Xem mẫu
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trần Thị Thu Hoài
Sù BIÕN §æI CHÝNH TRÞ ë VIÖT NAM
tõ 1858 ®Õn 1945
NHµ XUÊT B¶N §¹I HäC QuèC GIA Hµ NéI
- 2 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
- Mục lục 3
MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt ...................................................................... 7
Lời giới thiệu........................................................................................... 10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính trị, biến đổi chính trị ....................... 13
1.1.1. Quan niệm về chính trị và một số thuật ngữ liên quan........ 13
1.1.2. Quan niệm về biến đổi chính trị ........................................... 27
1.2. Chính trị Việt Nam trong lịch sử, biến đổi chính trị ở Việt Nam
từ 1858 đến 1945 - Một số nhận thức chung .................................. 29
1.2.1. Chính trị Việt Nam trong lịch sử - Những nhân tố tác động
và một số đặc điểm chủ yếu ................................................ 29
1.2.2. Biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945
Một số nhận thức chung ...................................................... 35
Chương 2
SỰ BIẾN ĐỔI TỪ CHÍNH TRỊ PHONG KIẾN
SANG CHÍNH TRỊ THỰC DÂN - PHONG KIẾN
2.1. Quá trình và nội dung biến đổi từ chính trị phong kiến
sang chính trị thực dân - phong kiến ............................................... 39
2.1.1. Lực lượng nắm giữ, ảnh hưởng tới quyền lực nhà nước
ở Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược .................... 39
2.1.2. Quá trình thay đổi lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước
ở Việt Nam sau khi thực dân Pháp xâm lược ...................... 45
- 4 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
2.2. Nguyên nhân biến đổi từ chính trị phong kiến
sang chính trị thực dân - phong kiến ............................................... 64
2.2.1. Nguyên nhân trực tiếp ......................................................... 64
2.2.2. Nguyên nhân sâu xa ............................................................ 76
2.3. Việc xác lập các cơ sở cho sự tồn tại của chính trị thực dân -
phong kiến ....................................................................................... 98
2.3.1. Thiết lập các công cụ bảo vệ chính quyền .......................... 98
2.3.2. Xác lập cơ sở kinh tế cho sự cai trị thuộc địa .................... 104
2.3.3. Xác lập cơ sở tư tưởng, văn hoá cho sự cai trị thuộc địa....... 115
2.3.4. Xác lập cơ sở xã hội cho sự cai trị thuộc địa ..................... 124
2.3.5. Đánh giá chung về các cơ sở thực dân
Pháp thiết lập cho sự cai trị chính trị ở Việt Nam .............. 136
Chương 3
SỰ BIẾN ĐỔI TỪ CHÍNH TRỊ THỰC DÂN PHONG KIẾN
SANG CHÍNH TRỊ DÂN CHỦ NHÂN DÂN
3.1. Quá trình lựa chọn kiểu nhà nước cho bài toán độc lập ở Việt Nam
từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX ..................................... 141
3.1.1. Khuynh hướng tái lập kiểu nhà nước phong kiến
cuối thế kỷ XIX ................................................................... 141
3.1.2. Khuynh hướng xác lập kiểu nhà nước tư sản
đầu thế kỷ XX .................................................................... 143
3.1.3. Khuynh hướng lựa chọn kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa
đầu thế kỷ XX .................................................................... 156
3.2. Quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn của Đảng Cộng sản
và sự chuẩn bị các tổ chức tiền nhà nước cho sự ra đời
của một nhà nước mới ở Việt Nam ................................................ 191
3.2.1. Quá trình nhận thức từ nhà nước công nông binh
đến nhà nước dân chủ nhân dân và hoạt động thực tiễn
của Đảng Cộng sản ........................................................... 191
3.2.2. Chuẩn bị các hình thức tổ chức tiền nhà nước
cho sự ra đời của một nhà nước mới ở Việt Nam .............. 195
3.3. Quá trình xác lập chính trị dân chủ
thay thế chính trị thực dân - phong kiến ........................................ 196
- Mục lục 5
3.3.1. Sự thay thế lực lượng cầm quyền ...................................... 196
3.3.2. Xác lập các yếu tố của một nền chính trị mới ................... 206
3.3.3. Ý nghĩa và hệ quả của sự biến đổi từ chính trị thực dân -
phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân .................... 214
KẾT LUẬN ............................................................................................. 223
TcI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 233
- 6 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
- Mục lục 7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chủ nghĩa tư bản CNTB
Tư bản chủ nghĩa TBCN
Chủ nghĩa thực dân CNTD
Chủ nghĩa đế quốc CNĐQ
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Xã hội chủ nghĩa XHCN
Chủ nghĩa cộng sản CNCS
Cộng sản chủ nghĩa CSCN
Giai cấp công nhân GCCN
Giai cấp tư sản GCTS
- 8 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
- Lời giới thiệu
Chính trị là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người.
“Chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và
nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị
nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc,...
bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực
hiện dân chủ” Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Nói đến chính trị là nói đến “vận mệnh thực tế của hàng triệu con
người” [Lênin]. Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội,
ngày nay, chính trị đang trở thành lĩnh vực hoạt động ngày càng
có vai trò quan trọng trong việc tác động trực tiếp đến sự phát
triển của các quốc gia dân tộc. Lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử
thế giới đã cho thấy: “Ở mỗi bước ngoặt lịch sử của mỗi quốc gia
dân tộc, trước những cơ may và những thử thách của lịch sử, sự
hưng thịnh và suy vong của quốc gia dân tộc phụ thuộc vào các
giải pháp chính trị, chiến lược phát triển mà giai cấp lãnh đạo
thông qua nhà nước hay chính phủ của nó lựa chọn” [51,tr.103].
Hơn 1/4 thế kỷ thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng XHCN, diện mạo Việt Nam đã có nhiều
khởi sắc. Đường lối đổi mới đất nước mà Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, được coi như
một trong những cuộc cải cách lớn trong lịch sử tồn tại và phát
triển hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, đã đem đến cho
chúng ta nhiều thành tựu trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã
hội. Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định... Tuy
nhiên, trên hành trình ấy, con đường phát triển của đất nước vẫn
luôn được đặt ra như niềm trăn trở của Đảng Cộng sản Việt Nam -
- 10 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội - của các “con dân nước
Việt”, đặc biệt là tầng lớp tri thức.
Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trong
cuộc khủng hoảng dẫn tới sụp đổ của chế độ XHCN hiện thực ở
Liên Xô, Đông Âu cùng với sự điều chỉnh, thích nghi của các nước
TBCN để CNTB tiếp tục tồn tại và phát triển trong hình thái hiện
đại của nó, câu hỏi về tính đúng đắn, khoa học của con đường phát triển
của Việt Nam - con đường độc lập dân tộc gắn với CNXH - ngày càng
được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Đại hội toàn quốc lần thứ VII
của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào thời điểm đó đã khẳng
định dứt khoát Việt Nam kiên định đi lên theo con đường XHCN
và xác định những đặc trưng của một xã hội mà Đảng lãnh đạo
nhân dân ta hướng tới xây dựng. Sự khẳng định kịp thời, có căn
cứ khoa học, thấu tình đạt lý của Đảng vào thời điểm đó đã giúp
dân tộc ta, nhân dân ta trụ vững trong cơn sóng gió.
Hơn hai thập niên đã trôi qua kể từ thời điểm đó, cuộc sinh
hoạt chính trị rộng lớn, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các
tầng lớp nhân dân Việt Nam được khởi xướng vào mùa xuân năm
2013: “Góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992” là dịp để các quan
điểm chính trị khác nhau được đưa ra thảo luận một cách nghiêm
túc và cởi mở. Câu hỏi về con đường phát triển của đất nước lại
được tranh luận sôi nổi hơn bao giờ hết trên khắp các diễn đàn.
Những ý kiến về giữ lại điều 4 hay xóa bỏ điều 4 Hiến pháp 1992 -
điều khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; về
tên nước gắn với con đường phát triển độc lập dân tộc đi lên
CNXH là những nội dung được nhân dân và công luận đặc biệt
quan tâm. Các nhà nghiên cứu trên mọi lĩnh vực đã từng bước vào
cuộc để bằng những kết quả nghiên cứu của mình chia sẻ những
quan điểm, ý kiến với công luận trong cuộc sinh hoạt chính trị có ý
nghĩa to lớn với vận mệnh và sự phát triển của dân tộc.
Nhìn về cội nguồn là để hướng tới tương lai. Tìm câu trả lời
cho hiện tại từ lịch sử, từ quá khứ của dân tộc là một trong những
điều mà tác giả đặt ra trong cuốn sách của mình. Bằng lý luận
- Mở đầu 11
chính trị học, cuốn sách chỉ ra sự vận động có tính quy luật của chính
trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945. Đó là sự vận động từ chính trị
phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến và từ chính trị
thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân. Trên cơ sở
đó, hiểu rõ con đường phát triển từ độc lập dân tộc đến CNXH
của Việt Nam hiện nay.
Với cuốn sách này, tác giả mong muốn góp thêm một tiếng nói
cho sự luận giải để trả lời câu hỏi về con đường phát triển của dân tộc
Việt Nam, từ đó giúp chúng ta vững tin tiến bước trên con đường
đã chọn.
Nghiên cứu lịch sử từ góc nhìn chính trị học còn là một cách
làm phong phú con đường nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam. Lịch sử là
những gì đã qua. Song, chính những gì đã qua đó có ý nghĩa
không thể phủ nhận với những gì đã, đang và sẽ xảy ra. Lịch sử
như một chiếc gương chiếu hậu mà nhìn vào đó, chúng ta có thể
tự tin để tiến lên phía trước. Song, để có thể khai thác nhiều hơn
từ những sự kiện, những vấn đề lịch sử thì việc tiếp cận lịch sử từ
nhiều góc nhìn khác nhau đang là một vấn đề đặt ra với các nhà
nghiên cứu. Có lẽ trên thế giới, hiếm có một dân tộc nào có lịch sử
hào hùng và bi tráng như dân tộc Việt Nam. Việc làm cho những
trang sử bi hùng của dân tộc ngấm vào máu mỗi người Việt Nam,
trở thành sức mạnh trong suy nghĩ và hành động của các thế hệ
người Việt Nam nhằm đưa nước ta thành một nước giàu mạnh
sánh vai các cường quốc năm châu là một nhiệm vụ thiêng liêng
đặt ra với các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt với tầng lớp trí
thức. Thêm một cách tiếp cận cho nghiên cứu các vấn đề lịch sử - tiếp
cận chính trị học - sẽ là hữu ích trong việc biến quá khứ, biến lịch sử
thành sức mạnh cải biến hiện thực và thực hiện các mục tiêu, khát
vọng của mỗi người Việt Nam chúng ta cũng như của cả dân tộc
Việt Nam.
Nhìn nhận lại những vấn đề lịch sử quen thuộc với cách tiếp
cận mới - cách tiếp cận chính trị học, bằng những công cụ tư duy
mới để tiếp tục có những kiến giải thoả đáng, khoa học, có những
- 12 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
kết luận chuẩn xác hơn về một thời kỳ đầy biến động trong lịch sử
dân tộc, từ đó có thể rút ra những bài học và kinh nghiệm quý báu
cho hiện tại và tương lai luôn luôn là một điều có ý nghĩa.
Cuốn sách tập trung nghiên cứu sự biến đổi chính trị ở Việt
Nam trong giai đoạn từ 1858 đến 1945, tập trung chủ yếu ở sự
thay đổi giai cấp cầm quyền gắn với sự thay đổi kiểu nhà nước,
hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể chế nhà nước qua hai
bước biến đổi: biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang
chính trị thực dân - phong kiến và biến đổi chính trị từ chính trị
thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân.
Nghiên cứu tiếp cận vấn đề từ giác độ của khoa học chính trị,
trong không gian ở Việt Nam gắn với những điều kiện lịch sử, địa
lý, văn hoá, truyền thống... mang đậm sắc thái Việt Nam, trong
giai đoạn từ 1858 đến 1945, từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt
Nam đến khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuy nhiên, cuốn sách không
chỉ dừng lại ở sự kiện ngày 02-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nhà nước mới mà còn nghiên cứu
những tháng ngày đầu tiên sau khi nhà nước mới ra đời và có
những hoạt động nhất định thể hiện bản chất của một nhà nước
kiểu mới, phân biệt với nhà nước kiểu cũ ở Việt Nam trước thời
điểm đó.
Do năng lực, thời gian,... những yếu tố khách quan, chủ quan
chi phối, cuốn sách không thể tránh khỏi những khiếm khuyết.
Tác giả rất mong nhận được những thông tin phản hồi từ bạn đọc
để hoàn thiện trong lần tái bản tới.
Tác giả
- Chương 1
MéT Sè VÊN §Ò Lý LUËN CHUNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính trị, biến đổi chính trị
1.1.1. Quan niệm về chính trị và một số thuật ngữ liên quan
a. Chính trị
Chúng ta đang sống trong một xã hội chính trị, tức là xã hội
trong đó còn tồn tại giai cấp, còn nhà nước. Chính trị là một vấn
đề được đề cập hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Chính trị ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống chung của cả
cộng đồng cũng như số phận mỗi cá nhân. Cùng với sự phát triển
về mọi mặt của đời sống xã hội, sự quan tâm của con người đến
chính trị ngày một gia tăng. Tuy nhiên, không phải đến bây giờ
con người mới quan tâm đến chính trị, mà chính trị là một vấn đề
được quan tâm từ rất sớm trong lịch sử phát triển nhân loại. Các
trường phái nghiên cứu khác nhau có nhiều quan niệm khác nhau
về chính trị. Cuốn sách tiếp cận chính trị trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin.
Về sự ra đời của chính trị, có thể thấy, chính trị là một hiện
tượng lịch sử, xuất hiện trong một giai đoạn phát triển nhất định
của xã hội loài người trên những tiền đề về kinh tế, xã hội... xác
định. Khi loài người vừa xuất hiện trên trái đất, chưa có chính trị.
Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là xã hội tiền chính trị, con người
sống với nhau bình đẳng trong thị tộc, bộ lạc. Những thành viên
của thị tộc, bộ lạc không chịu sự ép buộc, áp đặt của người chỉ
huy. Mọi người tham gia vào thị tộc, bộ lạc một cách hoàn toàn tự
nhiên, theo bản năng vì nếu tách khỏi cộng đồng đó, con người
- 14 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
khó lòng tồn tại. Họ chưa ý thức được lợi ích cũng như tính tất
yếu của việc tham gia. Thị tộc lập ra Hội đồng thị tộc để tổ chức và
quản lý thị tộc. Hội đồng thị tộc là cơ quan quyền lực cao nhất của
thị tộc, quyết định của Hội đồng thể hiện ý chí chung của tất cả
các thành viên trong thị tộc đó. Hội đồng này bầu ra những người
đứng đầu để quản lý các công việc chung. Tuy nhiên, quyền lực
của Hội đồng và người đứng đầu hoàn toàn không dựa trên một
bộ máy cưỡng chế đặc biệt nào và người đứng đầu không có bất
cứ một đặc quyền đặc lợi nào. Sản xuất ngày càng phát triển, phân
công lao động xã hội ngày càng cao (qua 3 lần phân công lao động
xã hội: sự tách biệt của ngành chăn nuôi khỏi trồng trọt, sự tách
biệt của thủ công nghiệp khỏi ngành nông nghiệp, sự ra đời của
thương nghiệp), sự xuất hiện của cải thừa và sự chiếm đoạt của
thừa, vốn là của chung của cộng đồng, thành của riêng của một
nhóm người dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu. Giai cấp xuất hiện.
Tập đoàn người chiếm đoạt tư liệu sản xuất trở thành giai cấp
thống trị, số đông còn lại trong xã hội trở thành giai cấp bị thống
trị. Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy bạo lực và sử dụng nó như
công cụ nhằm tổ chức xã hội theo một trật tự có lợi nhất cho giai
cấp mình. Nhà nước ra đời, chính trị xuất hiện. Như vậy, từ chế độ
chiếm hữu nô lệ, loài người bước vào trạng thái xã hội chính trị.
Trạng thái này tiếp tục kéo dài tới chế độ phong kiến, tư bản chủ
nghĩa. Xã hội chính trị phát triển ngày càng phong phú với các
biểu hiện đa dạng của nó. Xã hội chính trị là xã hội có giai cấp, có
nhà nước. Gắn với sự phát triển của xã hội loài người từ hình thái
kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ tới hình thái kinh tế xã hội phong
kiến, TBCN rồi tới XHCN là sự biến đổi từ chính trị chiếm hữu nô
lệ sang chính trị phong kiến, tới chính trị tư sản rồi sang chính trị
quá độ lên CNXH. Đây là bước phát triển tất yếu tiến tới văn minh
trong sự phát triển của xã hội loài người do sự tiến hoá không
ngừng của lực lượng sản xuất.
Đến xã hội XHCN, dù không còn cơ sở kinh tế cho đối kháng
giai cấp, nhưng các giai cấp với các lợi ích khác biệt nhau vẫn tồn
- Chương I. Một số vấn đề lý luận chung 15
tại, Nhà nước vẫn còn, đó vẫn là một xã hội chính trị. Chỉ tới xã
hội cộng sản văn minh, khi lực lượng sản xuất phát triển ở trình
độ cao, chế độ tư hữu tư liệu sản xuất không còn nữa, giai cấp
biến mất, nhà nước tiêu vong, lúc đó sẽ không còn chính trị. Loài
người sẽ sống trong trạng thái xã hội phi chính trị. Thay cho xã
hội cũ “với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất
hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người sẽ là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[93, tr.628].
Như vậy, chính trị là một hiện tượng lịch sử xuất hiện trong quá
trình tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Chính trị có quá
trình ra đời trên những tiền đề nhất định về kinh tế, xã hội. Nó tồn
tại, phát triển và sẽ tiêu vong khi những tiền đề cho sự tồn tại của
nó không còn nữa.
Trả lời câu hỏi chính trị là gì? theo V.I. Lênin: “Chính trị là sự
tham gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi
cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung
hoạt động của nhà nước” [81, tr.404].
Cùng với việc đưa ra quan niệm như trên về chính trị, V.I. Lênin
cũng khẳng định: “Vấn đề chính quyền là vấn đề chủ yếu nhất của
mọi cuộc cách mạng. Giai cấp nào giữ chính quyền, điều đó quyết định
tất cả” [82, tr.268].
Chính trị gắn liền với chính quyền. Giai cấp nào nắm chính
quyền (hay giai cấp cầm quyền) thì chính quyền đó sẽ chịu sự chi
phối của hệ tư tưởng chính trị của giai cấp đó với những con người
chính trị cụ thể đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền. Giai
cấp cầm quyền sẽ tổ chức bộ máy nhà nước, tìm phương thức thực thi
quyền lực nhà nước một cách phù hợp nhất với những điều kiện
khách quan, chủ quan hiện có và theo hướng có lợi nhất cho lợi ích
của giai cấp cầm quyền. Mọi hoạt động chính trị, phong trào chính trị,
quyết sách chính trị ngắn hạn cũng như dài hạn do giai cấp cầm
quyền khởi xướng suy cho cùng dù phải tính tới lợi ích của các
giai cấp khác thì cũng hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi ích cho
giai cấp cầm quyền.
- 16 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
Khái niệm chính trị có nội hàm rộng lớn. Bất kì hoạt động nào
trong xã hội, dù là hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội... cũng có thể
có tính chất chính trị nếu như việc giải quyết nó trực tiếp hay gián
tiếp liên quan tới lợi ích của giai cấp cầm quyền, gắn với chính
quyền nhà nước, gắn với lợi ích dân tộc.
Hồ Chí Minh, trong tác phẩm “Thường thức chính trị” [102,
tr.201] đã đưa ra 49 nội dung nghiên cứu khác nhau về chính trị,
trong đó nội hàm của chính trị đã được thể hiện khá cụ thể và sinh
động. Xoay quanh 49 nội dung được phân tích luận giải trong tác
phẩm này, có thể thấy vấn đề giành chính quyền về tay nhân dân,
vấn đề tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như của
các tổ chức chính trị, đặc biệt là đảng chính trị, để đem lại lợi ích
cao nhất cho nhân dân Việt Nam là vấn đề chính trị được Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm.
Một cách chung nhất, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin,
các tác giả biên soạn tập bài giảng Chính trị học của Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm“
chính trị là phạm vi hoạt động gắn với quan hệ giữa các giai cấp,
các dân tộc và các nhóm lợi ích xã hội khác nhau, mà hạt nhân của
nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [52, tr.15]
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa:
Chính trị: Toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối
quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà
cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng
quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự
xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà
nước. Bất kỳ vấn đề chính trị nào cũng đều có liên quan đến
quyền lợi của các giai cấp và nhà nước… Chính trị còn là sự biểu
hiện tập trung của nền văn minh, của hoạt động sáng tạo, của sự
giải phóng [174, tr.478-479].
- Chương I. Một số vấn đề lý luận chung 17
Từ điển Triết học định nghĩa:
Lĩnh vực chính trị bao hàm các vấn đề chế độ nhà nước, quản
lý đất nước, lãnh đạo các giai cấp, vấn đề đấu tranh đảng phái,
v.v. Những lợi ích căn bản của các giai cấp và những quan hệ qua
lại của các giai cấp biểu hiện ra trong chính trị. Chính trị cũng biểu
hiện những quan hệ giữa các dân tộc và giữa các quốc gia (Chính
sách đối ngoại). Các quan hệ giữa các giai cấp và, do đó, cả chính
trị của họ nữa bắt nguồn từ địa vị kinh tế của họ. Những tư tưởng
chính trị và những thể chế tương ứng với chúng là kiến trúc
thượng tầng bên trên cơ sở hạ tầng kinh tế [167, tr.161].
Các cuốn từ điển khi đưa ra định nghĩa chính trị đều rất quan
tâm tới mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Vì đây là mối
quan hệ cốt lõi, cho chúng ta nhìn thấy bản chất của chính trị
xuyên qua muôn vàn những biểu hiện muôn hình vạn trạng của
chính trị. Từ điển Bách khoa Việt Nam khẳng định: “Chính trị
thuộc cấu trúc thượng tầng bao gồm (hệ tư tưởng chính trị, nhà
nước, các đảng phái) xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai
cấp dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Chính trị “là sự biểu hiện tập
trung của kinh tế”, đồng thời chính trị có vị trí độc lập và có tác
dụng to lớn đối với kinh tế. Việc hình thành một quan điểm chính
trị đúng về lĩnh vực kinh tế là điều kiện để giải quyết có hiệu quả
những nhiệm vụ kinh tế. “Không có một lập trường chính trị đúng
thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể giữ vững được sự
thống trị của mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành nhiệm
vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất” (Lênin).”[174, tr.478-479].
Về mối quan hệ chính trị - kinh tế, Từ điển Triết học cũng
khẳng định:
Các quan hệ giữa các giai cấp và, do đó, cả chính trị của họ
nữa bắt nguồn từ địa vị kinh tế của họ. Những tư tưởng chính trị
và những thể chế tương ứng với chúng là kiến trúc thượng tầng
bên trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn
không có nghĩa rằng chính trị là hệ quả thụ động của kinh tế (kinh
- 18 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
tế và chính trị). Muốn cho chính trị có thể trở thành lực lượng cải
tạo thì nó phải phản ánh một cách đúng đắn những nhu cầu phát
triển của đời sống vật chất của xã hội”[167, tr.161].
Để hiểu rõ hơn về chính trị, chúng ta có thể nhận diện chính trị
với mấy biểu hiện chủ yếu. Các biểu hiện đó có thể coi là các yếu
tố cấu thành chính trị. Nói đến chính trị, chúng ta có thể hiểu đó
có thể là:
- Con người chính trị gắn với lý luận chính trị, hệ tư tưởng
chính trị, tư tưởng chính trị, văn hoá chính trị, nghĩa vụ chính trị
và lợi ích chính trị mà họ theo đuổi. Con người chính trị có thể là
thủ lĩnh chính trị, lãnh tụ chính trị, các chính khách hay nhân dân
nói chung.
- Thể chế chính trị, hệ thống bộ máy quyền lực: Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội và quan hệ giữa chúng, các cơ
chế, nguyên tắc vận hành hệ thống bộ máy quyền lực.
- Các hoạt động chính trị, các phong trào chính trị.
- Các quyết sách chính trị như quan điểm, chủ trương, đường
lối, chính sách chính trị.
- Lý luận quan hệ quốc tế như: hệ thống các quan hệ quốc tế,
bản chất các cuộc chiến tranh, các vấn đề dân tộc và chính trị thế
giới, con đường củng cố hoà bình, cùng tồn tại hoà bình của các
quốc gia [52, tr.32]...
Dù tiếp cận chính trị từ biểu hiện nào của nó thì một nguyên
tắc phương pháp luận là các biểu hiện trên của chính trị không tồn
tại biệt lập mà có quan hệ cấu trúc với nhau. Do đó, dù nghiên cứu
chính trị gắn với con người chính trị, lý luận chính trị, hệ tư tưởng
chính trị hay nghiên cứu chính trị dưới góc độ thể chế, bộ máy
quyền lực; hoạt động chính trị, phong trào chính trị, quyết sách
chính trị ít nhiều cũng liên quan đến các phương diện còn lại.
Có thể tiếp cận chính trị từ một góc nhìn khác, đó là từ “hai
phương diện chủ yếu” của chính trị:
- Chương I. Một số vấn đề lý luận chung 19
Bất kỳ một nền chính trị nào cũng bao gồm hai phương
diện chủ yếu: phương diện bạo lực và phương diện xây dựng, tương
quan giữa hai phương diện đó thể hiện tính chất và trình độ
dân chủ của một chế độ xã hội. Phương diện bạo lực bao giờ
cũng cần tới những khoa học giúp cho chính trị tăng cường sức
mạnh bạo lực, còn phương diện xây dựng lại cần tới những
khoa học mang tính nhân văn. Chính vì lẽ đó mà trong biết bao
thế kỷ, các chế độ chuyên chế xưa kia chỉ coi trọng những nhà
chế tạo vũ khí [168, tr.9].
Nói đến chính trị, người ta thường đề cập tới khái niệm đời
sống chính trị. Theo tác giả, các yếu tố cấu thành chính trị trong
mối quan hệ tổng hoà với nhau trong một không gian, thời gian
nhất định tạo thành đời sống chính trị của một quốc gia, dân tộc
trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Khi xem xét đời sống chính trị
của một quốc gia thì yếu tố trung tâm không thể bỏ qua là sự tồn
tại và hoạt động của chính quyền nhà nước và ảnh hưởng của nó
đến các vấn đề chính trị khác, đặc biệt ảnh hưởng tới cuộc sống
của nhân dân nói chung. Do đó, nói tới đời sống chính trị, người ta
thường đề cập tới mức độ cởi mở, dân chủ trong đời sống xã hội
hay sự ngột ngạt, độc đoán, chuyên chế, mất dân chủ. Nhìn vào
đời sống chính trị của một cộng đồng, chúng ta có thể thấy trình
độ dân chủ trong xã hội. Đời sống chính trị biểu hiện rõ nét mối
quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, thể hiện mức độ người dân
có thể bộc lộ quan điểm, tiếng nói của mình trước chính quyền.
Những nội dung chủ yếu của đời sống chính trị về cơ bản có nhiều
điểm trùng hợp với các yếu tố cấu thành chính trị ở trên.
Thật không đơn giản để đưa ra một câu trả lời đầy đủ cho câu
hỏi “chính trị là gì”?. Cần nhìn chính trị từ các góc nhìn khác nhau,
trên những lát cắt khác nhau mới có thể có một câu trả lời thoả đáng.
Chẳng hạn như, nếu nhìn chính trị từ phương diện con người thì cần
nghiên cứu: ý thức chính trị, niềm tin chính trị, tư tưởng chính trị,
văn hoá chính trị, hành vi chính trị, con người chính trị. Nếu nhìn
- 20 SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
chính trị từ phương diện kĩ thuật thì cần nghiên cứu: các mô hình
thể chế, thiết chế chính trị, hệ thống chính trị, các công nghệ chính
trị,… Chúng ta cần căn cứ theo từng trường hợp cụ thể để có
những cách tiếp cận phù hợp.
b. Một số thuật ngữ liên quan
Nói đến chính trị, không thể không bàn đến quyền lực chính
trị. Đây là khái niệm trung tâm của khoa học chính trị. C. Mác và
Ph.Ăngghen trong “Tuyên ngôn đảng cộng sản” khẳng định rằng:
“Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức
của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” [93, tr.628].
Tuy nhiên, trong khoa học chính trị còn có khái niệm quyền
lực nhà nước. Vậy mối quan hệ giữa quyền lực chính trị và quyền
lực nhà nước được thể hiện như thế nào? Vấn đề cơ bản của một
cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Mục tiêu chính trị cao nhất
của một giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp là giành được
quyền lực nhà nước, nghĩa là quyền được tổ chức xã hội như một
chỉnh thể thành nhà nước (nhà nước - xã hội), bằng bộ máy nhà
nước (nhà nước - bộ máy) hay chính là bộ máy chính quyền. Và,
quyền lực nhà nước được hiểu là quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền [129]. Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị nhưng
không phải mọi quyền lực chính trị đều là quyền lực nhà nước.
Trong xã hội chính trị, có quyền lực chính trị của giai cấp thống trị
thì cũng có quyền lực chính trị của giai cấp bị thống trị. Quyền lực
chính trị của giai cấp bị thống trị không phải là quyền lực nhà
nước. Là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị, sự thay
đổi căn bản của quyền lực nhà nước bằng việc chuyển chính quyền
nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác sẽ trực tiếp
dẫn tới thay đổi căn bản tính chất của chế độ chính trị.
Quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào, nó sẽ được
sử dụng trước hết để phục vụ lợi ích của giai cấp đó. Tuy nhiên
khi phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền, nó không thể
không phục vụ lợi ích của bộ phận còn lại trong xã hội ở chừng
nguon tai.lieu . vn