Xem mẫu

  1. CÁC KHUYNH HƯỚNG DỊ BẢN CỦA ĐỒNG DAO DÂN GIAN VIỆT NAM VÕ THỊ QUỲNH NHI – TỪ NHƯ QUỲNH NGUYỄN THỊ LAN – NGUYỄN THỊ NGỌC LAN Khoa Giáo dục Mầm non Tóm tắt: Đồng dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian có sự gắn bó mật thiết với trẻ thơ. Vì những lí do khách quan và chủ quan, đồng dao dân gian có vô số dị bản. Sưu tầm những dị bản của đồng dao, chúng tôi tìm ra được quy luật tạo ra “bản khác” của thể loại. Đó chính là sự thay đổi so với bản gốc các phương diện hình thức như: từ, cụm từ, kết cấu, nhịp điệu. Sự thay đổi đó nhiều khi đã kéo theo sự thay đổi về nội dung. Điều này đã tạo ra những hiệu ứng tích cực không chỉ riêng với đời sống văn học dân gian mà còn với người tiếp nhận, đặc biệt là trẻ thơ. Từ khóa: Khuynh hướng, dị bản, dân gian, đồng dao, đặc trưng 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong đời sống tinh thần của người Việt từ xa xưa, tiếp nối lời ru của mẹ là những bài đồng dao giản dị gắn liền với tuổi thơ của mỗi người. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là một phương pháp giáo dục “không thầy, không sách” nhưng lại rất hiệu quả. Đến với đồng dao ta được đắm mình vào những câu hát, vần điệu nhẹ nhàng, làm thức dậy trong ta những xúc cảm trong sáng. Đồng dao giản dị, cô đúc, mộc mạc đã kết nối con người với quê hương, với cội nguồn dân tộc. Đây cũng là thể loại thể hiện đặc trưng dị bản của văn học dân gian phóng túng và tự do nhất. Do đó, tìm hiểu và tiếp cận đồng dao giúp chúng ta có điều kiện hiểu sâu sắc và trọn vẹn hơn về văn học dân gian, về truyền thống văn hóa Việt Nam, về cội nguồn dân tộc. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, dù có tiếp nhận bất cứ sản phẩm nghệ thuật nào nhưng khi đến với đồng dao chúng ta đều cảm nhận được sự ấm áp, gần gũi, thân quen mà đồng dao đem lại. 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2.1. Lí luận về đặc trưng dị bản của đồng dao Theo “Từ điển Tiếng Việt”, dị bản có nghĩa là văn bản khác với bản gốc, bản đã được phổ biến rộng rãi của một tác phẩm văn học. Với văn học dân gian, dị bản là một quá trình tự nhiên vì nó không hề phụ thuộc vào những khuôn mẫu hay bản ghi xác định nào cả. Đây là đặc điểm vốn có, tự nhiên của bộ phận văn học này. Cũng như vậy, thể loại đồng dao có vô số các dị bản khác nhau, đa dạng và rất phong phú. Những tác phẩm càng được lan truyền rộng rãi bao nhiêu thì sẽ có nhiều dị bản bấy nhiêu, nó làm nên một kho tàng văn học dân gian đồ sộ được lưu giữ muôn đời. Những bài đồng dao về chim, về cá, về hoa, về trái... có ít nhất từ năm đến bảy dị bản. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2016-2017 Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2016: tr. 42-49
  2. CÁC KHUYNH HƯỚNG DỊ BẢN CỦA ĐỒNG DAO DÂN GIAN VIỆT NAM 43 Tính dị bản khẳng định đặc tính mở của thể loại này. Trong quá trình lưu hành, đồng dao không tồn tại dưới hình thức văn bản. Tuy nhiên, những người tiếp nhận đồng dao đã tạo nên trạng thái động cho tác phẩm. Họ đã biến những bài đồng dao theo cách riêng của chính mình, để phù hợp với mục đích của họ. Hiện nay, dưới hình thức văn bản sưu tầm, chúng ta thấy đồng dao được cố định bởi chữ viết. Mặc dù được cố định hóa, đồng dao vẫn còn mang đặc tính mở. Có thể nói, đặc tính này quyết định đến tính dị bản của đồng dao nói riêng và văn học dân gian nói chung. Các “bản khác” của cùng một tác phẩm đồng dao sưu tầm được từ trong đời sống tương tự nhau về chủ đề và các nội dung chính. Ví dụ như: Bản 1: Bản 2: “Lạy trời mưa xuống “Lạy trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày Lấy ruộng tôi cày, Cho đầy nồi cơm Lấy đầy bát cơm, Tôi đơm cho dễ Lấy rơm đun bếp. Tôi lễ ông trời” Lấy tệp bánh chưng, Lấy ung hũ rượu.” Ta thấy rằng hai bài đồng dao trên cùng một chủ đề đó là nói về ước mong thời tiết thuận lợi, mong mỏi trời cho mưa xuống để người dân sinh hoạt, ăn uống. Do vậy, chắc chắn hai bài đồng dao này là dị bản của nhau. Sự xuất hiện một bản mới bên cạnh bản gốc cho thấy tác phẩm văn học không bao giờ khép kín mà luôn luôn có chỗ cho sự tiếp nhận sáng tạo của độc giả. Làm nên tính dị bản của đồng dao có nhiều nguyên nhân. Ngoài yếu tố tự nhiên, lịch sử, văn hóa vùng miền thì chủ thể diễn xướng là nguyên nhân cốt lõi. Về cơ bản, đồng dao là sáng tác của trẻ con – đối tượng có những đặc điểm riêng về khả năng ghi nhớ, xúc cảm, năng lực sáng tạo. Ghi nhớ không trọn vẹn những sáng tác vốn được lưu truyền bằng phương thức truyền miệng, tính ngẫu hứng trong quá trình chơi... sẽ giúp trẻ hình thành nên những dị bản đồng dao vừa quen vừa lạ. 2.2. Các khuynh hướng dị bản của đồng dao Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ở các huyện, thị trấn và các vùng ven tại địa bàn Thừa Thiên Huế như Tứ Hạ, Phong Điền và trung tâm Thành phố Huế. Ngoài ra chúng tôi còn tiến hành chuyến đi thực tế ở Quảng Bình (Đồng Hới, Lệ Thủy, Ba Đồn)… Đồng thời, chúng tôi còn tìm đến những người gốc Bắc Bộ, Lâm Đồng, Đà Lạt đang sinh sống ở Huế để thu thập những tư liệu liên quan đến những dị bản đồng dao đặc trưng cho các vùng miền mà họ đã từng sinh ra và lớn lên. Quá trình khảo sát thực tế được chúng tôi chuẩn bị một cách kĩ lưỡng, có phương pháp, kế hoạch rõ ràng nhằm đưa ra những thông số hợp lí, khoa học. Những dị bản đồng dao được chúng tôi sưu tầm và tổng hợp qua chuyến đi thực tế sẽ là những dẫn chứng hết sức thuyết phục cho những lí luận mà chúng tôi đưa ra trong đề tài này. Với điều kiện và thời gian cho phép, trong quá trình đi khảo sát thực tế chúng tôi sưu
  3. 44 VÕ THỊ QUỲNH NHI và cs. tầm được tất cả 41 bài đồng dao thuộc về hai mảng đồng dao cho trẻ hát, đồng dao cho trẻ hát – chơi với nhiều dị bản khác nhau của chúng qua các vùng miền. Trong đó đồng dao cho trẻ hát có 26 bài chiếm tổng số 63,4 % các bài đồng dao sưu tầm. Đồng dao cho trẻ hát – chơi có 15 bài chiếm tổng số 36,6% các bài đồng dao sưu tầm. Có tất cả 104 dị bản của 41 bài đồng dao. Trong đó có bài đồng dao có 1 dị bản. Đây là một ví dụ: Ai làm gì đó! Gáy ò ó o Khù khà khù khò Ra là gà trống Ai làm gì đó! Ai làm gì đó A là chú chó Cái tai nho nhỏ Đang ngủ khò khò Cái mỏm xinh xinh Cút ca cút kít Ủn à ủn ỉn Ai làm gì đó A là lợn con A là chuột chit Ai làm gì đó Dùng răng cắn gỗ Cục ta cục tác Hớ hớ ha ha Mười quả trứng tròn Ai làm gì đó Là chị gà mái A ra là bé Ai làm gì đó Đang cười rất to Hay đu hay chèo Ai làm gì đó A là anh mèo Mỗi sáng gọi to Leo cây thoăn thoắt. Bản một là bài đồng dao quen thuộc của trẻ em tỉnh Lâm Đồng. Bản hai là một biến thể khác của trẻ em Hà Đông. Cả hai bài đồng dao trên đều phát triển trên cấu trúc câu hỏi: Ai làm gì đó? Dựa theo cấu trúc câu hỏi đó, những khám phá về tự nhiên đã xuất hiện. Bên cạnh đó, có bài đồng dao có 2 dị bản (Bà còng đi chợ trời mưa), 3 dị bản (Chi chi chành chành), 4 dị bản (Lộn cầu vồng), 5 dị bản (Thả đỉa ba ba), 6 dị bản (Kéo cưa lừa xẻ), 7 dị bản (Rồng rắn lên mây). Thậm chí có trường hợp lên tới 9 dị bản (Dung dăng dung dẻ), 10 dị bản (Nu na nu nống). Các dị bản đồng dao được sưu tầm có chủ thể diễn xướng là trẻ con. Dựa trên kết quả sưu tầm đó, chúng tôi sẽ phân tích, khái quát về các hình thức dị bản của đồng dao dân gian. 2.2.1. Thay đổi từ hoặc cụm từ Từ hoặc cụm từ chỉ là những yếu tố hình thức rất nhỏ trong chỉnh thể tác phẩm. Tuy nhiên đây cũng chính là nhân tố làm nên tính dị bản của đồng dao dân gian. Sự thay đổi đó không mang tính quy luật mà chỉ là sự ngẫu hứng. Tuy nhiên, điều đó cũng tạo nên những giá trị thẩm mỹ nhất định. Theo thống kê của chúng tôi, trong tất cả 104 dị bản của 41 bài đồng dao, có 39 trường hợp có sự thay đổi về từ. Sự thay đổi đó chủ yếu diễn ra đối với các từ loại như: danh từ, động từ, tính từ, số từ... Đây là ví dụ về sự thay đổi tính từ:
  4. CÁC KHUYNH HƯỚNG DỊ BẢN CỦA ĐỒNG DAO DÂN GIAN VIỆT NAM 45 Bản 1: Bản 2: Bà còng đi chợ trời mưa, Bà còng đi chợ trời mưa, cái tôm cái tép đi đưa bà còng, cái tôm cái tép đi đưa bà còng, đưa bà qua quãng đường đông, đưa bà qua quãng đường trơn đưa bà về tận ngõ trong nhà bà. đưa bà về tận ngõ trong nhà bà. Tiền bà trong túi rơi ra, Tiền bà trong túi rơi ra, tép tôm nhặt được trả bà mua rau. tép tôm nhặt được trả bà mua rau. (Nguồn: Quảng Trạch, Quảng Bình) (Nguồn: Lâm Hà, Đà Lạt) Cả 2 bài đồng dao trên đều nói đến nội dung bà còng đi chợ lúc trời đổ mưa và tính chất của con đường vào lúc trời mưa. Tuy nhiên, đã có sự thay đổi tính từ chỉ tính chất của con đường. Điều này đã làm nên tính dị bản của nó. Ở dị bản 1, đường được miêu tả thông qua tính từ ‘đông’, gợi sự đông đúc của ngữ cảnh. Đến với dị bản thứ 2, con đường hiện lên cùng với tính từ ‘trơn’ ý chỉ con đường này rất khó đi, rất trơn trượt và dễ vấp ngã. Quá trình khảo sát cũng giúp chúng tôi nhận ra một khuynh hướng phổ biến. Xét về tần suất thay đổi, danh từ và động từ là hai từ loại có nhiều thay đổi hơn cả. Ví dụ như bài đồng dao “Chặt cây dừa”: Bản 1: Bản 2: Trồng cây dừa Chặt cây dừa Chừa cây mận Chừa cây mạng Tấn cây đào Cây tầm phổng Cây nào cao Cây mía lau Cây nào thấp Cây nào cao Cây nào rậm Cây nào thấp Chặt bớt đi ... (Lệ Thủy – Quảng Bình) Chặt cây chuối Cây chuối cây chuối Cây nào thúi Chặt bớt đi (Lâm Hà – Lâm Đồng) Quan sát hai trường hợp trên chúng ta dễ dàng nhận ra sự thay đổi về động từ (những từ chúng tôi gạch chân) và danh từ (những từ được in nghiêng). 2.2.2. Thay đổi kết cấu Từ kết quả sưu tầm, ghi chép các dị bản cho chúng tôi thấy hình thức tồn tại tự do, phóng khoáng của tác phẩm đồng dao dân gian. Có những đồng dao được mở rộng về kết cấu, lại có những đồng dao thì kết cấu thu hẹp lại. Để có cái nhìn khách quan về hiện tượng này, chúng tôi trích dẫn nguyên văn các “bản khác” của bài đồng dao “Rình rình ràng ràng”:
  5. 46 VÕ THỊ QUỲNH NHI và cs. Dị bản 1: Dị bản 2: Rình rình ràng ràng Rềnh rềnh ràng ràng Ba gian chiếu trải Ba gang chiếu trải Dệt vải cho bà Xích lại cho gần Vải hoa vải trắng Một người hai chân Ðến mai trời nắng Hai người ba chân Ðem vải ra phơi. Ba người sáu chân Rình rình ràng ràng Bốn người tám chân Ba gian chiếu trải Chân gầy chân béo Dệt vải cho bà Dệt vải cho bà Vải hoa vải trắng Vải hoa vải trắng Ðến mai trời nắng Đến mai trời nắng Ðem vải ra phơi. Đem vải ra phơi Đến mốt đẹp trời Đem ra may áo Rềnh rềnh ràng ràng Ở dị bản 1 và 2 đều nói về sự việc trời nắng đem vải ra phơi, nhưng ở dị bản 2 có kết cấu mở rộng hơn. Với kết cấu đó, chủ thể diễn xướng đã giải thích cụ thể hơn về việc để dệt nên tấm vải cần sự làm việc hợp tác của nhiều người, không phân biệt chân gầy hay chân béo, đến ngày đẹp trời hay đến những dịp nào đó quan trọng sẽ đem may thành áo. Kết cấu mở rộng đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều thông tin hơn, cho dù thông tin đó có nghĩa hay vô nghĩa nhưng nó đều góp phần làm cho những trò chơi, câu hát trở nên vui nhộn, hấp dẫn hơn. Dù kết cấu mở rộng hay thu hẹp thì mỗi bài đồng dao trên đều là những bài được trẻ yêu thích. Nội dung trong mỗi bài đồng dao được trẻ biến tấu cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi khả năng ghi nhớ của từng độ tuổi. 2.2.3. Thay đổi cơ cấu nhịp điệu Trong đồng dao dân gian, nhịp điệu là yếu tố quan trọng. Do đó, làm cho nhịp điệu thay đổi sẽ tạo nên các dị bản cho đồng dao dân gian. Bài “Xỉa cá mè” qua những vùng miền khác nhau đã gắn với những cơ cấu nhịp điệu riêng biệt: Bản 1: Bản 2: Xỉa cá mè Xỉa cá mè Đè cá chép Đè cá chép Chân nào đẹp Tay nào đẹp Thì đi buôn men Thì đi bẻ ngô Chân nào đen Tay nào to Ở nhà làm chó Thì đi dỡ củi Ai mua men? Tay nào nhỏ Mua men gì? Đi hái đậu đen Men vàng Tay lọ lem
  6. CÁC KHUYNH HƯỚNG DỊ BẢN CỦA ĐỒNG DAO DÂN GIAN VIỆT NAM 47 Đem ra ngõ khác Ê ê xấu xấu Ai mua men? Mau đi về Mua men gì? Rửa tay cho sạch. Men bạc Men bạc vác ra ngõ này Một quan bán chăng? Chừng chừng chẳng bán! Hai quan bán chăng? Chừng chừng chẳng bán! Ba quan bán chăng? Chừng chừng chẳng bán! Bốn quan bán chăng? Chừng chừng chẳng bán! Năm quan bán chăng? Chừng chừng chẳng bán! Sáu quan bán chăng? Chừng chừng chẳng bán! Bảy quan bán chăng? Chừng chừng chẳng bán! Tám quan bán chăng? Chừng chừng chẳng bán! Chín quan bán chăng? Chừng chừng chẳng bán! Mười quan bán chăng? Chừng chừng bán vậy! Tôi gửi đòn gánh Tôi đi ăn cỗ Đi lấy phần về cho tôi Nào phần đâu? Phần tôi để gốc đa Chó ăn mất cả! Tôi xin đòn gánh Đòn gánh gì? Đòn gánh tre! Làm bè chó ỉa! Đòn gánh gỗ? Bổ ra thôi! Đòn gánh lim? Chìm xuống ao Đào chẳng thấy Lấy chẳng được! Xin cây mía Ra vườn mà đẵn.
  7. 48 VÕ THỊ QUỲNH NHI và cs. Bài đồng dao thứ nhất được viết theo hình thức hợp thể. Dòng thơ thay đổi liên tục về số lượng âm tiết, có khi ba âm tiết, có khi bốn, lại có khi sáu âm tiết. Sự chuyển biến không ngừng này thể hiện nhịp điệu cảm xúc nhanh chậm của chủ thể diễn xướng và tốc độ diễn ra trò chơi. Nhưng ở bản 2, ta lại thấy nhịp điệu khác. Đặc điểm của bài đồng dao này là đều đặn về âm nhạc. Hơn nữa, nhịp điệu của nó nhanh hơn, thể hiện sự vui tươi, nhí nhảnh của trẻ nhỏ. Khuynh hướng thay đổi nhịp điệu còn tiếp tục diễn ra ở những bài đồng dao khác như bài “Tay trắng tay đen”, “Chặt cây dừa”... Như vậy, cùng với sự thay đổi từ, cụm từ, kết cấu, sự thay đổi về cơ cấu nhịp điệu là những yếu tố rõ nét, góp phần cho ta thấy rõ những hình thức dị bản của đồng dao. Qua đó sẽ góp phần giúp chúng ta hiểu rõ được bản chất đặc trưng của đồng dao dân gian. Một khi nắm được những quy luật dị bản trên chúng ta có thể có hướng sáng tạo thêm nhiều dị bản đồng dao khác nữa nhằm bảo tồn và làm giàu thêm kho tàng đồng dao Việt Nam. Ba khuynh hướng dị bản chúng tôi đề cập ở trên nghiêng về bình diện thi pháp thể loại đồng dao. Sự thay đổi từ, cụm từ, kết cấu, nhịp điệu có khi không tạo ra sự thay đổi của nội dung tác phẩm nhưng có khi lại xảy ra trường hợp ngược lại. Kết quả sưu tầm, ghi chép cho thấy có 65 bài đồng dao trên tổng số 41 bài đồng dao có thay đổi về nội dung trong những dị bản của nó. Ví dụ : Ve vẻ vè ve Cái vè nói ngược Non cao đầy nước Đáy biển đầy cây Dưới đất lắm mây Trên trời lắm cỏ Người thì có mỏ Chim thì có mồm Thẳng như lưng tôm Cong như cán cuốc Thơm nhất là ruốc Hôi nhất là hương Đặc như ống bương Rỗng như ruột gỗ Chó thì hay mổ Gà hay liếm la Xù xì quả cà Trơn như quả mít .... Bài đồng dao này thực hiện đúng vai trò là phương thức tái hiện hiện thực đời sống. Đây là kết quả của hình thức diễn xướng truyền miệng dưới con mắt đa chiều của trẻ thơ. Như chúng ta đã biết, nhìn một cách tổng quát, hệ thống đồng dao Việt Nam như một cuốn phim hiện thực về thiên nhiên và xã hội với nền kinh tế nông nghiệp lâu đời.
  8. CÁC KHUYNH HƯỚNG DỊ BẢN CỦA ĐỒNG DAO DÂN GIAN VIỆT NAM 49 Từ những con vật, đồ vật, con người quen thuộc đến những khung cảnh sinh hoạt đậm chất thôn quê hay những kinh nghiệm dân gian vô cùng quý báu trong cuộc sống sản xuất... đều được đồng dao thể hiện một cách trong sáng, ngộ nghĩnh. Tiếp xúc với bài đồng dao trên, chúng ta dễ dàng nhận ra những thông tin về những sự vật, hiện tượng tự nhiên đơn giản thô sơ qua những lời diễn giải rất mộc mạc. Nhưng đến dị bản khác của bài đồng dao, chúng ta lại được thăm xứ Huế với vùng đất Phong Điền mới mẻ, một vùng quê nổi tiếng với nghề chài lưới với những đặc trưng của nó như tàu, ghe với tính chất: “Mồng mười nước nhảy/Ghe nổi thì đẩy/ Ghe cạn thì chèo”. Đó là kinh nghiệm quý báu về hiện tượng nước lên xuống của người dân nơi đây. Hơn nữa, bài đồng dao này còn vẽ nên cuộc sống hàng ngày của họ, một cuộc sống thăng trầm, vất vả nhưng đầy lạc quan và niềm tin vào cuộc sống. Qua cả hai bản trên, ta thấy được các dị bản đồng dao đã có những bước chuyển về nội dung mang đậm sắc thái vùng miền. Với việc thay đổi nội dung, các dị bản đồng dao không chỉ thỏa mãn nhu cầu vui chơi của trẻ mà nó còn cung cấp cho người tiếp nhận một lượng tri thức lớn về hiện tượng tự nhiên, xã hội cũng như đặc trưng của từng vùng miền. Thông qua đó, kho tàng đồng dao trở nên giàu hơn, đẹp hơn. 3. KẾT LUẬN Xã hội không ngừng vận động và phát triển. Nền văn học không ngừng vươn xa với những thành tựu mới. Những thể loại, những tác phẩm văn học mới ra đời đem theo luồng gió mới làm thỏa mãn thị hiếu của độc giả. Nhưng không vì thế mà chúng ta phủ nhận những thành tựu của thể loại đồng dao - thể loại dân gian mang giá trị văn hóa sâu sắc từ xa xưa cho đến ngày nay. Việc lưu giữ và sưu tầm những tác phẩm đồng dao, những dị bản đồng dao không bao giờ trở nên vô nghĩa. Ngược lại, chúng còn có ý nghĩa to lớn trong công cuộc bảo tồn và lưu giữ những nét truyền thống từ xa xưa của đất nước chúng ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Nghĩa Dân (2005). Đồng dao Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin biên tập và công ty sách Việt Nam, Hà Nội. [2] Trần Gia Linh (2005). Kho tàng Đồng dao Việt Nam, NXB Giáo dục Hà Nội. [3] Lã Thị Bắc Lý (2014). Văn học thiếu nhi với giáo dục trẻ em lứa tuổi Mầm Non, NXB Đại học Sư Phạm. VÕ THỊ QUỲNH NHI - TỪ NHƯ QUỲNH SV lớp MN 4D, khoa Giáo dục mầm non, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế ĐT: 0120 389 6341, Email: Vothiquynhnhi.sp@gmail.com NGUYỄN THỊ LAN SV lớp MN 4B, khoa Giáo dục mầm non, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế NGUYỄN THỊ NGỌC LAN SV lớp MN 4A, khoa Giáo dục mầm non, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
nguon tai.lieu . vn