhận diện các nhân tố ảnh hưởng, bài viết đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam. Đặt vấn đề Tài chính toàn diện có ý nghĩa to lớn đối với kinh tế xã hội của đất nước, là tiền đề quan trọng cho công tác xóa đói giảm nghèo, tăng trưởng bền vững, đang thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và các nhà kinh tế của các quốc gia. Hiện nay các quốc gia trên thế giới đã triển khai nhiều chương trình với mục tiêu phát triển tài chính toàn diện như Liên Hợp Quốc triển khai các chương trình thông qua quỹ đầu tư phát triển Liên Hợp Quốc; các nước G20 đã thống nhất bộ nguyên tắc cho tài chính toàn diện và đây cũng là những trọng tâm của kế hoạch hành động nhóm G20; ASEAN coi tài chính toàn diện là một trong ba trụ cột của tầm nhìn cộng đồng kinh tế ASEAN 2025 về hội nhập tài chính; Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á đã xây dựng các chương trình, dự án để thúc đẩy tài chính toàn diện tại nhiều quốc gia. Tính đến năm 2016 đã có 57 quốc gia cam kết thúc đẩy tài chính toàn diện, trong đó có 30 nước là các nước đang phát triển đang trong quá trình xây dựng chiến lược tài chính toàn diện cho quốc gia của mình. Theo Demirgüç-Kunt et al. (2012); (Khan, 2011) Tài chính toàn diện là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng tiết kiệm, giúp khởi nghiệp đầu tư, sản xuất từ đó giảm nghèo, bất bình đẳng và cung cấp các dịch vụ tài chính phù hợp, giá cả phải chăng cho người nghèo, cải thiện phúc lợi cho tầng lớp xã hội khó khăn. Tương tự, nghiên cứu của Hastak et al. (2015) đã khẳng định tài chính toàn diện là công cụ quan trọng đối với nhiều quốc gia đang phát triển nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tài chính của khu vực có thu nhập thấp, qua đó góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát triển kinh tế. Do đó tài chính toàn diện đặc biệt quan trọng đối với các nhóm yếu thế như người nghèo, phụ nữ trẻ em và cộng đồng nông thôn (Beck et al., 2009). Theo thống kê của (Demirgüç-Kunt et al., 2015) khoảng 2 tỷ người trưởng thành trên toàn thế giới (chiếm ¼ dân số thế giới) không có tài khoản cơ bản và hơn 200 triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nền kinh tế đang phát triển không có đủ vốn để mở rộng quy mô sản xuất. Tóm lại tài chính toàn diện giúp tạo điều kiện cho tất cả các khu vực đặc biệt là khu vực có thu nhập thấp tham gia vào nền kinh tế và hệ thống tài chính, tạo động lực cho khu vực tài chính phát triển và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của tài chính toàn diện đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, Chính phủ Việt Nam triển khai xây dựng một số đề án có mục tiêu sát với mục tiêu của Tài chính toàn diện như Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt 410
  2. Nam đến năm 2020, Đề án không dùng tiền mặt giai đoạn 2016-2020, Đề án phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đến năm 2020, Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế… Những đề án này tác động tích cực tới việc nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng, đặc biệt đã hướng tới việc mở rộng đối tượng tiếp cận dịch vụ cho dân cư nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên với nghiên cứu của Park et al. (2015), Tuệ (2017) cho thấy hiện nay ở Việt Nam mức độ tài chính toàn diện còn thấp. Từ thực tế đó, bài viết dựa vào các nghiên cứu trước đây, tổng hợp và đưa ra các nhân tố tác động đến tài chính toàn diện và trên cơ sở đó bài viết đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục vấn đề này ở mỗi quốc gia. 1. Tài chính toàn diện Một trong những khái niệm về tài chính toàn diện xuất hiện sớm nhất là của Leyshon. Theo Leyshon et al. (1995) tài chính toàn diện được hiểu đó là quá trình một số nhóm xã hội và cá nhân nhất định được tiếp cận với hệ thống tài chính chính thức. Theo Hannig et al. (2010) tài chính toàn diện thúc đẩy người dân không sử dụng dịch vụ ngân hàng sang sử dụng dịch vụ tài chính chính thức để họ có cơ hội tiếp cận dịch vụ từ tiết kiệm, thanh toán đến tín dụng và bảo hiểm. Tài chính toàn diện còn được hiểu là quá trình bảo đảm tiếp cận dịch vụ tài chính và nhu cầu tín dụng được đáp ứng cho đối tượng yếu hơn như nhóm khách hàng có thu nhập thấp với chi phí hợp lý. Những điều này được thể hiện qua khả năng tiếp cận tài khoản ngân hàng như tài khoản tiết kiệm, tín dụng và hệ thống thanh toán (Khan, 2011). Trong nghiên cứu của Sarma et al. (2011), ông lý giải tài chính toàn diện trên khía cạnh khả năng tiếp cận, tính khả dụng và sử dụng hệ thống tài chính. Với ông tài chính toàn diện được xem như một quá trình đảm bảo sự dễ dàng tiếp cận, tính khả dụng và sử dụng của hệ thống tài chính chính thức cho tất cả các thành viên của nền kinh tế. Cámara et al. (2014) cho rằng tài chính toàn diện là quá trình theo đó việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức được tối đa hóa, đồng thời giảm thiểu những rào cản đối với các cá nhân trong việc tham gia vào hệ thống tài chính chính thức. Và nó đảm bảo khả năng tiếp cận, tính khả dụng và sử dụng hệ thống tài chính chính thức cho tất cả các thành viên của nền kinh tế (Sarma, 2012). Demirgüç-Kunt et al. (2015) Tài chính toàn diện là việc cung cấp các dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi thành viên xã hội với mức chi phí hợp lý, thông qua những cách thức thuận tiện, phù hợp với tiêu chuẩn/điều kiện của khách hàng. Các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính hữu ích với giá cả phải chăng đáp ứng được nhu cầu của họ trong giao dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm. Từ các quan điểm trên cho thấy tài chính toàn diện có tính chất đa chiều, nó nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức cho tất cả các tầng lớp dân cư, đặc biệt là tầng lớp dân cư có thu nhập thấp và tạo cơ hội đồng đều, hạn chế bất bình đẳng trong nền kinh tế. Tóm lại tuy có các cách nhìn khác nhau, song khái niệm “tài chính toàn diện” cần bao hàm các nội dung chính: đa dạng về sản phẩm dịch vụ kể các tài chính và phi tài chính; đa dạng về đối tượng khách hàng; đa dạng về tổ chức cung ứng dịch vụ cả chính thức và bán chính thức; cuối cùng đa dạng về cách thức cung ứng sản phẩm dịch vụ theo kênh hiện đại và kênh truyền thống. Từ đây tài chính toàn diện được hiểu một cách tổng quát là quá trình đảm bảo khả năng tiếp cận tính sẵn sàng và khả năng sử dụng hệ thống tài chính chính thức cho tất cả mọi thành phần trong nền kinh tế. 2. Nhân tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện Tài chính toàn diện có vai trò trong việc phát triển kinh tế xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và giảm bất bình đẳng đã được các quốc gia ghi nhận. Vì vậy làm thế nào để thúc đẩy tài chính toàn diện là vấn đề được các quốc gia đặc biệt quan tâm. Các nghiên cứu gần đây chủ yếu tập trung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện. Tổng hợp các nghiên cứu, bài viết chia các nhân tố này làm ba nhóm: Sự phát triển của thị trường tài chính, người tiêu dùng và các nhân tố tác động khác. Cụ thể: 411
  3. 2.1. Đặc điểm người tiêu dùng Bên cạnh các yếu tố ngoại cảnh của thị trường tài chính, các yếu tố nội tại bản thân người tiêu dùng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của tài chính toàn diện như: Giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, thu nhập… (Pena et al., 2014), (Cámara et al., 2014), (Tuesta et al., 2015). Cụ thể:  Giới tính: Trong nghiên cứu của Tuesta et al. (2015) thực hiện tại Argentina với các biến giới tính, tuổi, trình độ giáo dục và thu nhập tới việc sử dụng tài chính toàn diện dựa trên mô hình hồi quy Probit. Theo ông biến giới tính biến không có ý nghĩa trong mô hình. Ngược lại với nghiên cứu (Cámara et al., 2014) cũng áp dụng mô hình Probit để tìm ra các biến ảnh hưởng đến việc sử dụng tài chính toàn diện tại Peru lại cho thấy giới tính là biến có ý nghĩa đối với việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính toàn diện. Đối với phụ nữ, sống ở khu vực nông thôn có mức thu nhập và trình độ giáo dục thấp có xu hướng không muốn tiếp cận nguồn tài chính chính thức.  Thu nhập: Nghiên cứu của Tuesta et al. (2015) và (Pena et al., 2014) thực hiện lần lượt tại hai quốc gia khác nhau cũng chỉ ra rằng thu nhập là biến quan trọng ảnh hưởng đến việc sử dụng các sản phẩm tài chính toàn diện. Khi tài chính của các cá nhân bị hạn chế đặc biệt những người có thu nhập thấp không thể đáp ứng các điều kiện của TCTC đưa ra như số dư tối thiểu, phí sử dụng dịch vụ… cũng làm rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức. Kết quả này góp phần khẳng định đặc điểm cá nhân người tiêu dùng là những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng tới việc sử dụng sản phẩm tài chính toàn diện của họ và nó cũng được phát hiện ở các nghiên cứu khác của (Kempson, 2000), (Pollard, 1995).  Trình độ nhận thức - mức độ thấp trong nhận thức về các dịch vụ tài chính: Nghiên cứu của (Pena et al., 2014) đã chỉ ra rằng trình độ học vấn là biến quan trọng nhất và có mối tương quan thuận với khả năng tiếp cận tài chính. Trình độ học vấn càng cao thì việc tìm các nguồn tài chính chính thức thay vì các nguồn tài chính phi chính thức càng cao. Mặt khác họ cũng có kiến thức, khả năng tiết kiệm cao hơn người có trình độ thấp. Điều này một lần nữa được khẳng định trong nghiên cứu của (Pollard, 1995), thiếu nhận thức liên quan đến các loại sản phẩm tài chính khác nhau và liệu chúng có đáp ứng các yêu cầu cụ thể hay không. Sự tự tin, thái độ và hành vi nhất định ngăn cản việc sử dụng, tin tưởng vào các sản phẩm tài chính đã tạo ra rào cản để truy cập. Khả năng sử dụng các dịch vụ tài chính công nghệ mới mà ngân hàng đang áp dụng như máy rút tiền / ATM, internet, ngân hàng di động có thể khiến mọi người ngại sử dụng các dịch vụ tài chính. Những rào cản như vậy có thể trầm trọng hơn đối với những người có trình độ học vấn phổ thông thấp, kể cả những người có giới hạn biết chữ và tính toán (Atkinson et al., 2013).  Thói quen: Việc sử dụng tiền mặt trở thành thói quen lâu nay của người dân. Bởi vì nhiều cá nhân cho rằng sử dụng tiền mặt dễ kiểm soát ngân sách của họ, đặc biệt khi thu nhập và chi tiêu không thể đoán trước. Ngoài ra thói quen này đến từ việc người dân còn chưa tin tưởng vào độ an toàn và bảo mật khi sử dụng các dịch vụ tài chính hiện nay (Kempson et al., 1999). 2.2. Sự phát triển của thị trường tài chính  Các yếu tố thị trường như số lượng các nhà cung ứng dịch vụ, rào cản địa lý ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của Tài chính toàn diện. Ở một số nền kinh tế thị trường tài chính rất mới, có rất ít các nhà cung cấp và cung ứng thấp, thậm chí các nhà cung ứng dịch vụ chỉ tập trung kinh doanh vào các đối tượng mang lại lợi nhuận nhiều hơn hoặc ít rủi ro tiềm tàng hơn. Những đối tượng nghèo, dễ tổn thương, điều kiện khó khăn, trình độ dân trí thấp, bị loại trừ ra ngoài phạm vi cung ứng dịch vụ tài chính của các tổ chức này bằng cách đưa ra các điều khoản, điều kiệu ràng buộc quá cao (Ford et al., 1996). Với yếu tố địa lý, nghiên cứu của (Tuesta et al., 2015) đã chỉ ra rằng khoảng cách địa lý giữa khu dân cư và các điểm giao dịch là một trong những rào cản quan trọng đối với việc tiếp cận tài chính toàn diện của người dân. Điều này cũng được khẳng định trong kết quả nghiên cứu tại các quốc gia khác nhau như (Pena et al., 2014), (Kumar, 2013). Hiện nay ở một số nước kém phát triển, các nhà cung cấp dịch vụ rất ngại mở nhiều chi nhánh ở khu vực nông thôn hoặc khu vực có lợi nhuận thấp, tạo ra một rào cản để khách hàng có thể tiếp tục sử dụng dịch vụ (Kempson, 2000), (Pollard, 1995). 412
  4.  Đặc điểm và chính sách phát triển của các tổ chức cung ứng dịch vụ, đặc biệt ngân hàng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tài chính toàn diện. Nghiên cứu của (Sarma et al., 2008) xem xét sự ảnh hưởng của các biến như: tỷ lệ tài sản không hiệu quả của ngân hàng, tỷ lệ vốn trên tổng tài sản, tỷ lệ lãi suất, ngân hàng quốc doanh, ngân hàng nước ngoài tại 20 quốc gia trên thế giới, cho thấy rằng tỷ lệ tài sản không hiệu quả và tỷ lệ vốn trên tổng tài sản, ngân hàng quốc doanh có ảnh hưởng tiêu cực tới phát triển tài chính toàn diện. Song hai biến ngân hàng quốc doanh và tỷ lệ lãi suất không có ý nghĩa trong mô hình ông thiết lập.  Yếu tố cuối cùng, sự thiếu các sản phẩm tài chính phù hợp với người dân, đặc biệt với nhóm có thu nhập thấp. Ví dụ yêu cầu duy trì tối thiểu khi mở tài khoản tại ngân hàng quá cao, do vậy nhiều tài khoản bị đóng khi không đáp ứng được điều kiện trên (Shankar, 2013). Hay những sản phẩm tín dụng đòi hỏi các thủ tục giấy tờ chứng minh khả năng trả nợ, chi phí dịch vụ quá cao hoặc các tài sản đảm bảo khiến cho người thu nhập thấp không đáp ứng được. Hay sự phức tạp về thủ tục hành chính và việc khó khăn trong việc cung cấp tài liệu của người tiêu dùng cũng khiến họ không thể đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính, do vậy họ ngại sử dụng các dịch vụ, sản phẩm của tổ chức này (Cámara et al., 2014). 2.3. Môi trường kinh tế - xã hội Môi trường kinh tế xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc định hướng tiêu dùng nói chung và định hướng sử dụng sản phẩm tài chính nói chung bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức, văn hóa và xu hướng sử dụng sản phẩm của người dân. Do đó các sản phẩm tài chính toàn diện cũng có ảnh hưởng một phần nhất định.  Cấu trúc dân số: Nghiên cứu của Park et al. (2015) tại 37 nền kinh tế châu Á chỉ ra rằng cấu trúc dân số trong xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển tài chính toàn diện của quốc gia. Quốc gia nào có cấu trúc dân số già hóa và tỷ lệ phụ thuộc cao thì tài chính toàn diện có xu hướng kém phát triển hơn. Điều đó cũng dễ dàng thấy khi độ tuổi vượt quá ngưỡng giới hạn thì nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính có xu hướng giảm đi.  Phân biệt giới tính: Yếu tố thứ hai trong nhóm nguyên nhân này có thể kể đến chính là việc phân biệt giới tính mà nghiên cứu của Asli et al. (2013) tại 98 đất nước đang phát triển như… phát hiện. Theo đó, phụ nữ là thành phần phải chịu các quy định chặt chẽ hơn so với nam giới trong khả năng thực hiện công việc, do vậy số lượng phụ nữ có tài khoản tín dụng, tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng chính thức chiếm tỷ lệ rất thấp.  Cơ sở hạ tầng: Nghiên cứu của Sarma et al. (2008) về mối quan hệ giữa các biến cơ sở hạ tầng xã hội, bất bình đẳng, đô thị hóa tại các nước phát triển như Austria, Pakistan, Russia… chỉ ra rằng cơ sở hạ tầng là biến quan trọng nhằm mục đích kết nối thông tin đến mọi người, có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp cận tài chính của người dân. Kết luận này một lần nữa được khẳng định trong nghiên cứu của Leyshon et al. (1996) đưa ra kết quả cho thấy hạ tầng xã hội mạng lưới giao thông, điện thoại, mạng lưới cung cấp thông tin như báo, đài, tivi, internet có tác động tích cực đến việc phát triển tài chính toàn diện, đặc biệt là yếu tố thông tin truyền thông. Với kết quả nghiên cứu này phần nào giải thích được tại sao khả năng tiếp cận sử dụng dịch vụ tài chính ở khu vực nông thôn thấp kém hơn thành thị.  Điều kiện và sự phát triển ở địa phương: Đây cũng là nhân tố tác động tích cực đến tài chính toàn diện vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến thu nhập, mức sống của người dân (Kumar, 2013). Điều này cũng dễ hiểu bởi vì khi cuộc sống người dân được cải thiện thì nhu cầu sử dụng các sản phẩm tài chính mới được nâng cao. Nhận định này cũng được lý giải trong nghiên cứu của (Sarma et al., 2008), GDP bình quân đầu người có ảnh hưởng tích cực đến tài chính toàn diện và nó được khẳng định lại trong nghiên cứu của (Park et al., 2015) khi ông đưa thu nhập bình quân đầu người là biến có ý nghĩa trong mô hình tài chính toàn diện. 3. Thực trạng tiếp cận tài chính tại Việt Nam Ở Việt Nam, một tỷ lệ đáng kể người dân không có cơ hội tiếp cận dịch vụ tài chính chính thức, cơ hội tiếp cận chung và sử dụng dịch vụ tài chính chính thức vẫn còn thấp so 413
  5. với các quốc gia khác trong khu vực, tuy nhiên cũng đã có cải thiện đáng kể trong những năm qua. Theo dữ liệu Findex 2014, 31% số người trưởng thành và 19% số người nghèo có tài khoản ngân hàng chính thức; số liệu tương tự theo Findex 2011 tương ứng là 21% và 6%. Số người Việt Nam gửi tiền tiết kiệm tại một định chế tài chính chính thức tăng gần gấp đôi từ 8% năm 2011 lên 15% năm 2014; số khoản vay từ tổ chức tín dụng chính thức tăng lên 18,4% năm 2014 từ mức 16,2% năm 2011 và sử dụng thẻ ghi nợ tăng lên 27% năm 2014 từ 15% năm 2011; tỷ lệ người trưởng thành vay tiền của bạn bè vẫn giữ ở mức tương đối ổn định, khoảng 30%. Bảng 1: Các chỉ số cơ bản về tài chính toàn diện từ Global Findex 2014 Tài khoản tại Quốc gia Tiết kiệm chính thức Vay chính thức định chế chính thức AD F RU PO LE AD F RU PO LE AD F RU PO LE Camphuchia 12,6 10,7 11,4 8,8 10,5 3,6 2,6 3,0 2,7 3,1 27,7 29,4 28,5 25,8 29,3 Trung Quốc 78,9 76,4 74,3 72,0 72,8 41,1 41,2 37,5 30,5 37,1 9,6 8,7 7,5 5,9 7,1 Indonesia 35,9 37,2 28,5 21,9 15,8 26,6 26,8 21,3 13,8 11,0 13,1 11,2 11,4 11,3 9,5 Malaysia 80,7 78,1 73,7 75,6 58,6 33,8 32,3 32,6 25,6 22,3 19,5 16,6 17,0 15,2 9,5 Philippines 28,1 33,9 24,6 14,9 15,2 14,8 15,9 11,2 4,9 6,2 11,8 13,6 12,2 8,2 7,7 Thái Lan 78,1 75,4 78,2 72,0 73,2 40,6 37,9 35,8 31,3 38,1 15,4 13,7 16,7 16,2 14,7 Việt Nam 30,9 31,9 27,0 18,7 15,3 14,6 13,7 11,9 9,1 9,0 18,4 21,3 20,7 19,9 24,8 Nguồn: Chương trình Hỗ trợ quốc gia Việt Nam của Ngân hàng Thế giới AD: Tất cả người trưởng thành. F: Nữ. RU: Dân số nông thôn. PO: người nghèo, có thu nhập thấp nhất. LE: ít được đi học - chỉ ở cấp tiểu học. Các tổ chức phi chính thức đóng một vai trò quan trọng cho tiếp cận tài chính ở Việt Nam và là nơi cung cấp dịch vụ tài chính lớn nhất cho phân khúc thu nhập thấp. Dữ liệu từ Global Findex 2014 cho thấy 46,8% người trưởng thành đã vay tiền trong năm, trong đó chỉ có 18,4% có khoản vay từ một tổ chức tín dụng chính thức, thực tế này cho thấy khu vực chính thức chưa đáp ứng được nhu cầu và do vậy người dân phải tìm đến những nguồn phi chính thức. Hiện chỉ có bốn tổ chức tài chính vi mô (MFIs) được cấp phép đang hoạt động ở Việt Nam. Mức độ bao phủ còn thấp và phần lớn độ bao phủ này là thông qua các MFIs chưa được cấp phép. Tuy nhiên, các MFIs đã có mặt ở những khu vực vùng sâu vùng xa, và có tiềm năng tăng trưởng đáng kể. Tăng trưởng vẫn còn hạn chế một phần do hiệu ứng chèn lấn từ các sản phẩm do VBSP cung cấp, nhưng một phần cũng có hạn chế về năng lực, tình trạng phụ thuộc cao vào nhà tài trợ và tình trạng chưa rõ ràng của các quy định liên quan đến yêu cầu về thuế và báo cáo. Bên cạnh đó, trình độ/kiến thức và năng lực tài chính của người dân còn hạn chế, đặc biệt là người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa. Dữ liệu từ khảo sát về mức độ kiến thức tài chính của Standard & Poor’s 2014 cho thấy Việt Nam xếp hạng thấp hơn phần lớn các quốc gia khác trong khu vực khi chỉ có 1/4 dân số được xếp hạng là “có hiểu biết tài chính”. Ở Việt Nam, chưa có chương trình giáo dục về tài chính hay chiến lược về tăng cường năng lực tài chính. Việc sử dụng thuật ngữ “năng lực tài chính” thay vì “kiến thức tài chính” là nhằm nhấn mạnh trọng tâm vào hỗ trợ hành vi tài chính tích cực bên cạnh việc chuyển tải thông tin. 414
  6. Bảng 2: Điểm kiến thức tài chính từ dịch vụ xếp hạng của Standard & Poor’s khảo sát kiến thức tài chính toàn cầu Quốc gia Người trưởng thành có kiến thức về tài chính (%) Campuchia 18 Trung Quốc 28 Indonesia 32 Malaysia 36 Philippines 25 Thái Lan 27 Việt Nam 24 Nguồn: Chương trình Hỗ trợ quốc gia Việt Nam của Ngân hàng Thế giới Thêm vào đó, khuôn khổ luật pháp và thể chế để bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính và cơ chế giám sát hoạt động này hiện vẫn ở giai đoạn phát triển non trẻ, còn chưa đồng bộ. Ngoài ra, chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý trong lĩnh vực tài chính chịu trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng. 4. Giải pháp thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam Thứ nhất, mở rộng ngân hàng đại lý trên toàn quốc. Việc làm này khắc phục được rào cản địa lý. Phát triển ngân hàng đại lý cho phép các tổ chức tài chính tiếp cận với dân số chưa được phục vụ đặc biệt là người dân các vùng nông thôn, vùng sâu và vùng xa. Việc mở rộng ngân hàng đại lý trên toàn quốc giúp cho Chính phủ đạt được mục tiêu tạo điều kiện tiếp cận dịch vụ tài chính cho công dân nghèo và những người chưa có điều kiện tiếp cận với ngân hàng. Bên cạnh đó các dịch vụ ngân hàng sẽ được phân phối thông qua việc sử dụng công nghệ, cho phép mọi thành phần dân cư và doanh nghiệp nhất là nhóm dân số dễ bị tổn thương và các nhóm có nhu cầu chưa được đáp ứng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chất lượng với giá cả phải chăng. Thứ hai, tạo lòng tin cho khách hàng. Để làm được điều đó về phía ngân hàng, các biện pháp kĩ thuật nhằm giữ an toàn cho tiền trên tài khoản và thông tin riêng tư về khách hàng cần được triển khai. Tăng cường các lớp xác thực qua SMS, OTP, nghiên cứu bổ sung thêm giải pháp bảo mật, xác thực trước khi hoàn thành giao dịch thanh toán. Các ngân hàng phải ứng dụng giải pháp ngân hàng lõi (Core Banking Solution) cho tất cả các chi nhánh và thực hiện các giải pháp tích hợp cho toàn hệ thống ngân hàng. Mặt khác, các ngân hàng cần thiết phát triển sản phẩm cho khách hàng với thu nhập thấp và các đối tượng không có khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính như sản phẩm bảo hiểm, quỹ tương hỗ, tài khoản tiết kiệm, thấu chi, sản phẩm kiều hối. Ngoài ra từ phía cơ quan nhà nước cần có các chế tài nghiêm ngặt về việc tuân thủ kỉ luật thị trường, về chế độ bảo mật thông tin và bảo vệ người tiêu dùng. Thứ ba, thay đổi hành vi của người tiêu dùng. Kết quả của thói quen được hình thành qua nhiều năm và một loạt các yếu tố cảm xúc và tâm lý mọi người thường tiếp tục với các mẫu hành vi cũ ngay cả khi họ có kiến thức và kỹ năng thay đổi. Thay đổi hành vi được thực hiện khó khăn hơn khi tài nguyên khan hiếm và tin tưởng bị hạn chế, vì thường là trường hợp khi làm việc với các nhóm bị cách ly. Hơn nữa, thay đổi hành vi có thể xảy ra một thời gian sau khi nhận được giáo dục tài chính, làm cho nó khó khăn để xác định một mối quan hệ nhân quả. Tiền đề cơ bản của các chương trình như vậy là một khi các cá nhân đã nhận được giáo dục tài chính, họ sẽ bắt đầu yêu cầu và sử dụng các sản phẩm tài chính thích hợp để tăng cường tài chính của họ. 415
  7. Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động giáo dục tài chính. Hiện nay giáo dục tài chính đã trở thành một trong những trụ cột chính trong chiến lược tài chính toàn diện của nhiều quốc gia. Giáo dục tài chính có thể cải thiện mức độ hiểu biết về tài chính, giúp cá nhân vượt qua rào cả tâm lý, địa lý, thói quen để sử dụng các dịch vụ tài chính mới, ứng dụng công nghệ mới. Tuy nhiên, giáo dục sẽ không hoạt động độc lập. Trong bối cảnh này, các nhà hoạch định chính sách đã nhận ra tầm quan trọng của việc tăng cường các nỗ lực để phát triển các chiến lược giáo dục tài chính được thiết kế tốt và các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng tài chính đầy đủ cùng với các sáng kiến bên cung cấp để kích thích sự bao gồm tài chính. Đối với Việt Nam việc triển khai giáo dục tài chính đặt ra một nhu cầu thiết thực hướng tới nhiều đối tượng mục tiêu khác nhau, cụ thể là nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của đa số tầng lớp dân cư và các doanh nghiệp Việt Nam, bên cạnh việc bảo vệ người tiêu dùng trước sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của các loại hình dịch vụ ngân hàng và đối tượng cung ứng trong bối cảnh hội nhập, góp phần đem lại cơ hội ngang nhau cho mọi đối tượng tầng lớp dân cư đối với các nguồn lực và tiện ích tài chính để phát triển. Thứ năm, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thanh toán điện tử tạo điều kiện tiếp cận tài chính. Các tổ chức cung ứng dịch vụ cần xây dựng cơ sở vật chất, mở rộng thanh toán điện tử tạo điều kiện tiếp cận tài chính. Hiện nay việc sử dụng các công cụ tài chính thanh toán điện tử vẫn còn hạn chế, tiền mặt vẫn được sử dụng rộng rãi trong thanh toán bán lẻ. Thanh toán điện tử làm giảm chi phí cung cấp tài chính cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính và cho bên tham gia, thắt chặt các mắt xích trong chuỗi giá trị thông qua thanh toán nhanh hơn và có thể theo dõi được. Do đó cần cải thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống thanh toán để bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế của quốc gia, cần sử dụng hiệu quả hơn công nghệ. Để làm được điều đó, Chính phủ cần tăng cường áp dụng các hình thức thanh toán điện tử để thúc đẩy dịch vụ tài chính ở diện rộng. Ngoài ra các tổ chức cung ứng dịch vụ cung cấp các dịch vụ tín dụng, tiết kiệm và bảo hiểm với chi phí thấp thông qua các kênh điện tử để tăng cường sự gắn kết và tạo điều kiện đầu tư. Thứ sáu, các quy định và luật lệ nên chú trọng đến những tiến bộ mới nhất của công nghệ thông tin và truyền thông, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả người chơi, đặc biệt là đối tượng dựa và công nghệ sáng tạo mới dịch vụ thanh toán qua bên thứ ba. Mặt khác những rào cản chính sách cũng nên dỡ bỏ để các dự án đầu tư, nghiên cứu mới nhanh chóng được đi vào hoạt động. Tuy nhiên hiện nay ngoại trừ khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực thanh toán của các doanh nghiệp Fintech, các lĩnh vực khác như gọi vốn, cho vay… chưa có khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh. Do đó trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần ban hành các văn bản pháp lý điều chỉnh các hoạt động khác của các công ty này. Điều này tạo cơ hội nhiều hơn cho các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa có thể tiếp cận được các dịch vụ tài chính thông qua các trung gian cung cấp chính thức. Thứ bảy, với những nhà đầu tư tham gia vào thị trường, luôn phải có sự cải tiến sáng tạo về công nghệ. Đó có thể là những ứng dụng trên điện thoại hoạt động với ngay cả các điện thoại ít tiền để cho phương thức thanh toán di động trở nên khả thi đối với tất cả mọi người, đặc biệt là những nước có thu nhập thấp như ở Việt Nam. Những thay đổi về công nghệ có thể bao gồm sử dụng hình ảnh thay vì chữ viết, nhận dạng khuôn mặt, sử dụng vân tay hoặc có thể chỉ cần vẩy điện thoại gần về phía người nhận tiền sử dụng dụng công nghệ Near field communications (NFC). 5. Kết luận Hiện nay Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia do đó việc xác định đúng các nguyên nhân và đưa ra các biện pháp hiệu quả là việc làm cần thiết và cấp bách để đạt được mục tiêu kế hoạch đã đặt ra. Mỗi giải pháp đưa ra đều nhắm đến việc giúp người dân có thể truy cập, sử dụng các dịch vụ tài chính một cách nhanh chóng, mang lại hiệu quả cao đối với bản thân người sử dụng dịch vụ tài chính,với nhà cung cấp và trên hết là hiệu quả đối với nền kinh tế. Trong đó trình độ học vấn, nhận thức về tài chính cơ bản là trình điều khiển chính và đã được nhấn mạnh trong Chiến lược của mỗi quốc gia khi phát triển tài chính toàn diện. 416
  8. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Asli, D.-K., & Klapper Leora, F. (2013). Financial Inclusion and Legal Discrimination against Women: Evidence from Developing Countries. World Bank Policy Research Working Paper, 6416. 2. Atkinson, A., & Messy, F.-A. (2013). Promoting financial inclusion through financial education. 3. Beck, T., Demirgüç-Kunt, A., & Honohan, P. (2009). Access to financial services: Measurement, impact, and policies. The World Bank Research Observer, 24(1), 119-145. 4. Cámara, N., & Tuesta, D. (2014). Measuring Financial Inclusion: A Muldimensional Index. 5. Demirgüç-Kunt, A., & Klapper, L. (2012). Measuring financial inclusion. Brookings Papers on Economic Activity, Spring, 279-340. 6. Demirgüç-Kunt, A., Klapper, L. F., Singer, D., & Van Oudheusden, P. (2015). The global findex database 2014: Measuring financial inclusion around the world. 7. Ford, J., & Rowlingson, K. (1996). Low-income households and credit: exclusion, preference, and inclusion. Environment and Planning A, 28(8), 1345-1360. 8. Hannig, A., & Jansen, S. (2010). Financial inclusion and financial stability: Current policy issues. 9. Hastak, A. C., & Gaikwad, A. (2015). Issues relating to financial inclusion and banking sector in India. The Business & Management Review, 5(4), 194. 10. Kempson, E. (2000). In or out?: Financial exclusion: Literature and research review: Financial Services Authority. 11. Kempson, E., & Whyley, C. (1999). Kept out or opted out. Understanding and. 12. Kumar, N. (2013). Financial inclusion and its determinants: evidence from India. Journal of Financial Economic Policy, 5(1), 4-19. 13. Khan, H. R. (2011). Financial inclusion and financial stability: Are they two sides of the same coin. Speech at BANCON. 14. Leyshon, A., & Thrift, N. (1995). Geographies of financial exclusion: financial abandonment in Britain and the United States. TRANSACTIONS-INSTITUTE OF BRITISH GEOGRAPHERS, 20, 312-312. 15. Leyshon, A., & Thrift, N. (1996). Financial exclusion and the shifting boundaries of the financial system. In: SAGE Publications Sage UK: London, England. 16. Park, C.-Y., & Mercado, R. (2015). Financial inclusion, poverty, and income inequality in developing Asia. 17. Pena, X., Hoyo, C., & Tuesta, D. (2014). Determinants of financial inclusion in Mexico based on the 2012 National Financial Inclusion Survey (ENIF). Retrieved from 18. Pollard, J. S. (1995). Industry change and labor segmentation: the banking industry in Los Angles, 1970-1990. University of California, Los Angeles, 19. Sarma, M. (2012). Index of Financial Inclusion-A measure of financial sector inclusiveness. Money, Trade, Finance, and Development Competence Centerin cooperation with DAAD Partnership and Hochschule für Technik und Wirschaft Berlin University of Applied Sciences. Working Paper(07). 417
  9. 20. Sarma, M., & Pais, J. (2008). Financial inclusion and development: A cross country analysis. Paper presented at the Annual Conference of the Human Development and Capability Association, New Delhi. 21. Sarma, M., & Pais, J. (2011). Financial inclusion and development. Journal of international development, 23(5), 613-628. 22. Shankar, S. (2013). Financial Inclusion in India: Do Microfinance Institutions Address Access Barriers. ACRN Journal of Entrepreneurship Perspectives, 2(1), 60-74. 23. Tuesta, D., Sorensen, G., Haring, A., & Camara, N. (2015). Financial inclusion and its determinants: the case of Argentina. Retrieved from 24. Tuệ, N. Đ. (2017). Đo lường phổ cập tài chính tại Việt Nam. Paper presented at the Thúc đẩy tiếp cận tài chính tại Việt Nam., Việt Nam. 418
nguon tai.lieu . vn