Xem mẫu

  1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Trần Quốc Thịnh Trần Ngọc Anh Thư Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh Hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) là việc sử dụng các thủ thuật thông qua các chính sách kế toán nhằm chi phối có chủ đích trong việc cung cấp thông tin đến người sử dụng, trong đó các nhân tố liên quan đến chỉ số tài chính có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi QTLN. Bài viết sử dụng phương pháp kiểm định với 150 mẫu của 30 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong thời gian 5 năm từ 2015- 2019. Kết quả hồi quy OLS cho thấy 4 biến có ý nghĩa, trong đó 2 biến tác động cùng chiều đến hành vi QTLN là đòn bẩy tài chính và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, và 2 biến có tác động ngược chiều là quy mô ngân hàng và tỷ suất sinh lời. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số gợi ý chính sách cho Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) nhằm hạn chế hành vi QTLN của các NHTM Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng thông tin kế toán. Từ khóa: chỉ số tài chính, hành vi quản trị lợi nhuận, ngân hàng thương mại Influence of factors on profit management behavior at Vietnam joint stock commercial banks Abstract: Profit management behavior (PMB) is the use of procedures through accounting policies to intentionally govern the provision of information to users, including factors related to financials indicators that have a significant influence on the behavior of PMB. The paper uses a test method with 150 samples of 30 joint stock commercial banks in Vietnam for 5 years from 2015 to 2019. The OLS regression results show that there are 4 significant variables, of which 2 variables with positive effects on the risk management behaviors, namely financial leverage and provision for credit losses, and 2 variables with opposite effects are bank size and profitability ratio. Based on that, the article proposes a number of policy suggestions to the State Bank to limit the PMB of Vietnamese commercial banks to contribute to improving the quality of accounting information. Keywords: financials indicators, profit management behavior, commercial banks Thinh Quoc Tran Email: thinhtq@buh.edu.vn Thu Ngoc Anh Tran Email: tqthinhkt@gmail.com Organization of all: Banking University of Ho Chi Minh City Ngày nhận: 19/04/2020 Ngày nhận bản sửa: 00/00/2019 Ngày duyệt đăng: 15/00/2019 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng © Học viện Ngân hàng Số 217- Tháng 6. 2020 12 ISSN 1859 - 011X
  2. TRẦN QUỐC THỊNH - TRẦN NGỌC ANH THƯ 1. Đặt vấn đề các biến thuộc cơ cấu sở hữu (tỷ lệ sở hữu của tổ chức trong nước, sở hữu của Nhu cầu sử dụng các thông tin kế toán nhà quản lý, sở hữu của nhà nước và mức được thể hiện thông qua các thông tin độ tập trung quyền sở hữu). Có thể thấy, trên báo cáo tài chính (BCTC) của các NHTM có vai trò quan trọng huyết mạch đối tượng sử dụng thông tin ngày càng trong nền kinh tế quốc gia. Việc nâng cao gia tăng. Các thông tin được công bố trên chất lượng thông tin liên quan đến CSTC BCTC là cơ sở hỗ trợ cho các đối tượng sử trên BCTC là yếu tố quan trọng để đảm dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh bảo sự tin cậy cho người sử dụng, cũng tế hợp lý. Trong nhiều chỉ tiêu tài chính, như sự phát triển bền vững của hệ thống lợi nhuận là chỉ tiêu được các nhà đầu tư ngân hàng và thị trường tài chính. quan tâm nhiều nhất và cũng là chỉ tiêu mà các nhà quản lý (NQL) có xu hướng thao 2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa túng hay tác động vào nhiều nhất. Khi thông tin về chỉ số tài chính và quản trị chịu sự thao túng của NQL, các thông tin lợi nhuận tài chính nói chung và thông tin về chỉ tiêu lợi nhuận nói riêng của các doanh nghiệp 2.1. Các khái niệm liên quan trở nên không đáng tin cậy. Sự thao túng này còn được gọi là hành vi Quản trị lợi Hành vi quản trị lợi nhuận nhuận (QTLN). QTLN (Earnings Management) là “một Trên thế giới, việc xem xét sự ảnh hưởng mảng tối” mà ở đó kết quả của công việc của các nhân tố đến hành vi QTLN đã và kế toán đã bị nhà quản lý “cắt gọt” ở một đang nhận được rất nhiều sự quan tâm số khía cạnh (Levitt, 1998). Tuy vậy, nếu của các nhà nghiên cứu, tuy đa phần các phương pháp kế toán được áp dụng nằm nghiên cứu là các doanh nghiệp phi tài trong khuôn khổ của chuẩn mực kế toán, chính. Nhìn chung, tại các doanh nghiệp thì hành vi QTLN là tuân thủ khuôn khổ nói chung và các NHTM các nói riêng, pháp lý, là sự vận dụng khéo léo, linh hoạt đối với nghiên cứu về mối quan hệ giữa và phù hợp chuẩn mực kế toán để trình bày hành vi QTLN và các chỉ số tài chính BCTC theo cách thuận lợi nhất cho công ty (CSTC) tiêu biểu như tỷ suất sinh lời, đòn hay cho chính NQL chứ không phải là hành bẩy tài chính, quy mô doanh nghiệp, tính động phi pháp (Rahman và các cộng sự, thanh khoản được cho là có mối quan hệ 2013). Healy và Wahlen (1999) cho rằng, với hành vi QTLN (Shen, 2016; Gombola đây là hành vi điều chỉnh kết quả hoạt động và các cộng sự, 2016; Moghaddam và của doanh nghiệp được thực hiện bởi các Abbaspour, 2017; Alhadab và Al-Own, NQL nhằm định hướng quyết định của các 2017). Trong khi đó, việc nghiên cứu nhà đầu tư theo ý muốn chủ quan của họ. vấn đề QTLN tại Việt Nam được một số Các NQL có thể sử dụng những đánh giá tác giả quan tâm nhưng tập trung vào đối chủ quan của mình để thao túng các thông tượng là các doanh nghiệp. Riêng nghiên tin về lợi nhuận nhằm làm đẹp BCTC và cứu về hành vi QTLN đối với NHTM thì che đậy những điểm yếu trong kết quả kinh không phổ biến, ngoại trừ nghiên cứu của doanh của doanh nghiệp (Leuz và các cộng Trần Quốc Thịnh và Nguyễn Đức Phước sự, 2003). Có rất nhiều tranh cãi về định (2018), nhưng nghiên cứu quan tâm đến nghĩa của hành vi QTLN, tuy nhiên, dù là Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 13
  3. Ảnh hưởng của các nhân tố đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam “hợp pháp” hay “bất hợp pháp” thì thực chi phí giám sát, chi phí thưởng cho NQL. hiện hành vi này sẽ ảnh hưởng đến chất Lý thuyết đại diện thường được vận dụng lượng thông tin được công bố trên BCTC trong các nghiên cứu nhằm kiểm chứng sự (Schipper, 1989). ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến các CSTC trên BCTC và điều này có ảnh Các chỉ số tài chính hưởng đến hành vi QTLN. Khan (2019) cho rằng CSTC thể hiện những Lý thuyết thông tin bất cân xứng thông tin tổng quát của các BCTC và được (Asymmestry Information theory) sử dụng cho mục đích so sánh. Bằng những phép tính toán, mối quan hệ giữa các yếu Lý thuyết thông tin bất cân xứng lần đầu tố tài chính khác nhau được làm rõ thông tiên được đề cập trong nghiên cứu của qua các CSTC khác nhau (Foster, 1978). Akerlof (1970). Theo đó, hiện tượng thông Brigham và Ehrhardt (2005) cho rằng có rất tin bất cân xứng xảy ra khi một bên có nhiều cách để có thể đánh giá tình hình tài ít thông tin hơn hoặc có thông tin không chính của một doanh nghiệp. Gitman (2009) chính xác so với bên đối tác. Điều này cho rằng các NQL sẽ sử dụng các CSTC liên khiến cho bên có ít thông tin hơn có những quan đến việc đánh giá tình hình tài chính quyết định không chính xác và đồng thời, tổng quan của doanh nghiệp hay đánh giá bên có nhiều thông tin hơn cũng sẽ có tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, những hành vi gây bất lợi cho bên đối để từ đó có thể đưa ra những chiến lược hoạt tác. Godfrey và các cộng sự (2003) cho động phù hợp. rằng sự mất cân đối về mặt thông tin giữa người lập BCTC và người có nhu cầu sử 2.2. Các lý thuyết nền tảng dụng thông tin là luôn tồn tại. Các doanh nghiệp có xu hướng không công bố những Lý thuyết đại diện (Agency theory) thông tin gây tổn hại đến mình và ngược lại, các thông tin có lợi cho doanh nghiệp Lý thuyết đại diện được phát triển đầu tiên thường được cung cấp một cách chi tiết bởi Jensen and Meckling (1976). Tác giả và đầy đủ hơn (Staubus, 2000). Lý thuyết đã xác định mối quan hệ đại diện được thông tin bất cân xứng thường được vận thể hiện thông qua một hợp đồng, theo dụng trong các nghiên cứu nhằm kiểm đó, bên được ủy nhiệm (agents) sẽ thực chứng sự ảnh hưởng của các nhân tố thuộc hiện một số công việc đại diện cho bên ủy các CSTC đến hành vi QTLN. nhiệm (principles), chẳng hạn như trong hợp đồng giữa cổ đông và NQL, các cổ 2.3. Các nghiên cứu trước có liên quan đông ủy nhiệm cho NQL quyền sử dụng vốn của mình để kinh doanh. Jensen and Một số nghiên cứu trên thế giới đã tiến Meckling (1976) cho rằng cả hai bên (bên hành xem xét các biến liên quan đến ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm) đều CSTC ảnh hưởng hành vi QTLN của muốn tối đa hóa lợi ích của mình, chính NHTM. Shen (2016) sử dụng dữ liệu của vì vậy, sự xung đột về lợi ích luôn tồn tại 16 ngân hàng niêm yết tại Trung Quốc trong mối quan hệ này. Điều này sẽ làm trong khoảng thời gian từ 2005- 2014 để phát sinh các chi phí đại diện- chi phí trả kiểm tra tác động của một số biến kiểm cho sự xung đột lợi ích giữa hai bên như soát như tỷ lệ nợ vay, tỷ lệ biến động nợ 14 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020
  4. TRẦN QUỐC THỊNH - TRẦN NGỌC ANH THƯ vay… đến hành vi QTLN của ngân hàng và Al-Own (2017) nghiên cứu về mối ở cả hai khu vực là ngân hàng tư nhân và quan hệ giữa hành vi QTLN và kết quả Nhà nước. Shen (2016) đã đề xuất sử dụng hoạt động (được đại diện bởi tỷ số ROA biến phụ thuộc là biến rủi ro có điều chỉnh và ROE) tại 55 NHTM tại Europe trong tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng để giai đoạn 2001- 2015. Các tác giả sử dụng đại diện cho biến hành vi QTLN tại các các khoản chi phí dự phòng rủi ro tín NHTM. Việc đo lường biến này đã được dụng tự định là nhân tố đại diện cho hành chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong các vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng, nghiên cứu sau này. Kết quả nghiên cứu kết quả cho thấy rằng những ngân hàng cho thấy tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn nhất có tỷ số ROA và ROE thấp liên tiếp qua và hành vi QTLN có xu hướng tăng dần các năm sẽ có xu hướng thực hiện hành sau đó giảm dần, trong khi tỷ lệ sở hữu vi QTLN thông qua các khoản chi phí dự của nhà quản lý có mối quan hệ ngược phòng rủi ro tín dụng tự định nhiều hơn chiều với hành vi QTLN, tức là gia tăng và những ảnh hưởng tiêu cực từ hành vi tỷ lệ sở hữu của NQL tại ngân hàng làm QTLN sẽ kéo dài sang các năm sau đó. giảm hành vi QTLN. Gombola và các cộng sự (2016) nghiên cứu về tác động Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính và tính thanh khoản đến QTLN được nhiều tác giả quan tâm, lên hành vi QTLN và quản trị vốn tại 124 tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu tập trung NHTM ở Mỹ trong giai đoạn 1999- 2013. vào các công ty, doanh nghiệp. Nghiên cứu Kết quả cho thấy đòn bẩy tài chính có chuyên sâu về nội dung này ở các NHTM tác động cùng chiều với hành vi QTLN khá khiêm tốn. Điển hình, Trần Quốc và quản trị vốn, trong khi đó, tỷ số thanh Thịnh và Nguyễn Đức Phước (2018) đã sử khoản lại có tác động ngược chiều. Như dụng phương pháp kiểm định OLS với 134 vậy, các ngân hàng có mức độ sử dụng mẫu quan sát của 18 NHTM cổ phần Việt vốn cao sẽ có xu hướng thực hiện hành vi Nam, giai đoạn từ năm 2005- 2016. Kết QTLN và quản trị vốn nhiều hơn so với quả nghiên cứu cho thấy có 4 biến thuộc cơ các ngân hàng có mức độ sử dụng vốn cấu sở hữu có tác động đến hành vi QTLN, thấp. Bên cạnh đó, những ngân hàng có trong đó biến tỉ lệ sở hữu nhà đầu tư nước tính thanh khoản cao sẽ có xu hướng hạn ngoài có tác động ngược chiều, ba biến còn chế thực hiện hành vi QTLN hơn các ngân lại bao gồm biến tỷ lệ sở hữu của nhà quản hàng có tính thanh khoản thấp. lý, tỷ lệ sở hữu của tổ chức và mức độ tập trung sở hữu có tác động cùng chiều. Trong khi đó, kết quả của Moghaddam và Abbaspour (2017) lại cho thấy rằng các Nhìn chung, trên thế giới các nghiên cứu ngân hàng có tính thanh khoản thấp sẽ có về những nhân tố tác động đến hành vi xu hướng thực hiện hành vi QTLN nhiều QTLN tại các ngân hàng vẫn chưa phổ hơn các ngân hàng có tính thanh khoản biến. Cũng tương tự tại Việt Nam, có cao khi tác giả sử dụng mẫu nghiên cứu thể thấy rằng các nghiên cứu về hành vi là 14 NHTM niêm yết ở Tehran trong giai QTLN cũng rất ít với đối tượng là các đoạn 2010- 2015 và sử dụng mô hình nhận NHTM. Phần lớn các nghiên cứu trước diện hành vi QTLN thông qua mô hình quan tâm nhiều đến các nhân tố thuộc quản trị lợi nhuận dồn tích (AEM) của CSTC, điển hình như đòn bẩy tài chính, Dechow và các cộng sự (1995). Alhadab tính thanh khoản, ROA và ROE… bởi Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 15
  5. Ảnh hưởng của các nhân tố đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam đây là những chỉ số có ý nghĩa đối với Bài viết kế thừa mô hình đo lường hành vi thông tin trên BCTC. Từ đó, bài viết tập QTLN dựa trên rủi ro của Shen (2016) để trung xem xét sự tác động của các CSTC đo lường biến phụ thuộc. Tác giả đã chọn đến hành vi QTLN tại NHTM cổ phần ở mô hình của Shen (2016) để đo lường biến Việt Nam trong giai đoạn 5 năm từ 2015- phụ thuộc vì mô hình này đã được chấp 2020 để bổ sung những bằng chứng thực nhận và sử dụng rộng rãi trong các nghiên nghiệm hữu ích cho các đối tượng sử dụng cứu và theo nhìn nhận của chuyên gia phù thông tin trong bối cảnh thực trạng chất hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam. lượng BCTC của các NHTM Việt Nam Theo đó, hành vi QTLN sẽ được đo lường hiện nay đang rất được quan tâm. bằng biến rủi ro có điều chỉnh tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, cụ thể: 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Mẫu nghiên cứu Trong đó: Vào tháng 04 năm 2020, tác giả tiến LLPit: Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng hành chọn mẫu và có thể thấy hiện nay của ngân hàng (i) tại năm (t) Việt Nam có 31 NHTM nhưng do Ngân hàng TMCP Đông Á không có đủ dữ liệu LOANt-1: Tổng dư nợ cho vay khách hàng BCTC qua nhiều năm nên Ngân hàng này của ngân hàng (i) tại năm (t-1) không xem xét trong mẫu dữ liệu. Như vậy, mẫu dữ liệu được thu thập thông tin σLLP/LOANt-1: Độ lệch chuẩn LLP/LOANt-1 từ 30 NHTM. Các dữ liệu có liên quan đến dữ liệu từ năm 2015 đến 2019. các CSTC trên BCTC của NHTM trong giai đoạn từ 2015-2019, với tổng mẫu Đồng thời, kế thừa kết quả nghiên cứu quan sát là 150, đảm bảo yêu cầu kiểm từ các tác giả trước đó (Gombola và các định trong mô hình nghiên cứu. cộng sự (2016) Moghaddam và Abbaspour (2017); Alhadab và Al-Own (2017)), kết 3.2. Mô hình nghiên cứu hợp với một số ý kiến chuyên gia trong Bảng 1. Xác định và đo lường các biến Ký hiệu Tên biến Đo lường Kỳ vọng dấu Biến phụ thuộc Rủi ro kinh doanh có điều chỉnh tỷ RISK lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng Biến độc lập BSZ Quy mô ngân hàng Logarit của tổng tài sản - LEV Đòn bẩy tài chính Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu + Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở ROE Tỷ suất sinh lời - hữu bình quân (ROE) Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng LLP Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng + trong năm Nguồn: Tổng hợp của tác giả 16 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020
  6. TRẦN QUỐC THỊNH - TRẦN NGỌC ANH THƯ Bảng 2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình Biến Số quan sát Trung bình Trung vị Mức tối thiểu Mức tối đa Độ lệch chuẩn RISK 150 3,4058 -0,3780 18,2947 3,4069 150 BSZ 150 8,1260 7,2492 9,1732 0,4607 150 LEV 150 12,9349 4,2342 33,1029 4,8319 150 LLP 150 1,889409 -0,50392 20,131916 3,405646 150 ROE 150 0,0906 -0,0918 0,2773 0,0784 150 Nguồn: Số liệu phân tích từ phần mềm Eview 10 lĩnh vực ngân hàng, mô hình của bài viết tương đối cao là 3,405646. Biến đòn bẩy lựa chọn gồm 4 biến độc lập mang tính tài chính (LEV) cũng có độ lệch chuẩn rất đại diện phù hợp với điều kiện kinh tế cao là 4,8319, giá trị cao nhất là 33,1029 Việt Nam gồm quy mô ngân hàng (BSZ); thuộc về Ngân hàng TMCP Sài Gòn. Biến đòn bẩy tài chính (LEV); tỷ suất sinh lời quy mô ngân hàng (BSZ) có độ lệch chuẩn (ROE); và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tương đối thấp là 0,4670, với giá trị cao (LLP). Như vậy, mô hình nghiên cứu của nhất là 9,1732 thuộc về Ngân hàng BIDV. bài viết được cụ thể như sau: Biến ROE cũng có độ lệch chuẩn thấp là 0,0784, cao nhất là 0,2773 thuộc về Ngân RISK = βO + β1*BSZ + β2*LEV + hàng ACB. β3*ROE β4*LLP + ε 4.2. Phân tích tương quan Cách thức đo lường biến phụ thuộc và các biến độc lập thể hiện qua Bảng 1. Kết quả phân tích tương quan các biến trong mô hình được trình bày trong Bảng 4. Kết quả nghiên cứu 3 cho thấy các hệ số có tính tương quan phù hợp giữa các biến. Hơn nữa, phần lớn 4.1. Kết quả thống kê mô tả các biến hệ số tương quan giữa các biến độc lập đều nhỏ hơn 0,8 nên điều này một phần Kết quả trình bày ở Bảng 2 cho thấy mẫu chứng tỏ hiện tượng đa cộng tuyến trong nghiên cứu bao gồm 150 BCTC của 30 mô hình là không tồn tại. NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2015- 2019. Biến phụ thuộc RISK có giá trị cao 4.3. Đánh giá sự phù hợp của mô hình nhất là 18,2947 và thấp nhất là -0,3780, trong khi đó giá trị trung bình đạt 3,4058 Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan các biến và độ lệch chuẩn bằng 3,4069. Điều này trong mô hình cho thấy mức độ rủi ro kinh doanh có RISK FSZ LEV LLP ROE điều chỉnh tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro RISK 1 tín dụng của NHTM ở mức độ khá cao BSZ -0,3091 1 vì bình quân lên đến 3,4 lần. Đối với các LEV 0,2998 0,5118 1 biến độc lập, biến chi phí dự phòng rủi ro tín dụng có sự chênh lệch và biến động LLP 0,6192 0,6916 0,2556 1 mạnh nhất, cao nhất là 20,131916 thuộc về ROE -0,0528 0,5274 0,0170 0,4028 1 Ngân hàng BIDV và độ lệch chuẩn cũng Nguồn: Số liệu phân tích từ phần mềm Eview 10 Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 17
  7. Ảnh hưởng của các nhân tố đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Bảng 4 cho thấy R2 hiệu Bảng 4. Mức độ giải thích của mô hình chỉnh bằng 0,5095 (kiểm Mô hình Hệ số R2 Hệ số R2 hiệu chỉnh Prob(F-statistic) định F có Sig < 0,01), RISK 0,5227 0,5095 0,0000 điều này có ý nghĩa rằng Nguồn: Số liệu phân tích từ phần mềm Eview 10 50,95% sự thay đổi của biến RISK được giải Bảng 5. Kết quả hồi quy của mô hình thích bởi các biến độc Hệ số hồi quy t-Statistic Prob. lập. Có thể thấy rằng Hằng số 15,12020 2,672058 0,0084 mức độ giải thích của mô hình nghiên cứu BSZ -1,742655 -2,276794 0,0243 được lựa chọn là tương LEV 0,148825 2,932790 0,0039 đối phù hợp với ý nghĩa ROE -11,69371 -3,737926 0,0003 thống kê vì đạt trên 50%. LLP 0,000000837 10,39887 0,0000 Số quan sát (N) 150 4.4. Kết quả hồi quy Hệ số R 2 0,5227 Sau khi kiểm định tính Hệ số R hiệu chỉnh 0,5095 2 tương quan và đánh giá F-statistic 39,70126 sự phù hợp của mô hình Prob(F-statistic) 0,0000 nghiên cứu, mô hình hồi Nguồn: Số liệu phân tích từ phần mềm Eview 10 quy cho biến RISK với 4 biến độc lập, kết quả như sau: Những thông tin trên BCTC giữ vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa NHTM Kết quả hồi quy của mô hình OLS đối với với các đối tượng sử dụng thông tin. Vì 4 biến thuộc CSTC cho thấy 4 biến đều vậy, mức độ tin cậy của các thông tin có ý nghĩa là quy mô ngân hàng (BSZ); được công bố có ảnh hưởng rất lớn đến đòn bẩy tài chính (LEV); tỷ suất sinh lời các quyết định tài chính của những bên có (ROE); và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng liên quan. Do đó, các thông tin tài chính (LLP) với các mức ý nghĩa nhỏ hơn 5%. thường bị tác động bởi các đối tượng có Kết quả nghiên cứu này cũng khá tương khả năng nhằm thao túng hành vi của thị đồng với nghiên cứu của Shen (2016) trường theo mục tiêu chủ quan của mình. cũng như một số nghiên cứu có liên quan Trên cơ sở kế thừa mô hình đo lường biến như Gombola và các cộng sự (2016), QTLN của Shen (2016) thông qua biến rủi Moghaddam và Abbaspour (2017), ro có điều chỉnh tỷ lệ chi phí dự phòng rủi Alhadab và Al-Own (2017). Cụ thể, kết ro tín dụng, bài viết đã tiến hành nghiên quả mô hình hồi quy như sau: cứu 150 mẫu của 30 NHTM cổ phần Việt Nam trong giai đoạn 2015- 2019. Kết quả RISK = 15,120200 - 1,742655*BSZ hồi quy OLS cho thấy 4 biến có ý nghĩa, + 0,148825*LEV - 11,69371*ROE + trong đó 2 biến tác động cùng chiều đến 0,000000829*LLP hành vi QTLN là đòn bẩy tài chính và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, 2 biến 5. Kết luận và hàm ý chính sách có tác động ngược chiều là quy mô ngân hàng và tỷ suất sinh lời. Trên cơ sở kết 5.1. Kết luận quả nghiên cứu, một số khuyến nghị được 18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020
  8. TRẦN QUỐC THỊNH - TRẦN NGỌC ANH THƯ đề xuất nhằm hỗ trợ Ngân hàng Nhà nước NHTM càng có xu hướng hạn chế thực (NHNN) trong việc nhận diện và kiểm hiện hành vi QTLN nhiều hơn và ngược soát QTLN của các NHTM. Theo đó, lại. Theo đó, NHNN cần quan tâm và NHNN cần quan tâm và kiểm soát thường kiểm soát thường xuyên đối với những xuyên đối với hoạt động của các ngân ngân hàng có quy mô nhỏ. Hơn nữa, hàng để đảm bảo NHTM tuân thủ các quy NHNN cũng nên tạo điều kiện nhiều hơn định hiện hành, bên cạnh đó cũng cần lưu về cơ chế chính sách để các ngân hàng có ý và quan tâm tạo điều kiện nhiều hơn về quy mô nhỏ có cơ hội phát triển và mở cơ chế chính sách để các ngân hàng có rộng vốn. quy mô nhỏ có cơ hội phát triển và mở rộng vốn. Hơn nữa, NHNN cần có những - Về đòn bẩy tài chính, NHNN cần có biện pháp nghiêm khắc hơn để đảm bảo những biện pháp nghiêm khắc hơn thông các NHTM tuân thủ những giới hạn và qua tổ chức thanh tra định kỳ và có những tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động, hình thức chế tài phù hợp để có thể kiểm thông qua những hình thức chế tài phù soát tính cân đối thích hợp đối với các hợp. Kết quả nghiên cứu trong phạm vi khoản nợ và vốn của các NHTM. 30 NHTM và thời gian 5 năm, cũng như tập trung một số biến độc lập cơ bản về - Đối với tỷ suất sinh lời, cũng tương tự CSTC. Các nghiên cứu sau có thể mở rộng như đối với quy mô của NHTM, NHNN đo lường các CSTC có liên quan như tính cần nên tạo điều kiện nhiều hơn nữa về cơ thanh khoản hay ROA, cũng như gia tăng chế chính sách để hỗ trợ các ngân hàng số lượng loại hình các ngân hàng, hoặc hoạt động chưa hiệu quả trong việc cải nghiên cứu chuỗi thời gian dài hơn để có thiện tình hình hoạt động kinh doanh. nhìn nhận được bao quát và toàn diện về hành vi QTLN của các ngân hàng. - Đối với chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, NHNN cần thường xuyên tổ chức thanh 5.2. Gợi ý chính sách tra, giám sát và có những biện pháp chế tài hợp lý để đảm bảo các NHTM tuân thủ Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết đề theo các quy định liên quan đến hạn mức xuất một số gợi ý chính sách nhằm hỗ trợ cấp tín dụng. Hơn nữa, NHNN cũng cần cho NHNN trong việc nhận diện và hạn thiết lập những quy định chặt chẽ hơn để chế hành vi QTLN tại các NHTM như sau: kiểm soát rủi ro tín dụng và đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ để các NHTM có thể - Kết quả nghiên cứu cho thấy khi quy mô giải quyết được những khoản nợ xấu ■ ngân hàng càng lớn thì các NQL tại các Tài liệu tham khảo 1. Akerlof, G. A., (1970), The market for lemons: Quality uncertainty and the market mechanism, The Quarterly Journal of Economics, 84(3): 488-500. 2. Alhadab, M., Al-own, B. E., (2017), Earnings Management and Banks Performance: Evidence from Europe, International Journal of Academic Research in Accounting, Finance and Management Sciences, 7(4): 134-145. 3. Brigham, E. F., & Ehrhardt, M. C., (2005), Financial Management, USA: 11 edition. 4. Foster, G., (1978), Financial Statement Analysis, New Jersey: Prentice-Hall Inc. 5. Godfrey, J., Mather, P., and Ramsay, A., (2003), Earnings and impression management in financial reports: the case of CEO changes, Abacus, 39(1): 95-123. Số 217- Tháng 6. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 19
  9. Ảnh hưởng của các nhân tố đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 6. Gombola, M. J., Ho, A. Y.-F. & Huang, C.-C., (2016), The effect of leverage and liquidity on earnings and capital management: Evidence from U.S. Commercial banks, International Review of Economics and Finance, DOI: 10.1016/j. iref.2015.10.030 7. Gitman, L. J., (2009), Principal of Managerial Finance, Pearson Prentice Hall. 8. Healy, P. M. and Wahlen, J. M., (1999), A review of the earnings management literature and its implications for standard setting, Accounting Horizons, 13: 365–383. 9. Jesen, M. C. and Meckling, W. H., (1976), Theory of the Firm: Managerial Behavior, Agency Costs and Ownership Structure, Journal of Accounting & Economics, 3(4): 305-360. 10. Khan, M. I., Riaz, S., and Iqbal, A., (2018), Re-Classification of Financial Ratios, International Conference on Business Sustainability and Innovation. 11. Leuz, C., Nanda, D., Wysocky, P. D., (2003), Earnings management and investor protection: an international comparision, Journal of Financial Economics, 69(2003): 505-527. 12. Levitt, A. J., (1998), The “Numbers Game”, The CPA Journal, 68(12): 14-15. 13. Moghaddam, A., and Abbaspour, N., (2017), The Effect of Leverage and Liquidity Ratios on Earnings Management and Capital of Banks Listed on the Tehran Stock Exchange, International Review of Management and Marketing, 7(4): 99-107. 14. Rahman, M., Moniruzzaman, M., and Sharif, J., (2013), Techniques, Motives and Controls of Earnings Management, International Journal of Information Technology and Business Management, 11(1): 22-34. 15. Schipper, K., (1989), Commentary on earnings management, Accounting Horizons, 3(4): 91-102. 16. Shen, L., (2016), Research on Industry Competition, Ownership Structure and Earnings Management: Empirical Analysis based on Listed Bank, International Journal of Smart Home, 10(3): 221-230 17. Trần Quốc Thịnh và Nguyễn Đức Phước (2018), Kiểm định mối quan hệ giữa cơ cấu sở hữu và hành vi quản trị lợi nhuận tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, Tạp chí Kế toán Kiểm toán, 178: 35-40. 20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 217- Tháng 6. 2020
nguon tai.lieu . vn