Xem mẫu

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 6, pp. 147-157
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn

DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0060

BLENDED LEARNING TRONG GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ VÀ ỨNG DỤNG
TRONG XÂY DỰNG HỆ CƠ SỞ DỮ LIỆU PHỤC VỤ DẠY VÀ HỌC
VĂN HÓA PHÁP CHO SINH VIÊN CHUYÊN TIẾNG PHÁP
Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Thị Anh Đào
Khoa Tiếng Pháp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự chủ của người học
ở bậc đại học đang là vấn đề đặt ra bức thiết hiện nay. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi
người học phải dành nhiều thời gian tự học. Tuy nhiên, việc hướng dẫn tự học, tự nghiên
cứu cho sinh viên mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu các sách tham khảo hay các nguồn tư
liệu trên internet, mà chưa có được sự hỗ trợ, trao đổi, hướng dẫn từ phía người dạy. Do
vậy, toàn bộ quá trình tự học của sinh viên hầu như còn mang tính tự phát, thiếu tính tương
tác, theo dõi, hỗ trợ.
Từ thực tế nêu trên, chúng tôi nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu một giải pháp đồng bộ và
hiệu quả nhằm phát huy tính tự chủ trong học tập, giúp sinh viên có thể tự học, tự nghiên
cứu. Chúng tôi đề xuất xây dựng một công cụ dạy và học dựa trên sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin và theo hướng dạy học tích hợp. Để xây dựng một công cụ đáp ứng yêu cầu trên,
trước hết chúng tôi sẽ làm rõ, về mặt lí luận, phương pháp sư phạm và phát triển mô hình
blended learning trong giảng dạy ngoại ngữ. Sau đó sẽ minh họa cụ thể bằng việc xây dựng
và tích hợp nội dung môn văn hóa Pháp cho sinh viên chuyên tiếng Pháp. Những luận điểm
và mô hình blended learning mà chúng tôi đề xuất trong khuôn khổ bài báo này không chỉ
áp dụng riêng cho môn học này.
Từ khóa: Tự học, dạy học ngoại ngữ tích hợp, văn hóa-văn minh, moodle, cơ sở dữ liệu,
e-learning.

1.

Mở đầu

Đào tạo đại học những năm gần đây đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ về phương pháp dạy học,
nhằm phát huy tính tích cực, tự chủ của người học, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu, góp
phần biến quá trinh đào tạo thành tự đào tạo ở đại học và dần hình thành thói quen học tập suốt
đời.
Tại các khoa trong trường ĐHSP Hà Nội, mô hình đào tạo theo học chế tín chỉ đòi hỏi sinh
viên phải có rất nhiều giờ tự học. Tuy nhiên, phần lớn sinh viên vẫn chỉ học giờ trên lớp, những
giờ tự học rất ít. Có thể thấy, vẫn chưa có được giải pháp hiệu quả và đồng bộ cho vấn đề này. Quá
trình hướng dẫn tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu các đầu sách
tham khảo hay các nguồn tư liệu trên các website, mà chưa có được sự hỗ trợ, trao đổi, hướng dẫn
Ngày nhận bài: 10/2/2016. Ngày nhận đăng: 10/6/2016.
Liên hệ: Nguyễn Văn Toàn, e-mail: toannv@hnue.edu.vn

147

Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Thị Anh Đào

từ phía người dạy và giữa người học với nhau. Do vậy, toàn bộ quá trình tự học của sinh viên hầu
như còn bỏ ngỏ, thiếu tính tương tác, theo dõi, hỗ trợ.
Với sinh viên khoa tiếng Pháp nói riêng, phần lớn sinh viên đầu vào là học tiếng Anh. Và
với chuẩn đầu ra là trình độ C1 theo khung tham chiếu 6 bậc [1], nếu không có tự học, sinh viên
không thể đáp ứng chuẩn đầu ra này. Sau 2 năm học thực hành ngôn ngữ, sinh viên phải chuyển
sang học các môn chuyên ngành được giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Và với thời lượng hữu
hạn trên giảng đường, sinh viên phải tìm tòi, tự đọc và nghiên cứu tìm hiểu rất nhiều mới có thể
theo được môn học.
Từ thực tế nêu trên, chúng tôi nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu tìm kiếm một giải pháp
đồng bộ và hiệu quả nhằm phát huy tính tự chủ trong học tập, giúp sinh viên có thể tự học, tự
nghiên cứu một cách hiệu quả. Giải pháp ấy chính là xây dựng được một công cụ giảng dạy và học
tập dựa trên sự hỗ trợ của công nghệ và tích hợp được đầy đủ các yếu tố: vừa là giáo trình, vừa là
tài liệu tự học, vừa dùng để học tập chính khóa vừa là để tự học ngoài giờ, có tính tương tác cao,
có sự theo dõi quá trình tự học và đặc biệt các tài liệu phải được chọn lọc kĩ, đủ độ tin cậy và kèm
theo các hoạt động hướng dẫn chi tiết.
Để xây dựng một công cụ đáp ứng yêu cầu trên, trước hết chúng tôi sẽ làm rõ, về mặt lí
luận, phương pháp sư phạm và phát triển mô hình blended learning (phương pháp dạy học kết hợp)
trong giảng dạy ngoại ngữ. Sau đó sẽ minh họa cụ thể bằng việc xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL)
cho việc giảng dạy và tự học môn văn hóa Pháp cho sinh viên chuyên tiếng Pháp. Những luận
điểm và mô hình blended learning mà chúng tôi đề xuất trong khuôn khổ bài báo này không chỉ
áp dụng riêng cho môn học này.

2.
2.1.

Nội dung nghiên cứu
Blended learning và bối cảnh dạy học ngày nay

Trong lĩnh vực giảng dạy ngoại ngữ, Blended learning không phải là một thuật ngữ mới,
nhưng được nhắc đến nhiều từ khi bùng nổ các ứng dụng CNTT trong dạy và học. Có nhiều công
trình nghiên cứu, sách chuyên khảo về đề tài này [2]. Tuy nhiên, khái niệm và nội hàm của thuật
ngữ thay đổi liên tục trong 20 năm qua.
Theo International Association for K-12 Online Learning (iNACOL), “phương pháp tiếp
cận tích hợp này kết hợp những yếu tố tốt nhất của học online và học trên lớp. Blended learning
đang nổi lên như một phương pháp chiếm ưu thế trong tương lai – và trở nên phổ biến hơn từng
phương pháp riêng lẻ.”
Tuy nhiên, khi xem xét cụ thể và tổng hợp các công trình nghiên cứu về Blended learning,
chúng tôi thấy các nhà nghiên cứu và các nhà sư phạm chưa đạt được đồng thuận về một định
nghĩa tổng quát, chính xác và được chấp nhận rộng rãi. Các tác giả thường đưa ra định nghĩa riêng
và mô tả các đặc điểm của blended learning gắn với một tình huống sư phạm cụ thể.
Trong một nghiên cứu tổng quan, Oliver & Trigwell [3] đã chỉ ra 3 cách hiểu khác nhau của
thuật ngữ Blended learning. Cụ thể là :
1. Phương pháp sư phạm kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống (được tổ chức theo
trường, lớp và dạy học giáp mặt) với các hoạt động học tập dựa trên nền tảng công nghệ web và
internet;
2. Phương pháp sư phạm kết hợp các phương tiện truyền thông và các công cụ công nghệ
được ứng dụng trong một môi trường e-learning;
148

Blended learning trong giảng dạy ngoại ngữ và ứng dụng trong xây dựng hệ cơ sở dữ liệu...

3. Cách thức dạy học có sự kết hợp của nhiều phương pháp sư phạm tùy thuộc theo nội
dung, đối tượng và tình huống dạy học và không quan trọng là công nghệ được sử dụng là gì.
Bên cạnh đó, McShane [4] bổ sung thêm yếu tố về mặt thời gian khi các công nghệ dạy học
ngày nay cho phép giáo viên và sinh viên giao tiếp ở thời gian thực hoặc ở những thời gian khác
nhau, vượt ra khỏi khuôn khổ của lớp học.
Với những thay đổi của xã hội và sự phát triển của các ngành khoa học, công nghệ, theo
chúng tôi một mô hình blended learning phải là một mô hình cho phép kết hợp một cách hiệu quả
nhiều phương thức đào tạo (modalities), nhiều phương pháp sư phạm (pedagogies), khai thác và
sử dụng nhiều phương tiện kĩ thuật và công nghệ thông tin (tools) phù hợp với từng nội dung và
tình huống sư phạm để cho phép người học có thể học tập dưới nhiều dạng thức (học tập dưới sự
hướng dẫn của giáo viên và tự học, cùng nhau tương tác và học tập online), ở mọi lúc, mọi nơi
(any where, any time) và phát triển năng lực phù hợp với đặc điểm cá nhân của mỗi học sinh [5].
Bởi bối cảnh tổ chức dạy và học ngày nay đã có những thay đổi sâu sắc, cụ thể như sau:
Một là, người học tiếp nhận và phát triển tri thức, kĩ năng trong nhiều bối cảnh (học ở
trường, học ở ngoài xã hội, học ở nhà), bằng nhiều cách khác nhau (theo một khóa học, tự học, học
tập ở trên mạng. . . ) nhờ có sự hỗ trợ của nhiều người và các công cụ kĩ thuật khác nhau. Ngày nay,
với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và sự thay đổi nhanh chóng của các hoạt động kinh tế xã
hội, việc học tập không chỉ và không thể dừng lại ở các khóa học chính khóa, mà nó vượt ra khỏi
khuôn khổ của quá trình tổ chức dạy học truyền thống. Để đáp ứng các yêu cầu của xã hội và sự
phát triển của bản thân, mỗi cá nhân phải nỗ lực học tập không ngừng, học tập suốt đời. Phương
pháp sư phạm và cách thức tổ chức dạy học truyền thống không đáp ứng được điều này. Hệ thống
giáo dục quốc dân, đặc biệt ở là bậc đại học cần phải có một cách tiếp cận đầy đủ hơn, toàn diện
hơn trong cách thức tổ chức quá trình giáo dục và đào tạo của mình. Mô hình blended learning,
như cách hiểu của chúng tôi, sẽ cho phép và hỗ trợ mạnh mẽ quá trình tự học, tự nghiên cứu, dần
dần hình thành ở người học khả năng và thói quen học tập suốt đời.
Hai là, trong quá trình thực hành nghề nghiệp, giáo viên không bao giờ chỉ sử dụng một
phương pháp duy nhất để truyền đạt những nội dung của môn học, họ thường lựa chọn, kết hợp rất
linh hoạt các phương pháp sư phạm, tùy theo đối tượng, bối cảnh dạy học và các điều kiện kĩ thuật
khác để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình hình thành và phát triển tri thức, năng lực của
học sinh. Mô hình blended learning cho phép và khuyến khích kết hợp đa dạng các phương pháp
sư phạm, các cách tiếp cận để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình dạy học.
Ba là, các nguồn thông tin có thể sử dụng cho học tập và phát triển năng lực thì rất dồi dào,
đa dạng và dễ dàng tiếp cận. Trong một môi trường học tập truyền thống (dạy học giáp mặt và học
tập với sách, giáo trình), cả người dạy và người học chưa ý thức và tận dụng được những cơ hội
mà xã hội thông tin đem lại. Blended learning tạo ra những cơ hội học tập để người học không chỉ
tiếp cận và học tập với sách vở, giáo trình chính thức, mà còn thúc đẩy việc khai thác các nguồn
thông tin và tài liệu thực phục vụ phát triển tri thức và năng lực.
Bốn là, với sự phát triển của các phương tiện kĩ thuật, mà chủ yếu là các phương tiện trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, quá trình dạy học đang ngày càng chịu sự chi phối và
hỗ trợ của các công cụ tin học (máy tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng, ti vi, internet. . . ).
Mối quan hệ sư phạm giữa thầy và trò ngày càng thông qua các phương tiện truyền thông. Quá
trình giao tiếp này càng ngày càng hiệu quả hơn thông qua nhiều kênh, nhiều phương thức và dưới
nhiều dạng (điện thoại, email, trò truyện trực tuyến, forum) và cho phép cả giáo viên và học sinh
tương tác với các đối tác bên ngoài môi trường trường lớp. (gia đình và xã hội)
Với cách hiểu tổng quát trên, để xây dựng mô hình blended learning ứng dụng trong giảng
149

Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Thị Anh Đào

dạy ngoại ngữ, chúng tôi sẽ phân tích một số nguyên tắc và chỉ ra một số tham số trọng yếu chi
phối quá trình thiết kế mô hình học tập này.

2.2.

Một số nguyên tắc và tham số xây dựng mô hình dạy học kết hợp trong
giảng dạy ngoại ngữ

Những nguyên tắc và tham số mà chúng tôi phân tích sau đây là những nguyên tắc và tham
số chính cần phải tính đến trong quá trình xây dựng mô hình blended learning trong dạy học ngoại
ngữ. Đây là kết quả được rút ra từ quá trình nghiên cứu và triển khai xây dựng mô hình blended
learning tại khoa Tiếng Pháp - Đại học Sư phạm Hà Nội.

2.2.1. Mô hình tích hợp
Trong bối cảnh của quá trình đào tạo chính quy, có 5 mô hình triển khai blended learning,
dịch chuyển giữa hai cực: dạy học giáp mặt và đào tạo từ xa.

Hình 1: Mô hình kết hợp Blended learning
Ở mô hình (1), blended learning là MỘT cấu phần nhỏ triển khai trong quá trình dạy học
giám mặt, chính quy và chỉ diễn ra trong khuôn khổ của lớp học được biểu đạt bằng đường viền
khung chữ nhật. Giáo viên có thể sử dụng một phương pháp sư phạm khác, hay một công cụ công
nghệ thông tin để truyền tải nội dung giảng dạy (ứng dụng bài giảng powerpoint, tổ chức hoạt động
nhóm. . . thay vì thuyết trình, giảng giải).
Ở mô hình (2), blended learning tập trung vào những hoạt động học tập diễn ra TRƯỚC và
SAU giờ học, ngoài khuôn khổ của lớp học. Ví dụ giáo viên có thể yêu cần sinh viên tự tìm hiểu
nội dung học trước giờ lên lớp và viết một bài luận sau giờ học. Ở giai đoạn trước và sau giờ học,
nội dung, phương pháp và thời gian thực hiện các hoạt động học tập là hoàn toàn do người học
quyết định, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, được thể hiện bằng sự kết nối của các hoạt động này
với giờ dạy học giáp mặt của giáo viên.
Ở mô hình (3), blended learning gồm NHIỀU cấu phần và được tích hợp trực tiếp vào quá
trình giảng dạy giáp mặt. Ở góc độ của giáo viên, đó có thể là các phương pháp sư phạm khác nhau
được dùng để truyền đạt những nội dung cụ thể. Ở góc độ của người học, đó có thể là nhiều hoạt
động học tập khác nhau (nghe giảng, làm việc cá nhân, làm việc nhóm, trình bày trước lớp. . . ). Về
mặt nội dung học, đó có thể là sự kết hợp giữa những nội dung đã được giáo viên biên soạn (theo
đúng nội dung, trình độ) và những tài liệu lấy từ thực tế. Quá trình học tập từ xa (không trực tiếp
đến lớp) diễn ra ở nhiều giai đoạn, cho nhiều nội dung khác nhau.
Ở mô hình (4), blended learning được triển khai mạnh mẽ và kết hợp một cấu phần ĐÀO
150

Blended learning trong giảng dạy ngoại ngữ và ứng dụng trong xây dựng hệ cơ sở dữ liệu...

TẠO TỪ XA, TỰ HỌC. Hoạt động học tập được triển khai TRƯỚC, TRONG, SAU giờ học, có
sự hướng dẫn của giáo viên. Tuy nhiên, hình thức dạy học giáp mặt vẫn là chủ yếu, chiếm nhiều
thời lượng nhưng có cách thức tổ chức linh hoạt hơn, đan xen giữa những giai đoạn giảng dạy tập
trung, học tập bên ngoài lớp học, học tập trực tuyến.
Ở mô hình (5), cách tiếp cận blended learning được triển khai mạnh mẽ nhất. Phần lớn quá
trình đào tạo được tổ chức và triển khai dưới dạng tự học, từ xa, trực tuyến, chỉ một số ít thời
lượng dành cho các hoạt động dạy học giáp mặt, tập trung chủ yếu vào giai đoạn đầu (tổ chức
các hoạt động học tập), một số buổi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập (để trao đổi, tháo
gỡ những khó khăn, định hướng, trợ giúp) và cuối quá trình đào tạo (để báo cáo, trình bày kết
quả học tập và tổng kết). Mô hình này đang thay đổi mạnh mẽ và căn bản quá trình tổ chức dạy
học truyền thống. Hiện nay một số tổ chức giáo dục hàng đầu, có nguồn lực mạnh mẽ về CNTT
đang triển khai thí điểm mô hình này. Đó là những khóa học mở, trực tuyến, miễn phí (MOOC Massive open online course) của các trường đại học hàng đầu trên thế giới (Viện công nghệ MIT,
đại học Stanford, Havard, đại học quốc gia Australia. . . ) được triển khai trên các nền tảng và hệ
thống công nghệ thông tin quản lí các hoạt động học tập như Edx (https://www.edx.org), Coursera
(https://www.coursera.org), Udacity (https://www.udacity.com). Ở Việt Nam, công ti công nghệ
và giáo dục FPT cũng đã triển khai mô hình blended learning này thông qua hệ thống FUNiX
(“Đại học trực tuyến” https://www.funix.edu.vn), ở đó sinh viên học tập hoàn toàn trên mạng,
bằng nguồn học liệu mở, với sự tư vấn và trợ giúp của các chuyên gia (mentor) được giới thiệu là
“các chuyên gia công nghệ hàng đầu Việt Nam, người trực tiếp “chỉ đường” cho sinh viên trong
quá trình học, đồng thời là nhà tuyển dụng sinh viên trong tương lai”.
Blended learning theo mô hình (5) sẽ phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới và có thể trở
thành mô hình học tập phổ biến nhất của thế kỉ 21 - thế kỉ của xã hội thông tin và truyền thông.

2.2.2. Các tham số xây dựng mô hình tích hợp
Phương thức đào tạo
Trong mô hình blended learning, nhiều phương thức đào tạo sẽ được tích hợp. Cụ thể có 3
phương thức chủ yếu là dạy học giáp mặt, dạy học từ xa và học tập trực tuyến, trong đó phải xác
định một phương thức chủ đạo, có tính hệ thống, liền mạch và đảm bảo mức độ tiến bộ tăng dần
cho người học, những phương thức còn lại sẽ bổ sung, hỗ trợ cho phương thức chính trong việc
thực hiện mục tiêu đào tạo. Việc lựa chọn phương thức nào là chính phụ thuộc vào mục tiêu giáo
dục, điều kiện tổ chức và các nguồn lực mà giáo viên có. Theo Kerres [6], cách xác định phương
thức đào tạo chính dựa trên 3 tiêu chí sau :
- Các hoạt động học tập chủ yếu được thực hiện thông qua phương thức đào tạo này;
- Việc phân chia nội dung, tiến trình dạy học và mức độ tiến bộ;
- Người học thường dành nhiều thời gian nhất cho phương thức đào tạo này.
Từ những yếu tố trên, các mô hình blended learning có thể khác nhau và tập trung vào một
phương thức đào tạo cụ thể, nhưng không loại trừ các phương thức khác.
Trong quá trình xây dựng hệ thống blended learning của chúng tôi, phương thức đào tạo
chủ yếu vẫn là dạy học chính khóa, giáp mặt. Nhưng các nội dung và cách thức triển khai cũng
được xây dựng theo hướng hỗ trợ tự học, tự nghiên cứu thông qua các nhiệm vụ học tập mà sinh
viên phải thực hiện ngoài giờ học, có sự hỗ trợ, tổ chức của hệ thống e-learning.
Phương pháp sư phạm
Mô hình blended learning trong dạy học chính quy mà chúng tôi phát triển cho phép kết
151

nguon tai.lieu . vn