Xem mẫu

  1. CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM VÀ KHU VỰC ĐÔNG BẮC ẤN ĐỘ Rajen Singh Laishram Khoa Khoa học chính trị Đại học Trung ương Manipur Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản châu Á, 8 tỉnh Đông Bắc Ấn bao gồm Việt Nam khởi xướng tại kỳ họp Quốc hội lần Arunachal Pradesh, Assam, Manipur, thứ VI năm 1986 đã mang lại những hệ quả và Meghalaya, Mizoram, Nagaland, Sikkim và chuyển biến kinh tế quan trọng. Đây chính là Tripura giáp gianh với Băng-la-dét, Bhutan, một mô hình đồng thời cũng là một bài học về Trung Quốc, Nepal và Mi-an-ma, và được nối xóa đói giảm nghèo, bao gồm cả mặt xã hội và liền với lục địa Ấn Độ qua một dải hẹp dài 29 việc xây dựng nguồn lực cho các cộng đồng ki-lo-mét. Khu vực này có 40 triệu dân chiếm người khác nhau ở vùng cao phía Đông bắc Ấn 3% tổng dân số Ấn Độ. Về mặt địa lý, khu vực Độ. Theo đó, Việt Nam được xếp vào nhóm có này chiếm 9% tổng diện tích quốc gia và đóng thu nhập dưới mức trung bình năm 2009, với góp 3% vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP). thu nhập đầu người tăng lên mức 1.755 đô la Đặc trưng của khu vực Đông bắc Ấn đó là sự Mỹ vào năm 2012 từ mức 110 đô la Mỹ trong đa dạng khác biệt của các nhóm dân tộc, văn hai thập niên trước.Tỷ lệ người nghèo ở Việt hóa, tôn giáo và ngôn ngữ, với hơn 160 bộ tộc Nam đã giảm từ gần 60% xuống 20,7% với được trình bày trong đề xuất của Hiến pháp Ấn ước tính khoảng 30 triệu người thoát khỏi cảnh Độ. [51] Nhưng người ta ước đoán rằng có hơn đói nghèo trong vòng 20 năm – Con số này 400 bộ tộc, cận bộ tộc hoặc các nhóm người gần bằng toàn bộ dân số của khu vực Đông bắc khác nhau định cư tại khu vực Đông bắc Ấn Ấn. [50]Cùng với đó, số lượng trẻ em thuộc 400. các diện nghèo được đi học Tiểu học tăng hơn Khu vực này có tỷ lệ dân số vùng nông 90% và số lượng đi học trung học tăng khoảng thôn cao, chiếm tới hơn 80% và cũng là một 70%. trong những nơi có tỷ lệ nghèo cao nhất thế Ấy vậy mà hiện tượng người thuộc diện giới. Ngân hàng Thế giới ước tính rằng tỷ lệ cực kỳ nghèo vẫn còn tồn tại với khoảng một dân số tại khu vực này có mức sống thấp hơn nửa dân số dân tộc thiểu số được ước đoán là định mức nghèo chiếm 34% so với tỷ lệ trung có mức sống dưới định mức nghèo năm 2012. bình toàn quốc là 26%.Tỷ lệ người nghèo dưới Khi Việt Nam đạt được sự phát triển nhanh định mức ở khu vực này không có bất kỳ chóng thì sự bất cân bằng cũng tăng lên và tỷ chuyển biến nào trong khi con số trung bình lệ nghèo ở các dân tộc thiểu số vẫn còn cao, toàn quốc gia Ấn Độ giảm từ 44% năm 1983 đặc biệt là trong số 53 dân tộc thiểu số của xuống còn 26% năm 2000.Những thành tựu Việt Nam mà chỉ chiếm 15% tổng dân số đáng kể về kinh tế Ấn Độ qua thể chế kinh tế nhưng chiếm tới 50% tỷ lệ nghèo năm 2010. mới và chiến lược định hướng “Hướng về Do đó, cứ hai người Việt Nam thuộc diện phương Đông” tạo ra ảnh hưởng rất nhỏ đối nghèo thì có một người thuộc các nhóm dân với các cộng đồng khác nhau tại khu vực Đông tộc thiểu số, và cứ mỗi bốn người sống trong bắc Ấn. Bên cạnh việc có chung biên giới với cảnh cực kỳ nghèo thì có đến 3 người dân tộc miền Đông châu Á, các tỉnh của khu vực Đông thiểu số Bắc Ấn còn gặp nhiều khó khăn bởi địa hình Đông Bắc Ấn Độ nằm ở điểm giao nhau khắc nghiệt giống như ở vùng cao, hoặc các của ba miền Đông, Nam và khu vực Đông nam tỉnh miền núi của Việt Nam. Sự tương đồng [50], “Xóa đói giảm nghẻo ở Việt Nam: Quá trình đáng kể và những thách thức” Ngân Hàng Thế Giới, www.worldbank.org 14 tháng 2, 2013 [51], Hiến Pháp Ấn Độ, Chính phủ Ấn Độ, 1999 281
  2. Các tỉnh vùng cao, vùng núi ở Việt Nam cao Việt Nam, người ta cho rằng việc gắn kết và Đông bắc Ấn Độ đều có nhiều bộ tộc khác các vấn đề cá biệt mà các cộng đồng người nhau, nhiều nhóm chủng tộc, ngôn ngữ và tôn đang đối mặt cần một cách tiếp cận khác đi. Để giáo thiểu số định cư với rất ít sự tương quan duy trì quan điểm này, một số dấu hiệu như với các thể chế trung tâm. [52] Thậm chí sau văn hóa, thiếu thông tin về nguồn vốn, việc 60 năm sau thời kỳ thuộc địa, có một “sự thâm xây dựng nguồn lực, sự giao tiếp, sự thiếu tiếp hụt hợp pháp” và các mối quan hệ tế nhị giữa cận tới giáo dục, cần phải được làm rõ. Khi khu vực trung tâm và các tỉnh biên giới do không có tiến trình hay thể chế nào, thì xã hội những khác biệt về xã hội, văn hóa và sự đối văn mình và sự can thiệp của các tổ chức đối lập về thể chế chính trị. Địa hình, địa lý đã tác với việc xóa đói giảm nghèo và các chính sách động đến sự đang dạng hóa con người và văn bao hàm sẽ có hiệu lực trừ phi hoặc cho tới khi hóa ở dãy Mi-ma-lay-a giống như ở vùng cao kiến thức nội dinh và những cơ sở kỹ năng Việt Nam theo một cách thức mà trong đó sự được nuôi lớn trong chính những cộng đồng biến đổi khí hậu đã có những ảnh hưởng có thể người ở vùng cao. Các chính sách giảm nghèo giải thích được đối với dân cư trong vùng. ở Đông Bắc Á cho thấy việc thi hành xóa đói Địa hình nhấp nhô đã làm chậm quá trình di giảm nghèo và các chương trình phát triển mà chuyển dân cư và làm thiếu đi sự tự nhiên không tạo ra những kiến thức phù hợp và năng trong giao tiếp giao tiếp khiến cho các dân tộc lực tiềm tàng của các cộng đồng sống riêng rẽ sống gần nhau vẫn còn rời rạc và vẫn duy trì ở vùng cao, những tỉnh biên giới chịu sự cô lập và phát triển nền văn hóa khác nhau.’[53] về văn hóa, bị cách ly và miệt thị thì sẽ không Sự phân biệt thái độ xảy ra hằng ngày đạt kết quả nào hết. Mặc dù Ấn Độ có những trong các cộng đồng người vùng cao ở Việt chiến lược vĩ mô, chiếm tới 10% nguồn ngân Nam và Đông Bắc Ấn Độ. Những người dân sách phát triển bang của các tỉnh Đông bắc Ấn, vùng này bị miệt thị, gọi là Chinkis (mắt lác), nhưng tính khả thi của việc xóa đói giảm Junglees (người rừng) và Paharis (những người nghèo vẫn chưa được thấy rõ. Những viễn miền núi) ở Ấn Độ, còn ở Việt Nam thì họ bị cảnh tối tăm có thể là do những chính sách gọi là mọi hoặc người Thượng. Sự đô hộ của không ăn khớp với nhau trong sự không can thực dân Pháp đã tiếp nhận những chính sách thiệp vào lối sống bộ lạc hoặc các dân tộc thiểu phân biệt những người ở vùng đồng bằng và số quốc gia. Cùng với sự không ăn khớp về những người ở vùng cao cũng giống như sự đô văn hóa, sự phụ thuộc một cách bắt ép vào các hộ của Anh đặt ra phạm vi cho phép và ranh quy tắc, tiêu chuẩn thì các chính sách và viễn giới rõ ràng đối với những người vùng cao ở cảnh của vùng trung tâm mà thường không để Ấn Độ, nơi này như địa phận bị ghẻ lạnh, đồng ý tới việc xem xét và phản ánh sự thật ở các thời tách rời hình thức tương tác tự nhiên hoặc địa phương cũng làm cho vấn đề trở lên phức dân dã giữa các cộng đồng người vùng cao và tạp hơn. Trong khi đó, ở Việt Nam, 30 triệu vùng đồng bằng. Tàn tích của thời kỳ đô hộ, người đã thoát khỏi cảnh nghèo, con số này bất kỳ chương trình hay dự án phát triền nào tương ứng với khoảng 40 triệu người ở Đông đều được coi là đề án khai phá văn minh. Bắc Ấn. Nhưng những thành tựu đáng kể đó Với bối cảnh giống nhau về mặt xã hội, bao gồm rất ít dân tộc thiểu số ở vùng cao văn hóa và chính trị và sự đình trệ trong kinh Hệ thống chính trị dường như không có tế giữa khu vực Đông bắc Ấn và khu vực vùng bất kỳ ảnh hưởng quyết định nào đối với việc giảm nghèo của các dân tộc thiểu số vùng cao [52], C. Patterson Giersch, “Từ tam giác vàng đến tứ giác kinh tế: ở Đông bắc Ấn và Việt Nam. [54] Yếu tố cản Đánh giá tiến trình phát triển kinh tế từ viễn cảnh lịch sử” www.ciaonet.org/wps/gpc01/gpc01.html. [53], Gerald D. Berreman, “Dân tộc và văn hóa ở Hi-ma-lay-a,” [54], Tác giả đã so sánh các cộng đồng người sống Khảo sát Châu Á, Vol. 3, No. 6, tháng sáu 1963, p. 290 rải rác ở biên giới Trung Ấn tại Rajen Singh Laishram “Khó khăn trong hiểu biết và phát triển tại các tỉnh 282
  3. trở trong việc mang lại một sự phát triển tổng tiện đi lại hiện đại là nguyên nhân dẫn đến việc thể ở vùng cao chính là một sự cô lập chính trị- bỏ học ở Việt Nam. địa lý, thiếu tương tác với thế giới và văn hóa Những nỗ lực cho việc phát triển và chế bên ngoài. Điều này đã làm cho hạn chế hoặc độ ‘khai hóa văn minh’ có thể được coi là hoặc thậm chí ngăn cản chuỗi thương mại quốc chính sách hệ thống cho việc khai thác và nô tế, và từ đó làm chậm lại sự hình thành nguồn dịch của dân tộc thiểu số. Hơn nữa, trong bối nhân lực tại chỗ. cảnh xã hội mới chỉ có thế hệ người học đầu Việc thiếu nguồn nhân lực đã gây ra sự tiên, sự thiếu khả năng phân biệt lĩnh vực tư thiếu hụt đi văn hóa và việc xây dựng nguồn nhân và công cộng, thiếu trách nhiệm cũng là lực bị kìm hãm trong các cộng đồng người những nhân tố gây chia rẽ, thờ ơ và làm giảm sống ở vùng cao ở cả Đông bắc Ấn và Việt đi tinh thần cộng đồng. Nực cười là ở chỗ sự Nam. Trong trường hợp của khu vực Đông bắc đẩy mạnh giáo dục dân tộc thiểu số, bảo tồn Ấn, nhiều chương trình sau đại học có thế hệ văn hóa và niềm tin tôn giáo qua truyền miệng, người học đầu tiên, [55] những người thực sự tiếng địa phương, tôn giáo và văn hóa cổ lại gặp khó khăn trong giao tiếp và hiểu biết sai không giúp cho các cộng đồng người tham gia lệch về các vấn đề nhân tài và các chính sách. một cách có hiệu quả vào công cuộc thay đổi. Do đó, giả thuyết rằng khát vọng và mong Một số nhóm dân tộc cũng đã nhận thức muốn của thế hệ trẻ nghèo thấp hơn so với thế được giáo dục là con đường mà qua đó những hệ trẻ có điều kiện. Điều này được thể hiện người đô hộ đạt được quyền lực và tính hợp trong sự lựa chọn áp dụng những quy tắc cho pháp. Qua việc cách ngôn hóa giáo dục là sinh viên tốt nghiệp và học sinh phổ thông ở ‘thanh gươm hai lưỡi’, ông Nagas ở Đông bắc vùng cao. Sự lựa chọn áp dụng các quy tắc Ấn diễn tả rằng giáo dục đã hướng một cộng thường dựa trên tính tự do và đạo đức. Trong đồng ban sơ tới hiểu biết về khoa học và công khi đó, khoa học, quản lý, kỹ sư và y tế là rất ít nghệ hiện đại, ấy thế mà nó cũng xâm lấn vào người học bởi chi phí cho những khóa học như cách sống, ngôn ngữ, quan điểm về thế giới và thế thường cao. Tham gia vào giáo dục đại học hệ thống niềm tin của con người.Việc áp dụng ở Đông bắc Ấn, ta có thể nói rằng ngoại trừ 3 một chương trình được tán thành trên toàn Ấn tỉnh Meghalaya, Mizoram và Manipur thì Độ được coi là một quá trình đô hộ lại người lượng thí sinh đăng ký thấp hơn con số trung Nagas đã mất khả năng để kiến tạo quá khứ bình 9.97 của toàn quốc gia. Và số lượng thí của họ một cách khách quan. [57] sinh đăng ký vào ngành khoa học, ngoại trừ ở Việc thiếu cơ sở vật chất, nguồn tài Manipur, thì thấp hơn so với con số trung bình nguyên và những hỗ trợ văn hóa cùng với sự 20.0 toàn quốc. [56]Tầm nhìn 2020 cho thấy tăng lên trong việc chia tách kỹ thuật số, đã rằng nhân tố về khoảng cách dẫn đến hiện loại bỏ và phân biệt các cộng đồng ở khu vực tượng bỏ học giữa chừng ở Đông bắc Ấn cao biên giới. Để thấy rõ hơn, chúng ta có thể nhìn hơn so với con số trung bình toàn quốc. Hẳn có vào mật độ vô tuyến ở khu vực Đông bắc Ấn lẽ không sai khi cho rằng những khó khăn năm 2004 là 2,08 trong khi đó mật độ của toàn tương tự chẳng hạn như thiếu đường tới quốc là 7,02, [58] qua đó cho thấy rằng có một trường, khoảng cách xa mà không có phương sự rủi ro lớn đối với những người mà không được tiếp cận tới thông tin và công nghệ truyền biên giới Trung Ấn,” Bối cảnh: Châu Á- Thái Bình Dương (Kolkata: Hiệp hội người Ấn Độ nghiên cứu Châu Á và Thái Bình dương trong hội thảo quốc tế lần thứ V,2012) trang . 514- [57] Dolly Kikon, “Phá hủy sự khác biệt, hài long với việc học: 530 Một phân tích sâu sắc về chính sách giáo dục cho vùng Naga,” [55], Dựa trên khảo sát ngẫu nhiên sinh viên khoa học chính trị Nghiên cứu văn hóa trong Châu Á Volume 2,số 2, 2003, trang. trong vòng 15 năm tại đại học Manipur 237-241 [56], Bộ Phát triển khu vực Đông bắc, Ủy ban ĐÔng bắc, Tầm [58],Bộ Phát triển khu vực Đông bắc, Ủy ban ĐÔng bắc, Tầm nhìn Đông bắc 2020 nhìn Đông bắc 2020 http://mdoner.gov.in/writereaddata/sublinkimages/Vision_2020_ http://mdoner.gov.in/writereaddata/sublinkimages/Vision_2020_ ANNEX.pdf trang. 119-120 ANNEX.pdf p. 106 283
  4. thông (ICTs) và sử dụng chúng một các hiệu thể ảnh hưởng một cách tiêu cực đến tương lại quả sẽ dẫn đến việc họ bị cô lập khỏi thế giới. và thậm chí là đặt ra một thách thức lớn về Tương tự, lượng người sử dụng Internet ở khu tính chính trực khu vực. Nói cách khác, sự vực này là 66,64 trên người, trong khi đó nhận thức thực thụ hoặc chỉ là tưởng tượng lượng người sử dụng trung bình toàn quốc là rằng có một chính sách kiên định về chế độ đô 3.260,78 năm 2003. [59] Sự kìm hãm phát hộ nội bộ liên quan đến những khu vực vùng triển cơ sở vật chất không chỉ liên quan đến cao cần phải được loại bỏ thông qua những nỗ công nghệ thông tin. Việc thiếu nguồn cung lực kiến tạo. cấp điện ổn định, đặc biệt là ở các khu làng có Những lựa chọn thu nhập thấp cũng là một vấn đề quan trọng Việc ưu tiên cho các nhóm dân tộc thiểu trong việc tạo ra kết nối cộng đồng. số hoặc những nhóm người mà cần có sự can Sự can thiệp chính trị và nhấn mạnh nam thiệp đặt ra giả thuyết rằng cần có sự phân bậc giới là những người con trai của đất trong sự nội bộ hoặc tầng lớp trong bản thân các bộ tộc lựa chọn đối tượng dạy học đã đặt lên trên chất hoặc nhóm dân tộc thiểu số. Việc ưu tiên này lượng giáo dục. Sự xói mòn chất lượng trong cần phải được kết hợp một cách tinh tế với những trường học công lập chính là căn những chính sách trái chiều mà không can nguyên của phương thức tuyển sinh như vậy. thiệp và lối sống bộ tộc và các dân tộc thiểu số Quá trình toàn cầu hóa và các dân tộc quốc gia. Phần lớn chính sách thiên về người thiểu số Kinh và người Ấn nhấn mạnh vào kiến thức và Sự tấn công của công cuộc toàn cầu hóa kỹ năng hiện đại cùng với sự phụ thuộc bắt và những điểm nhấn của nó về các kỹ năng, buộc vào các tiêu chuẩn, chính sách và bối kiếm thức và nhân lực hướng vào sự tham gia cảnh của trung ương. Những chính sách, của các cộng đồng địa phương vào quá trình chương trình này thường không để ý đến việc thay đổi. Bản chất của khái niệm nhân lực và xem xét và phản ảnh thực tế địa phương, và công nghiệp toàn cầu, lợi nhuận của những sự yêu cầu duy trì mặt bằng chung ổn định với đầu tư, khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên các nhân tố địa phương. thiên nhiên tại các tỉnh biên giới mà không có Cách thức thực hiện sự trả lại tương ứng hoặc hay không có sự Việc hoạch định bối cảnh và đưa ra các tham gia của các cộng đồng thiểu số đã dẫn chính sách cho cộng đồng thiểu số vung cao đến sự phá vỡ nguồn tài nguyên thiên nhiên, hoặc sự phát triển quốc gia cho tới nay chủ yếu sản vật, tăng tỷ lệ tội phạm, mại dâm,và nạn dựa trên kiến thức và kinh nghiệm của phương nhân chính là những người dân sống ở vùng tây trong khi đó nhu cầu và yêu cầu của những cao. người vùng cao có thể có nghĩa hơn nếu toàn Trong các hoạt động thương mại và quản bộ quá trình xuất phát từ khía cạnh nhân văn. lý cùng với sự phân cấp hàng đầu về luật áp Làm thế nào để chúng ta hiểu rõ được nỗi sợ cho các hãng hoặc doanh nghiệp ở các tỉnh hãi, sự cô lập và cảm xúc của những người bị biên giới, vùng cao Việt Nam và khu vực kỳ thị? Những ý kiến cực đoan đối với những Đông bắc Ấn cũng chịu sự chèn ép của đa số người thiểu số, coi họ là người lập dị cần được những người từ nơi khác đến. Thể chế tự do và xem xét để chúng ta có thể tự xem xét và liên các hoạt động không bị kiềm chế mà không có hệ với thực tiễn. Những nhu cầu về mặt địa lý, một cơ chế thích hợp để đảm bảo lợi ích và sự sinh học của những người vùng cao không thể tham gia của các cộng đồng người vùng cao có bị áp đặt bởi những người ở vùng đồng bằng, tuy nhiên việc xây dựng nguồn lực cho vùng [59],Bộ Phát triển khu vực Đông bắc, Ủy ban ĐÔng cao là rất cần thiết. Do đó, việc hoạch định bắc, Tầm nhìn Đông bắc 2020 chiến lược và can thiệp một cách khéo léo http://mdoner.gov.in/writereaddata/sublinkimages/ Vision_2020_ANNEX.pdf p. 107 chính là chìa khóa. Các cộng đồng người vùng 284
  5. cao không cùng nguồn gốc nhưng vô số những người hoặc cộng đồng người ở mức độ xã hội, kinh tế và giáo dục được nhóm lại với nhau. Những mục tiêu cụ thể hướng vào người thiểu số thường bỏ quên quá trình thực thi. Nếu tất cả các hệ thống xã hội xuất phát từ những người bình thường yêu cầu có một [60] cơ cấu ép buộc thì cách thức mà Việt nam gắn vào các cộng đồng người thiểu số vùng cao có thể là một khởi điểm tốt. Cách thức người Việt Nam giải quyết các vấn đề liên quan tới việc phát triển tại chỗ trong bối cảnh phát triển hợp lý có thể là một dấu hiệu để cho các vấn đề của người dân tộc thiểu số vùng cao Đông bắc Ấn. Về mặt địa lý, sinh học, văn hóa, nhu cầu của những người vùng cao không thể bị áp đặt bỏi những người vùng đồng bằng trung tâm .Bởi vì không tồn tại bất kỳ sự phát triển ý nghĩa và hiệu quả nào hoặc một thể chế xóa đói giảm nghèo nào thành công được khi mà những cộng đồng người vùng cao không được chuẩn bị sẵn sàng và được tự nuôi dưỡng, và chính họ là người nêu ra, thoải thuận để mang lại sự phát triển cho chính họ. Do đó, việc hoạch định chiến lược và can thiệp một cách khôn khéo đã trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết. Chúng ta không thể kỳ vọng rằng những sự đầu tư về giáo dục sẽ mang lại hiệu quả trong vòng thập kỷ như những loại hình đầu tư khác. Báo cáo của những người rút tài trợ khỏi giáo dục và phát triển cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam cần xem xét lại bởi lẽ chúng ta không thể kỳ vọng vào bất kỳ một phép màu nào từ chính những người vùng cao, những người mà bản thân đặc điểm địa lý, văn hóa và lịch sử đã cô lập họ khỏi thế giới bên ngoài hàng thế kỷ nay. Sự kiên định dựa trên tính minh bạch và trách nhiệm cùng với việc phác họa ra những tiên đoán về đầu tư có thể có ích về lâu dài cho cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam và Đông bắc Ấn Độ. [60], Amiya Kumar Bagchi, Khả năng tiếp cận và nền kinh tế chính trị trong sự phát triển con người, ở Kaushik Basu và Ravi Kanbur, eds., Tranh đầu cho một thế giới tốt hơn: guments for a Better World: Những bài luận danh giá của Amartya Sen: Volume II: Xã hội, các tổ chức và sự phát triển (Oxford: Nhà xuất bản đại học Oxford, 2009) trang. 34 285
nguon tai.lieu . vn