Xem mẫu
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 19 - 2020 ISSN 2354-1482
BIÊN SOẠN TỪ ĐIỂN VÀ VIỆC BIÊN SOẠN
TỪ ĐIỂN CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT
Lê Kính Thắng1
TÓM TẮT
Biên soạn từ điển là hoạt động đã có từ rất sớm và từ điển học (lexicography) là
khoa học nghiên cứu về việc biên soạn từ điển. Từ điển với rất nhiều hình thức khác
nhau của nó đã trở thành một công cụ không thể thiếu đối với nhiều người, đáp ứng
nhu cầu sử dụng chính xác, hiệu quả ngôn ngữ. Nhận thức đúng đắn về tính khoa học
của hoạt động biên soạn từ điển vẫn là việc làm cần thiết, có ý nghĩa đối với không chỉ
các nhà ngôn ngữ học mà còn với những người quan tâm đến việc chuẩn hóa ngôn
ngữ. Bài viết này tập trung vào việc giới thiệu chung về từ điển, việc biên soạn từ
điển và nêu lên một số đề xuất về việc biên soạn từ điển chính tả tiếng Việt nhằm đáp
ứng nhu cầu sử dụng hiện nay.
Từ khóa: Biên soạn từ điển, từ điển, từ điển chính tả, tiếng Việt, chuẩn hóa
ngôn ngữ
1. Một số vấn đề chung về từ điển từ có giải nghĩa (từ điển thông thƣờng)
và biên soạn từ điển hoặc một danh mục các chữ (từ điển
1.1. Khái niệm từ điển, từ điển học chính tả), hoặc là danh mục các từ
Nhƣ nhiều thuật ngữ khoa học tƣơng ứng với các từ trong ngôn ngữ
khác, từ điển (dictionary) là một khái khác (từ điển đối dịch). Từ điển thƣờng
niệm còn gây nhiều tranh luận. Có hàng cung cấp các thông tin liên quan đến từ
trăm định nghĩa của các nhà khoa học đƣợc nêu ra, chẳng hạn, thông tin về
về thuật ngữ này. Sự khác biệt đó cách phát âm, ngữ pháp, các hình thức
thƣờng bắt nguồn từ mục đích định từ (đối với các ngôn ngữ biến hình),
nghĩa, từ góc độ tiếp cận khái niệm của nguồn gốc, minh họa, cách dùng và các
các tác giả. Tuy nhiên, từ các định ví dụ, các cấu trúc chứa từ đang đƣợc
nghĩa khác nhau về thuật ngữ này chúng đề cập tới.
ta có thể nhận thấy những điểm tƣơng Các từ điển thƣờng chứa đựng các
đồng cơ bản bên cạnh một vài dị biệt thông tin, hiểu biết về ngôn ngữ
không đáng kể. (linguistic knowledge) chứ không phải
Thuật ngữ từ điển đƣợc John là các thông tin, hiểu biết về thế giới
Garland sử dụng lần đầu ở thế kỷ 13 và (world knowledge). Những hiểu biết về
sau đó đƣợc Thomas Elyot (1538) diễn thế giới thƣờng chỉ xuất hiện trong các
đạt bằng thuật ngữ tiếng Anh từ điển bách khoa (encyclopedia).
“dictionary”. Từ “dictionary” (từ điển) Việc định nghĩa từ điển chỉ đƣợc
bắt nguồn từ tiếng Latinh, “diction”, có xác định đầy đủ, chính xác nếu chúng ta
nghĩa là “word” (từ). gắn nó với mục đích và lĩnh vực cụ thể
Từ điển, nhìn từ góc độ là một thuật mà ngƣời biên soạn chúng đặt ra. Có
ngữ ngôn ngữ học, là một danh mục các thể định nghĩa từ điển nhƣ là sự thể hiện
1
Trƣờng Đại học Đồng Nai
Email: lekinhthang@gmail.com
46
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 19 - 2020 ISSN 2354-1482
của một phần vốn từ vựng của một của từ vựng, nghĩa của từ trong một
ngôn ngữ để phục vụ một mục đích nhất ngôn ngữ bởi cách dùng của các từ có
định. Một cách chính xác, có thể nói, thể thay đổi theo các thời kỳ, giai đoạn
không có từ điển nào có thể bao quát, khác nhau cũng nhƣ cách dùng của các
phản ánh đầy đủ toàn bộ từ vựng của từ có thể bị ảnh hƣởng, chi phối bởi
một ngôn ngữ. Một từ điển đƣợc xem là phong cách, vùng miền khác nhau.
đầy đủ khi nó tiệm cận đến vốn từ đƣợc 1.2. Phân loại từ điển
sử dụng nhiều nhất, thƣờng xuyên nhất Việc phân loại từ điển đƣợc xem là
và đƣợc công nhận bởi đông đảo ngƣời một trong những nhiệm vụ thiết yếu của
sử dụng ngôn ngữ đó. các nhà từ điển học. L.V. Shcherba, nhà
E.A. Nida cho rằng: “Từ điển là sự ngôn ngữ học hàng đầu ngƣời Nga,
miêu tả phân bố của các đơn vị ngôn trong công trình “Kinh nghiệm lý thuyết
ngữ (thƣờng là từ) từ phƣơng diện ngữ đại cƣơng về từ điển học”
cảnh ngôn ngữ và văn hóa, trong đó, (Experience of the general theory of
nhìn chung, ngữ cảnh văn hóa đóng vai lexicography), đã phân loại từ điển dựa
trò chính” [1, tr. 279]. trên sáu đối lập cơ bản sau:
Từ điển học là khoa học và nghệ 1) Từ điển học thuật (Dictionary of
thuật biên soạn từ điển. Từ điển học Academic) và Từ điển thông tin
nghiên cứu những vấn đề lý thuyết và (Informative Dictionary);
thực tiễn trong việc biên soạn từ điển. 2) Từ điển bách khoa thƣ
Từ điển học đƣợc chấp nhận rộng rãi (Encyclopedic Dictionary) và Từ điển
nhƣ là một phân ngành của ngôn ngữ đại cƣơng (General Dictionary);
học. Nhiệm vụ của các nhà từ điển là 3) Từ điển đồng nghĩa
miêu tả các mục từ từ vựng và sắp xếp (Concordance/ Thesaurus) và Từ điển
chung theo một trật tự nhất định. định nghĩa thông thƣờng (Ordinary/
Các nhà từ điển, cho dù có quan Regular Dictionary);
niệm khác nhau về công việc của mình, 4) Từ điển thông thƣờng (Ordinary
đều chia sẻ việc biên soạn từ điển là Dictionary) và Từ điển khái niệm/ phạm
hoạt động miêu tả (descriptive activity), trù (Ideological Dictionary);
ghi chép cách dùng đang đƣợc chấp 5) Từ điển định nghĩa (Defining
nhận chứ không phải đƣa ra các chuẩn Dictionary) và Từ điển dịch
tắc (prescriptive/ normative rules) về (Translating Dictionary);
cách dùng của các từ hay về những cách 6) Từ điển lịch đại (Historical
dùng không đúng của các từ trong ngôn Dictionary) và Từ điển phi lịch đại
ngữ đó. Tuy nhiên, việc xác định cách (Nonhistorical Dictionary) (dẫn theo [2]).
dùng đƣợc chấp nhận hiện tại có thể Các đối lập trên dựa trên tập hợp
không giống nhau giữa các tác giả biên các đặc tính thiết yếu nhƣ đối tƣợng
soạn từ điển. Ngƣời biên soạn từ điển miêu tả hoặc một phƣơng diện nổi trội
cũng cần phải lƣu ý tới những thay đổi của đối tƣợng miêu tả nào đó; hoặc
47
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 19 - 2020 ISSN 2354-1482
phƣơng pháp và bản chất ngữ nghĩa của thực thụ (khoa học văn hóa, khoa học
các đơn vị từ vựng (vocabulary units), văn học, khoa học xã hội, khoa học
v.v… Hƣớng phân loại của ông vừa công nghệ). V. Dorosevskij (dẫn lại của
phản ánh đƣợc bức tranh các loại từ [4, tr. 323]) đã xem từ điển học là “khoa
điển vừa góp phần định hƣớng, xây học về các quá trình phân loại từ và sự
dựng lý thuyết loại hình học về từ điển thể hiện của chúng trong các từ điển”.
trong nhiều thập kỷ qua. Việc biên soạn từ điển, do đó, phải xem
E.A. Nida dựa trên mục đích của nhƣ một hoạt động khoa học bởi các
việc biên soạn từ điển, nêu ra 3 loại từ đặc điểm sau:
điển cơ bản: - Có đối tƣợng nghiên cứu riêng,
1) (Từ điển) liệt kê các mục từ có gắn với các nhu cầu cụ thể của xã hội;
định nghĩa kèm theo (nhƣng không - Dựa trên hệ thống các khái niệm,
quan tâm đến ngữ cảnh sử dụng); phạm trù, lý thuyết, giả thuyết nhất
2) (Từ điển) liệt các các mục từ có định;
bối cảnh ngôn ngữ kèm theo; - Phản ánh lịch sử của từ và cả lịch
3) (Từ điển) liệt kê các mục từ có ngữ sử của việc biên soạn từ điển, các ý
cảnh văn hóa kèm theo [1, tr. 279-280]. tƣởng tiền lý thuyết về từ điển (pre-
Việc phân loại từ điển, nhƣ quan theoretical ideas);
điểm của B.T. Atkins và M. Rundell [3, - Chứa đựng những đóng góp độc
tr. 27], không đơn giản và cần phải dựa lập về phƣơng pháp luận;
vào nhiều tiêu chí, đặc điểm. Việc biên - Bao gồm các hƣớng hành động
soạn một từ điển nào đó, cần phải quan thực tiễn. [4, tr. 323].
tâm đến việc lựa chọn tiêu chí một cách Trong một bài viết bàn về việc biên
cẩn thận trên cơ sở mục đích thƣơng soạn từ điển, I.E. Gullberg cho rằng nhiệm
mại và đối tƣợng sử dụng từ điển. Có vụ quan trọng và khác biệt của ngƣời soạn
vậy, việc biên soạn từ điển mới đạt hiệu từ điển là phải tiếp cận với nguồn ngữ liệu
quả tối ƣu. sống động từ thực tiễn (“living” sources)
1.3. Việc biên soạn từ điển [5, tr. 6]. Ngƣời biên soạn từ điển phải nỗ
Hoạt động biên soạn từ điển đòi hỏi lực tạo ra một công cụ hữu hiệu và có tính
ngƣời biên soạn vừa phải có những hiểu thực tiễn cho ngƣời có nhu cầu sử dụng
biết chuyên ngành, hiểu biết ngôn ngữ ngôn ngữ [5, tr. 8].
vừa phải có những hiểu biết kỹ thuật về Việc biên soạn từ điển phải tuân thủ
in ấn. Việc biên soạn từ điển đƣợc một các phƣơng pháp và quy trình chặt chẽ.
số tác giả xem đó là một hoạt động có Theo B.T. Atkins và M. Rundell [3,
tính thủ công và mang tính chất hoạt tr.99], sự thành công của một từ điển
động nghệ thuật, nó có thể có tính khoa phụ thuộc rất nhiều vào tài năng của
học chứ không phải là một hoạt động ngƣời biên soạn nhƣng phƣơng pháp,
khoa học; tuy nhiên, phần lớn các tác quy trình biên soạn đều phải trải qua
giả xem đó là một hoạt động khoa học các bƣớc chính nhƣ xác định khung
48
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 19 - 2020 ISSN 2354-1482
kiến thức (framework) rõ ràng để xây Gasparo d'Amiral (nửa đầu thế kỷ
dựng, tập hợp dữ liệu (database) từ đó XVII), Từ điển Việt - La của Pierre
xử lý dữ liệu cho phù hợp mục đích và Joseph Georges Pigneau de Béhaine,
cuối cùng là hoàn thiện từ điển. (nửa sau thế kỷ XVIII), Từ điển Việt -
S. Tarp [4, tr. 322] cho rằng quy La và Từ điển La - Việt của J. L. Tabert
trình biên soạn từ điển gồm 3 bƣớc: i) (nửa đầu thế kỷ XIX). Tác giả của các
chuẩn bị (lập kế hoạch, chuẩn bị ngữ từ điển trên do các nhà truyền giáo nƣớc
liệu và lựa chọn các mục từ); ii) biên ngoài biên soạn và hƣớng tới đối tƣợng
tập (sắp xếp các mục từ); iii) thực hiện là ngƣời ngoại quốc. Mặc dù những từ
bản in. Nhƣ đã trình bày trên, công việc điển nêu trên là các từ điển song ngữ,
biên soạn từ điển là một hoạt động thực đa ngữ nhƣng việc sử dụng hệ thống
hành khoa học. chữ Latinh để phiên âm các mục từ có
2. Biên soạn từ điển chính tả thể xem là bước tiên phong, khai phá
tiếng Việt của việc xây dựng hệ thống chính tả
2.1. Lược sử việc biên soạn từ tiếng Việt. Các từ điển này vừa nhằm
điển, từ điển chính tả tiếng Việt cung cấp vốn từ, những hiểu biết cơ bản
Việc biên soạn từ điển tiếng Việt về ngữ pháp tiếng Việt, vừa là từ điển
(bằng chữ Quốc ngữ) gắn với 3 giai chính tả cho ngƣời ngoại quốc, giúp họ
đoạn chính: (i) giai đoạn hình thành chữ tiếp cận với hệ thống chữ viết, các quy
Quốc ngữ; (ii) giai đoạn hoàn thiện chữ tắc chính âm, chính tả tiếng Việt.
Quốc ngữ; (iii) giai đoạn hiện nay1. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ thế kỷ
Giai đoạn hình thành chữ Quốc ngữ XX. Đây là giai đoạn tiếng Việt đã khá
đƣợc đánh dấu bằng sự ra đời Việt - Bồ hoàn thiện, ổn định về hệ thống chữ viết
- La từ điển2 (Dictionarium tiếng Việt và quy tắc ghi âm. Việc biên
Annamiticum Lusitanum et Latinum) soạn từ điển lúc này đã từng bƣớc
của Alexandre de Rhodes (1651) [7]. chuyên nghiệp hóa và có sự thay đổi
Từ điển này đƣợc in bằng chữ Roman mạnh mẽ từ hƣớng từ điển đa ngữ sang
gồm 8.000 mục từ tiếng Việt có tƣơng từ điển đơn ngữ; từ chỗ phục vụ mục
ứng tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Latinh. đích sử dụng cho ngƣời nƣớc ngoài
Ngoài ra còn một số từ điển khác, chẳng sang phục vụ cho chính ngƣời Việt; từ
hạn, Từ điển Bồ Đào Nha - Annam của chỗ đơn mục đích sang giai đoạn biên
soạn từ điển đa mục đích - ngoài việc sử
1 dụng từ điển giải thích, đối chiếu đã
Nguyễn Đình Hòa [6] chia lịch sử biên soạn từ
điển tiếng Việt thành 4 giai đoạn: (i) Giai đoạn chuyển sang từ điển chuyên sâu, chuyên
truyền giáo, (ii) Giai đoạn Pháp thuộc, (ii) Giai ngành; các từ điển chính tả cũng bắt đầu
đoạn độc lập và phân chia 2 miền, (iv) Giai
đoạn sau 1975.
xuất hiện nở rộ trong giai đoạn này.
2
Trong công trình này [7], tác giả đã dành Từ điển trong giai đoạn này có sự
Chƣơng 1 (từ trang 2 đến trang 7) để bàn về các gia tăng về số lƣợng và từng bƣớc
chữ cái và âm tiết của tiếng Việt và Chƣơng 2
(từ trang 8 đến trang 10) để bàn về dấu giọng và chuyển biến theo hƣớng tích cực về
các dấu phụ khác trong tiếng Việt.
49
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 19 - 2020 ISSN 2354-1482
chất lƣợng. Có thể kể tên một số công điển phổ biến là từ điển chính tả và từ
trình tiêu biểu nhƣ: Tinh nghĩa Việt ngữ điển giải thích.
từ điển của Long Điền Nguyễn Văn Riêng đối với các từ điển phổ
Minh (1951), Từ điển tiếng Việt do Văn thông, hiện nay trên thị trƣờng có sự
Tân (chủ biên) (1967), Từ điển Việt xuất hiện phổ biến, nở rộ của các loại từ
Nam của Lê Văn Đức (1970), Từ điển điển đặc biệt là từ điển đơn ngữ, từ điển
đồng nghĩa tiếng Việt của Nguyễn Văn song ngữ và từ điển chính tả.
Tu (1985), Từ điển tiếng Việt do Hoàng Có thể nói, thực trạng biên soạn từ
Phê (chủ biên) (1988), Từ điển từ và điển hiện nay đặt ra nhiều vấn đề cần
ngữ Hán - Việt của Nguyễn Lân (1989), phải suy nghĩ nghiêm túc và đòi hỏi các
Tự điển Hán Việt thông dụng của Lạc nhà khoa học cũng nhƣ các nhà quản lý
Thiện (1991), Từ điển yếu tố Hán Việt văn hóa phẩm phải có những hành động
thông dụng do Hoàng Văn Hành (chủ cụ thể để làm tốt vai trò định hƣớng, hỗ
biên) (1991), Từ điển trái nghĩa - đồng trợ ngƣời dùng và cũng để ngƣời sử
nghĩa tiếng Việt do Dƣơng Kỳ Đức (chủ dụng có thể có đƣợc những sản phẩm
biên) (1992). chất lƣợng, đáng tin cậy.
Về từ điển chính tả, giai đoạn này có 2.2. Một số đề xuất trong việc biên
một số từ điển đáng lƣu ý nhƣ: Từ điển soạn từ điển chính tả tiếng Việt
chính tả của Lê Ngọc Trụ (1959), Từ Các mục từ trong từ điển nói chung
điển tần số tiếng Việt của Nguyễn Đức và từ điển chính tả nói riêng phải đƣợc
Dân, Lê Quang Thiêm (1980), Từ điển sắp xếp theo một cách hợp lý để ngƣời
chính tả thông dụng của Nguyễn Kim đọc có thể tìm kiếm thông tin nhanh
Thản (1984), Từ điển chính tả tiếng Việt chóng và chính xác. Mỗi loại từ điển có
do Hoàng Phê (chủ biên) (1988). cách tổ chức, sắp xếp các mục từ khác
Giai đoạn hiện nay, khoa học công nhau; và ngay trong một loại từ điển
nghệ đã làm thay đổi diện mạo của từ (chẳng hạn, từ điển chính tả), sự tổ
điển. Ngoài các từ điển đƣợc xuất bản chức, sắp xếp các mục từ cũng có thể
dƣới hình thức bản in, nhiều từ điển khác nhau tùy thuộc quan điểm, năng
khác đƣợc xây dựng bởi các phần mềm lực của ngƣời biên soạn.
và sử dụng online. Việc biên soạn từ điển chính tả,
Các từ điển bản giấy bao gồm các cũng nhƣ biên soạn từ điển nói chung,
từ điển trƣớc đây đƣợc tái bản (chẳng có thể khác biệt giữa các tác giả. Với kỳ
hạn, Từ điển tiếng Việt của GS. Hoàng vọng hƣớng tới phục vụ một cách tiện
Phê) và các từ điển đƣợc biên soạn mới. lợi nhất cho ngƣời sử dụng, chúng tôi
Căn cứ vào nội dung và đối tƣợng sử [8] khi xây dựng từ điển chính tả đã
dụng, các từ điển hiện nay bao gồm từ hƣớng tới một số điểm mới so với các
điển chuyên ngành và từ điển phổ từ điển hiện hành nhƣ sau:
thông, từ điển bách khoa. Trong các - Mỗi mục từ đƣợc phân thành hai
dạng từ điển phổ thông hai hình thức từ nhóm: (i) nhóm có từ của mục từ ở vị trí
50
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 19 - 2020 ISSN 2354-1482
đầu trong thí dụ; (ii) nhóm mà từ của chỉ đƣa ra những mục từ và thí dụ điển
mục từ không ở vị trí đầu trong thí dụ. hình chứ không liệt kê toàn bộ từ ngữ
Ở mỗi nhóm, các thí dụ đƣợc sắp xếp trong tiếng Việt.
theo trật tự chữ cái. Điều này vừa bảo Các mục từ trong từ điển này đƣợc
đảm tính khoa học vừa tiện lợi cho sắp xếp theo trình tự chữ cái, trình tự
ngƣời dùng trong việc tra cứu. dấu thanh nhƣ sau:
- Nêu ra một số trƣờng hợp hay - A, Ă, Â, B, C, D, Đ, E, Ê, F, G, H,
nhầm lẫn về nghĩa, cách dùng do viết I, J, K, L, M, N, O, Ô, Ơ, P, Q, R, S, T,
sai chính tả. Chẳng hạn, để tránh nhầm U, Ƣ, V, W, X, Y, Z.
lẫn giữa ÁN VĂN với ÁNG VĂN, - ngang (không dấu), huyền, hỏi,
trong mục từ ÁN và trong mục từ ÁNG, ngã, sắc, nặng.
từ điển đƣa ra lƣu ý: Các mục từ trong từ điển sắp xếp
* Phân biệt ÁN VĂN (phán quyết theo trật tự chữ cái và dấu giọng nêu
của tòa án) với ÁNG VĂN (tác phẩm trên và theo trình tự trƣớc hết là chữ
văn chƣơng). đầu, tiếp theo đến các chữ khác trong
- Nêu ra các trƣờng hợp lƣỡng khả âm tiết (chẳng hạn, “ch” xếp trƣớc “co”,
(hai cách dùng đều đƣợc chấp nhận), “gh” trƣớc “gi”...).
chẳng hạn: BAN ÂN và BAN ƠN, ÂN Trình tự các thí dụ đƣợc nêu trong
ĐỨC và ƠN ĐỨC. mỗi mục từ đƣợc phân thành 2 nhóm:
- Định hƣớng cho ngƣời dùng sử nhóm 1 gồm các thí dụ mà từ trong mục
dụng hình thức chuẩn chính tả. Chẳng từ xuất hiện ở vị trí đầu và nhóm 2 gồm
hạn, trong mục từ BỘC, từ điển lƣu ý: các thí dụ mà từ trong mục từ không ở
* BỘC PHÁT nên viết là BỘT PHÁT. vị trí đầu. Chẳng hạn, trong mục BÀI,
- Nêu các trƣờng hợp không có trong BÀI TRỪ đƣợc xếp ở nhóm 1, trƣớc
tiếng Việt (nhƣ ÃM, ÂNG, BẺN,...). AN BÀI (xếp ở nhóm 2) vì ở kết hợp
- Có nêu ra một số hình thức chính đầu, BÀI ở vị trí đầu của kết hợp; trong
tả phản ánh ghi âm của một số phƣơng khi BÀI ở kết hợp thứ hai ở vị trí sau.
ngữ phổ biến và quy chiếu tới hình thức Các thí dụ trong mỗi mục từ đƣợc xếp
chuẩn chính tả. Chẳng hạn, GIANH theo trật tự chữ cái. Hai nhóm (nếu mục
(phn) (nhà gianh) x. TRANH. từ chứa đủ hai nhóm) đƣợc phân tách
Chúng tôi hy vọng những ngƣời bằng dấu chấm phẩy; các thí dụ trong
yêu tiếng Việt nói chung và học sinh, một nhóm đƣợc phân tách bằng dấu
sinh viên có nhu cầu viết đúng chính tả phẩy. Trong một số trƣờng hợp, để
và sử dụng đúng nghĩa của những từ dễ tránh nhầm lẫn, thông tin ngữ cảnh
bị sai chính tả có thể tìm trong từ điển đƣợc thêm vào, chẳng hạn: (dầu) bạc
này những thông tin hữu ích. hà... Phần thông tin ngữ cảnh không
Trong cách trình bày, chúng tôi đƣợc dùng làm cơ sở cho việc sắp xếp
cũng có một số quy ƣớc hƣớng tới giản từ ngữ theo trình tự chữ cái.
tiện cho ngƣời sử dụng, cụ thể là từ điển
51
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 19 - 2020 ISSN 2354-1482
Để thuận tiện cho ngƣời dùng, * BỂN (phn) (ở bển) x. BÊN.
trong nhiều mục từ, một số thông tin Trong từ điển này chúng tôi chỉ đƣa
lƣu ý đƣợc đƣa vào cuối mục từ. Chẳng vào một số từ thông tục, địa phƣơng,
hạn, trong mục ÁC, có lƣu ý sau: nghề nghiệp, thuật ngữ phổ biến, đã
* Phân biệt ÁC NGHI P (tội ác, tội quen thuộc, hay đƣợc sử dụng.
lỗi do mình gây ra) với ÁC NGHI T 3. Kết luận
(độc ác và cay nghiệt). Biên soạn từ điển và biên soạn từ
Phần lƣu ý đƣợc trình bày với cỡ điển chính tả là một công việc phức tạp,
chữ nhỏ hơn. đòi hỏi ngƣời biên soạn phải có những
Một số ký hiệu, diễn đạt thƣờng dùng: hiểu biết ngôn ngữ học, có sự đầu tƣ trí
A viết B : hình thức A tồn tại lực trong việc lựa chọn ngữ liệu, xử lý
nhƣng hình thức chuẩn mực là B. ngữ liệu. Xác định mục đích biên soạn
A nên viết B : cả hai hình thức rõ ràng, xây dựng phƣơng pháp làm
A và B đều tồn tại nhƣng hình thức việc khoa học, lập kế hoạch làm việc
chuẩn mực là B. hợp lý và nhất quán trong xử lý ngữ liệu
A cũng viết là B : cả hai hình thức là nhiệm vụ và yêu cầu mà ngƣời biên
A và B đều tồn tại và đƣợc chấp nhận. soạn từ điển phải quán triệt để có thể
A x. B : Hình thức B tạo ra đƣợc một cuốn từ điển dễ đọc,
chuẩn hơn A. hữu ích, bảo đảm tính khoa học. Đối
(cũ) : cách dùng cũ với việc biên soạn một cuốn từ điển
(tt) : trang trọng chính tả tiếng Việt, ngoài việc phải
(phn) : phƣơng ngữ quan tâm đến phƣơng pháp, quy trình
x. x. (quy chiếu tới hình có tính chất phổ quát, ngƣời biên soạn
thức đúng chính tả) từ điển còn phải quan tâm đến những
/ : hoặc, hay là vấn đề đặc thù của tiếng Việt - một
Đối với cách dùng không phổ biến ngôn ngữ đơn lập điển hình, và hệ
hoặc phƣơng ngữ, chúng tôi trình bày thống chữ viết có nhiều điểm riêng của
nhƣ sau: Yếu tố ít dùng hoặc phƣơng nó. Với những yêu cầu nhƣ vậy, việc
ngữ đƣợc nêu trƣớc, sau đó là thí dụ biên soạn một cuốn từ điển chính tả có
(đặt trong ngoặc) và cách viết chuẩn chất lƣợng cao vẫn còn là một thách
mực đƣợc nêu sau. Chẳng hạn, mục thức, một mục tiêu cần hƣớng tới của
BỂN đƣợc chú thích nhƣ sau: các nhà Việt ngữ học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nida, Eugene A. (1958), “Analysis of Meaning and Dictionary Making”,
International Journal of American Linguistics, Vol. 24, No. 4, Franz Boas
Centennial Volume (Oct., 1958), pp. 279-292
2. Farina, Donna M.T.Cr. (1995), “L. V. Shcherba: Towards a General Theory of
Lexicography”, International Journal of Lexicography, Volume 8, Issue 4, pp. 314-
350
52
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 19 - 2020 ISSN 2354-1482
3. Atkins B.T., Rundell Michael (2008), The Oxford Guide to Practical
Lexicography, Oxford University Press
4. Tarp S. (2012), “Do We Need a (New) Theory of Lexicography?”, Lexikos,
Vol. 22, p. 321-332
5. Gullberg, Ingvar E. (1966), “On Dictionaries and Dictionary-Making”,
Scandinavian Studies, Vol. 38, No. 1, pp. 1-122
6. Dinh-Hoa Nguyen (1991), “Vietnamese Lexicography”, Herausgegeben von,
at al, Dictionaries: An International Encyclopedia of Lexicography, Walter de
Gruyter & Co
7. Rhodes A. de (1651/1991), Từ điển Annam-Lusitan-Latinh (Từ điển Việt-
Bồ-La), (Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính dịch), Nxb Khoa học
Xã hội, TP. Hồ Chí Minh
8. Lê Kính Thắng (2017), Từ điển chính tả tiếng Việt, Nxb Đại học Sƣ phạm
TP. Hồ Chí Minh
MAKING DICTIONARIES AND THE MAKING OF
VIETNAMESE SPELLING DICTIONARIES
ABSTRACT
Making dictionaries is a very early activity and lexicography is a science of
dictionary-making. Dictionary with its many different forms has become an
indispensable tool for many people, meeting the need for accurate and effective
language use. The correct understanding of the scientific nature of dictionary -
making is still a necessary and meaningful job for not only linguists but also
those interested in language standardization. This article focuses on providing
general introduction to dictionaries and making dictionaries, and giving some
suggestions on the making Vietnamese spelling dictionaries to meet the needs of
current use.
Keywords: Making dictionaries, dictionary, spelling dictionary, Vietnamese,
language standardization
(Received: 15/11/2020, Revised: 26/11/2020, Accepted for publication: 30/11/2020)
53
nguon tai.lieu . vn