Xem mẫu

BIỂU TƯỢNG CỔ MẪU TRONG VĂN XUÔI VÕ THỊ HẢO
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LY
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng
LÊ THỊ HƯỜNG
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Biểu tượng ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình trong
nhiều lĩnh vực của đời sống, từ văn hóa, phong tục, lối sống cho đến tôn
giáo, nghệ thuật và đặc biệt là văn học. Đối với văn học, biểu tượng đã mở ra
khả năng vô tận trong việc khám phá, nhận thức thế giới xung quanh và con
người. Trong văn xuôi của Võ Thị Hảo xuất hiện rất nhiều biểu tượng: biểu
tượng huyền thoại, biểu tượng thiên tính nữ, biểu tượng cổ mẫu…Ở bài viết
này chúng tôi lựa chọn lửa, nước và đất – những đứa con yêu của cổ mẫu để
thấy được tài năng cũng như nỗi niềm trăn trở về cuộc đời, về con người của
“người đàn bà cầm bút” mang tên Võ Thị Hảo.
Từ khóa: biểu tượng, cổ mẫu, văn xuôi Võ Thị Hảo

1. MỞ ĐẦU
Nhà sử học người Pháp Guy Schoeller cho rằng: “Sẽ là quá ít, nếu nói rằng chúng ta
sống trong một thế giới biểu tượng, một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta”. Biểu
tượng ngày càng khẳng định vai trò trong nhiều lĩnh vực của đời sống, từ văn hóa,
phong tục, lối sống cho đến tôn giáo, nghệ thuật và đặc biệt là văn học. Đối với văn học,
biểu tượng đã mở ra khả năng vô tận trong việc khám phá, nhận thức thế giới xung
quanh và con người đặc biệt là chiều sâu vô thức, bản năng. Vì thế hành trình đến với
những chân trời của biểu tượng trong văn học là hành trình khám phá con đường trở về
cội nguồn văn hoá, đồng thời cũng là cuộc hành trình nhận thức của nhân loại.
Một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng làm nên sức hấp dẫn của văn xuôi Võ Thị
Hảo chính là dòng chảy sâu kín của ngôn ngữ biểu tượng. Có những biểu tượng bước ra
từ cổ mẫu, có những biểu tượng đến từ những câu chuyện huyền thoại, cổ tích lại có
những biểu tượng do chính tác giả sáng tạo nên. Biểu tượng nghệ thuật trong văn xuôi
Võ Thị Hảo không chỉ là tấm gương phản chiếu số phận nhân vật mà còn là một dạng
mã hóa những cảm xúc tư tưởng nghệ thuật về đời sống, nâng tác phẩm lên tầm ý nghĩa
triết học. Để thể hiện cuộc sống con người đa chiều kích, nhà văn đã tìm đến với cổ
mẫu, tìm những vết hằn đầu tiên trong ký ức nhân loại. Cổ mẫu (archetype), theo Từ
điển văn học là “khái niệm dùng để chỉ những mẫu của các biểu tượng, các cấu trúc
tinh thần bẩm sinh, trong tưởng tượng của con người, chứa đựng trong vô thức tập thể
của cộng đồng nhân loại; vô thức tập thể này là một yếu tố đặc trưng cho tất cả các vô
thức cá nhân”[7, tr. 972]. Như vậy, cổ mẫu trước hết cũng là biểu tượng nhưng có sức
khái quát cao hơn biểu tượng, là những mẫu của các biểu tượng. Nó là những gì lắng
đọng trong tâm thức của con người qua hàng ngàn thế hệ để trở thành vô thức tập thể.
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 02(34)/2015: tr. 52-58

BIỂU TƯỢNG CỔ MẪU TRONG VĂN XUÔI VÕ THỊ HẢO

53

Giữa vũ trụ ngổn ngang của cổ mẫu, Võ Thị Hảo thấy lửa, bị cuốn hút bởi nước và dừng
chân lại với đất.
2. HỆ CỔ MẪU LỬA
Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, lửa được giải thích với những ý nghĩa: lửa
là bản thể, lửa thần thánh, lửa tẩy uế và tái sinh, lửa hủy diệt, lửa giới tính và lửa là biểu
tượng của sự giác ngộ [2]. Trong tác phẩm của Võ Thị Hảo biểu tượng lửa xuất hiện
dày đặc với rất nhiều biến thể, dung chứa nhiều tầng nghĩa. Giàn thiêu là sự xâu chuỗi,
liên kết, tung tóe của biểu tượng lửa với rất nhiều những biến thể: lửa thù hận, lửa thực
thể, máu, màu đỏ, mùi khét… Lửa trở thành biểu tượng trung tâm, kết nối các mạch
truyện (lịch sử, dã sử, huyền thoại, hiện thực…), các tuyến nhân vật (thiện, ác, thực,
ảo…). Lửa làm nên hồn linh của tác phẩm. Lửa xuất hiện đầu tiên ở nhan đề của tác
phẩm, lửa biến đảo Âm Hồn thành đảo lửa khi thiêu cháy 48 cô cung nữ và cuối cùng
lửa lại tiếp tục bùng cháy khi vua Lý Thần Tông băng hà đem theo 27 cung nữ. Ngọn
lửa lúc này là ngọn lửa thực thể, có khả năng thiêu đốt. “Lửa lập tức bùng lên. Những
lưỡi đỏ khổng lồ thèm khát rần rật liếm giàn thiêu. Sạn đạo cũng bùng cháy như một
con dao long khổng lồ quằn quại há cái miệng ngùn ngụt lửa đỏ mà nuốt trọn đảo Âm
Hồn” [5, tr. 37]. Lửa thiêu đốt sự thật, những cuốn sách “tà thư” của Lê Thị Đoan biến
thành tro bụi. Sự xâu chuỗi biểu tượng lửa/giàn thiêu đã vạch trần tội ác của lịch sử, luật
lệ man rợ của chế độ phong kiến.
Marius Schneider phân biệt hai dạng lửa: lửa theo trục hỏa-thổ (biểu tượng của dục
vọng, sức nóng mặt trời và năng lượng thể chất), và lửa theo trục hỏa-khí (liên hệ với
thuyết thần bí, sự thanh tẩy hay sự kiềm chế dục vọng và năng lượng tinh thần). Nghĩa
là lửa có tính chất nhị nguyên: hủy diệt và tái sinh. Nét nghĩa mang đậm chất nhân văn
của lửa là sự tái sinh. Đó là ngọn lửa ban phát của đấng Thượng hoàng Nhân tông khiến
dân chúng cảm động, từ chỗ oán thán chuyển sang ngợi ca công đức của đức minh
quân. Ngọn lửa và nồi thuốc đã cứu sống Nhuệ Anh từ chàng Cá Bơn. Đó còn là vẻ đẹp,
là thần thái Ngạn La với đôi mắt cháy rực trong bóng tối. Sau khi trầm mình dưới dòng
sông Gâm, thác Oán, Nhuệ Anh nghĩ rằng mình đã có thể chấm dứt cuộc đời nhưng
ngọn lửa đã sưởi ấm cơ thể đưa cô bước giật lùi từ cõi chết trở về kiếp sống con người.
Những cuốn sách của Lê Thị Đoan dù bị đốt cháy cũng không thể diệt được, nó đã nằm
trong kí ức của nhân dân (Giàn thiêu).
Cùng với cổ mẫu lửa, màu đỏ chính là một sắc lửa xuất hiện với tần số cao trên những
trang văn của Võ Thị Hảo. Màu đỏ loang khắp Rừng Cười, loang cả trong đêm, “Năm
cô gái sống trong lo âu mà rừng thì cứ lầm lì trải đầy thảm lá rụng. Ánh đỏ của thảm lá
hắt lên cả bầu trời ánh ỏi, khiến cho đêm của họ cũng mang màu đỏ”; màu đỏ loang,
nhòe trong giấc mơ của Thảo như một ám ảnh (Người sót lại của Rừng cười). Màu đỏ
ngợp đầy Vũ điệu địa ngục. Cái chết người con gái ấy đã tạo ra sắc đỏ oan nghiệt ám
ảnh cả bầu trời. Màu đỏ còn lặp lại nhiều lần trong truyện ngắn Võ Thị Hảo như một
khát vọng: “…đừng đỏ như màu máu loãng. Cũng đừng đỏ tím như màu hoa mười giờ.
Mà cũng đừng đỏ như màu lửa cháy. Chỉ là màu đỏ. Đơn giản thế mà thôi…”. Thỏi son

54

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LY - LÊ THỊ HƯỜNG

của người mẹ mắc bệnh cùi mãi mãi nằm trên bàn thờ với một bông hoa bất tử màu nâu
(Phiên chợ người cùi).
3. NƯỚC VÀ NHỮNG BIẾN THỂ
Nếu lửa được xem là đứa con của trời vì nó cháy sáng và bốc lên thì nước thuộc về đất
vì nó rơi xuống thành mưa và ở lại với nhân loại. Ngược dòng về quá khứ, chúng ta dễ
dàng nhận thấy, nước đã có một chặng đường dài gắn bó với văn học Việt Nam từ thuở
hồng hoang. Bắt nguồn từ những huyền thoại Con Rồng cháu Tiên, Đẻ đất đẻ nước,
Mị Châu – Trọng Thủy… cho đến những hình ảnh sông, ao, mưa, sương… xuất hiện
trong văn học trung đại và tuôn chảy với hàng loạt những biến thể khác nhau ở văn học
hiện đại. Các nhà nghiên cứu nhận định rằng nghiên cứu Nước (Eau) khó hơn Lửa rất
nhiều. Có lẽ vì nước là nguyên tố xuất hiện đầu tiên trong bốn yếu tố chính của vũ trụ
(Nước, Lửa, Khí, Đất). Mang tính nữ, tính mẹ, hình tượng nước khơi dậy những mơ
mộng vĩnh cửu về sự ấm áp che chở và thuần khiết: “Nước là dạng thức thực thể của thế
giới, là nguồn gốc của sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng
của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính thanh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và
đức hạnh” [2, tr. 710]. Nước được xem là một thực thể khởi nguyên làm nên nhiên giới
và nhân giới. Nước nuôi sống con người, cỏ cây, muông thú. Nước có mặt trong những
thần thoại, truyền thuyết. Nước chảy tràn vào văn hóa. Và nước tuôn chảy trên những
trang văn của Võ Thị Hảo làm thành biểu tượng. Nó biến hình, tồn tại dưới nhiều dạng
thức khác nhau.
Dòng sông có thể coi là một trong những cổ mẫu đẹp nhất của văn hoá nhân loại. Là
một biến thể của mẫu gốc nước, sông một mặt mang những ý nghĩa biểu trưng chung
của nước, một mặt có những hướng nghĩa biểu trưng riêng gắn liền với những đặc điểm
bản thể của nó và quan niệm của nhà văn. Với Võ Thị Xuân Hà, sông là tẩy rửa, thanh
lọc và tái sinh (Trong nước giá lạnh); trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, sông là
phù du và cũng là phù sa (tiểu thuyết Sông). Với Võ Thị Hảo, sông cũng mang tính chất
nhị nguyên. Với nữ văn sĩ Võ Thị Hảo, sông là chứng nhân cho tình yêu của đôi trai tài
gái sắc Nhuệ Anh và Từ Lộ. Trên chiếc bè trôi theo dòng nước, tình yêu của hai người
đã thăng hoa tột đỉnh, họ đã trao cho nhau những gì nồng thắm nhất “một lần và mãi
mãi”. Nước mưa từ trên trời ve vuốt cơ thể, nước dưới sông lăn tăn đẩy nhẹ chiếc bè
bập bềnh trên sóng nước, dìu dắt đôi tình nhân vào những cảm xúc ngọt ngào, êm ái.
Thế nhưng chỉ sau đó, sông đã hóa thành thủy thần cuốn trôi người con gái xinh đẹp
Nhuệ Anh đang mang một trái tim tan nát muốn kết liễu đời mình. Sông trở thành kẻ
hủy diệt. Rồi lại tái sinh, hai lần con người buộc sông phải trở thành quỷ dữ: Nhuệ Anh
trầm mình và chàng Cá Bơn lúc nhỏ bị mẹ kế dìm xuống nước cho chết. Cả hai lần sông
đều từ chối đón nhận và thực hiện quyền năng tái sinh của mình. Nhuệ Anh được chàng
Cá Bơn cứu sống và trở thành sư bà động Trầm. Cậu bé Cá Bơn được con cá cứu sống
và trở thành chàng Cá Bơn.
Biển xuất hiện với tần số lớn trong văn xuôi Võ Thị Hảo với nhiều ý nghĩa. Biển trước
hết là biểu tượng của sự tái sinh, xoa dịu nỗi đau. Biển đã đón nhận thị- người đàn bà bị
hắt hủi ở chốn trần gian và biến thị trở thành Nữ thần trôi dạt (Biển cứu rỗi). Còn sông

BIỂU TƯỢNG CỔ MẪU TRONG VĂN XUÔI VÕ THỊ HẢO

55

Gâm, thác Oán trả lại người con gái xinh đẹp Nhuệ Anh cho trần gian. Ở dạng thức nào,
qua ý đồ nghệ thuật của nhà văn nữ nhân hậu, Nước/Biển/Sông đã cứu rỗi cho những
người phụ nữ đa đoan. Biển khát vọng cũng là biểu tượng được nhiều nhà văn khai thác.
Nhân vật Hơ Thuyền trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai cũng khao khát biển đến
cháy lòng, và để thấy biển cô gái đã tìm đến cái chết: “…Tôi biết nó không chết đâu mà
nó bay về biển đó. Tôi nằm ngủ, thấy nó đứng trên một chiếc thuyền đẹp lắm, căng lá
buồm rất to ra khơi” (Thuyền trên núi). Từ vô thức nhân loại, Võ Thị Hảo thành công
khi sử dụng cổ mẫu đề biểu đạt cơn khát cháy lòng của một cô gái Mông sinh ra và lớn
lên ở miền rừng núi. Không gian biển ở đây được đặt trong sự tương quan với không
gian chật chội của rừng núi càng làm tăng thêm những khao khát muốn tìm đến biển của
Sải. Để rồi khi gieo mình xuống vực sâu thăm thẳm, với Sải biển mãi mãi chỉ là giấc
mơ, nó ở xa lắm (Con dại của đá).
Một dáng hình khác của nước là mưa. Những giọt mưa đêm trong Tấm ván phóng dao
của Mạc Can nhắc lại quá nhiều nỗi buồn trong quá khứ dẫu đã qua nhưng dư vị còn
đọng mãi trong kí ức của nhân vật tôi: “Mưa rơi lộp độp trên mái lá nhà lồng chợ vắng
tanh, chợ không người, sân khấu không ánh đèn, không khán giả, buồn ai oán, chung
quanh mờ mịt gió nước, tiếng ếch nhái ồm ộp, một lúc vang vang, một lúc lặng thinh.
Tiếng mưa rơi hoài, não ruột suốt canh thâu, tôi thao thức mòn mỏi cho tới khi thiếp đi,
bàn tay lạnh vô tình đưa lên khuôn mặt không thể nào gột sạch dấu phấn trắng, chì đen,
son đỏ” [1, tr. 2]. Với Võ Thị Hảo, mưa trở thành biểu tượng của niềm hi vọng, ước mơ,
ân huệ ban phát từ trời (Làn môi đồng trinh). Mưa mềm mại, đồng lõa với cuộc ái ân
của Từ Lộ và Nhuệ Anh (Giàn thiêu). Mưa còn là biểu tượng của sự sống. Thiếu mưa
“Những dòng sông cạn khô vì hạn hán... Cỏ cháy. Rừng cháy” [5, tr. 496]. Vua lập đàn
tràng cầu mưa. Khắp nơi nơi vang lên những tiếng cầu mưa. Sư bà động Trầm “lê tấm
thân mong manh đi khắp các dòng sông khô cạn, ngửa mặt lên trời và hát gọi mưa” [5,
tr. 495].
“Mưa trở về trời/ Nu na nu nời/ Ru trời/ Trời ơi” [5, tr. 264]. Lời hát của Ngạn La
(Giàn thiêu) như một phương thuốc kì diệu xoa dịu nỗi đau của vị vua hóa hổ đang vật
vã từng giây từng khắc trên long sàng. Thăng trầm của cuộc đời, của thời gian, những
đố kị ganh ghét của chốn cung đình, kì lạ thay không lấy được những thanh âm trong
trẻo của cô gái bắt cua thủa mười ba. Mưa và khúc đồng dao như những dòng suối mát
lành xoa dịu bớt không khí hừng hực của giàn thiêu nhân thế, vơi dịu những nỗi khổ
đau, bất hạnh của con người. Mưa/nước/khí/trời… những mẫu gốc kết chuỗi trong lời
đồng dao, với điệu da diết như tiếng thổn thức của cõi lòng. Cởi bỏ lớp áo bào của đức
hoàng đế và cung nhân, Thần Tông và Ngạn La biến thành hai đứa trẻ lanh lảnh cất lên
những khúc đồng dao như tiếng ngọc rơi. Không còn quyền thế, không còn phép tắc,
không còn dục tính chỉ còn lại khung trời mơ mộng, đáng yêu của tuổi thơ.
Nước mắt (trong tư duy biểu tượng của nhà văn) cũng mang chức năng tái sinh, đây là
nét nghĩa mang đậm chất nhân văn của cổ mẫu nước. Những giọt nước mắt của sư bà
Nhuệ Anh đã làm cho vua Thần Tông thức tỉnh, “Nước mắt của bà tưới lên người đức
vua. Vua run rẩy. Và kì lạ, nước mắt chảy đến đâu, những đám lông vằn vện tuột ra

56

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LY - LÊ THỊ HƯỜNG

từng đám, rồi lột hết, lộ ra thân mình của đức vua với nước da trắng xanh, thư sinh nho
nhã…” [5, tr. 463]. Những giọt nước mắt của Nhuệ Anh là những giọt nước mắt được
chắt lọc, nó chứa bao hờn ghen và uất hận lẫn vị tha.
3. KHÚC BIẾN TẤU CỦA ĐẤT
Đất trong văn xuôi Võ Thị Hảo tồn tại với nhiều những biến thể và mang những ý nghĩa
khác nhau. Xét về mặt trực quan “đất cứng cáp, đục thô, ổn định, rộng rãi, ngập tràn
cây cối, nuôi sống muôn loài, đất như người Mẹ có sức sản sinh và tái sinh, bền bỉ
trong một nhịp điệu âm thầm và bao dung” [8]. Theo Nguyễn Thị Thanh Xuân, cổ mẫu
đất xuất hiện đầu tiên trong văn học Việt Nam ở sử thi Đẻ đất, đẻ nước của người
Mường bên cạnh cổ mẫu nước và cổ mẫu cây thủy tổ (cây si). Huyền thoại Con Rồng,
cháu Tiên kể cho chúng ta về sự phân li giữa Đất và Nước. Người mẹ Âu Cơ đã “bám
đất” nuôi năm mươi người con, sinh sôi nảy nở và tạo ta muôn loài [8]. Trong thơ Hồ
Xuân Hương, cổ mẫu đất được gắn với những biểu tượng phồn thực như: hang, động,
đèo… Võ Thị Hảo cho ta những góc nhìn mới hơn về biểu tượng đất cùng những biến
thể của nó.
Đất nguyên mẫu là “tấc đất, tấc vàng” với ý nghĩa nuôi sống con người được thể hiện
qua lễ tịch điền (Giàn thiêu). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vị vua đầu tiên thân hành
xuống ruộng để thực hiện lễ tịch điền trong lịch sử Việt Nam là vua Lê Đại Hành. Tiếp
nối truyền thống đó vua Lý Nhân Tông cũng tổ chức lễ hội này. Lễ tịch điền được tổ
chức hàng năm nhằm tôn vinh người mẹ đất, khẳng định tầm quan trọng của đất đối với
đời sống con người. Cũng chính bởi ý nghĩa này nên khi cậu bé Dương Hoán bỏ qua
kiếm, đao thương, rượu chè, phấn son để chạy tới đứng cạnh đức vua cầm hòn đất lên
toét miệng cười khiến tất cả mọi người đều tâm phục, khẩu phục trước người kế vị trong
tương lai. “Được vàng bạc châu báu, cung kiếm gươm đao thì dễ. Được đất mới là triệu
được nước” [5, tr. 260].
Đất là biểu tượng của sự chở che. Nhân vật trong tác phẩm Võ Thị Xuân Hà trong
những khoảnh khắc buồn vui, hạnh phúc bất hạnh thường tìm đến đất: “Tôi lăn ra đất,
áp tai xuống mặt đất nồng nàn”; “Tôi chỉ là một sinh linh bé nhỏ, tồn tại nhờ khí trời
khí đất khí sông” (Trong nước giá lạnh). Trong Giàn thiêu, được chàng Cá Bơn cứu
sống, Nhuệ Anh biết rằng nàng chưa thể dứt duyên nợ với trần đời. Nàng ra đi: “Bước
chân lưu lạc và những tiếng mỏ đều đều ru ngủ cứ văng vẳng trong không trung đã đưa
đẩy Nhuệ Anh tới động Trầm” [5, tr. 329]. Xấp xỉ hai mươi tuổi, người con gái xinh đẹp
với đôi mắt hút hồn ấy đã xuống tóc nương nhờ cửa Phật. Nàng chôn cuộc đời mình nơi
động Trầm, trong những tiếng cầu kinh để mong được bình yên. Thế giới với nàng chỉ
có Từ Lộ. Nàng đã bỏ cha mẹ, cuộc sống vinh hiển lặn lội tìm chàng và đã bị chàng cự
tuyệt. Nếu động Trầm che chở cho người con gái tội nghiệp thì ở nơi xa kia “một vòm
hang trắng bạc, phủ đầy thạch nhũ, ấm áp” [5, tr. 359] che chở cho Từ Lộ. Nơi đó “Thời
gian ngưng đọng. Lá cây rụng xuống che phủ. Tổ mối đùn lên lấp dần” [5, tr. 364]. Nơi
đó chỉ có Từ với một trái tim nhuộm máu căm thù, với lòng quyết tâm tu thành đạo để
trả thù cho cha mẹ. Bỏ lại đằng sau người con gái mình yêu, quên đi lứa tuổi 17, quên
tiếng sáo tiêu tương một thời làm mê đắm bao người, trốn mình trong sự chở che, bao

nguon tai.lieu . vn