Xem mẫu

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ (qua khảo sát thực trạng đào tạo và sử dụng ngôn ngữ Khmer ở huyện Trần Đề tỉnh Sóc Trăng và huyện Gò Quao tỉnh Kiên Giang) Lâm Nhân Khoa Văn hoá Dân tộc Thiểu số Trường Đại học Văn hoá TP. HCM 1. Vài nét về chính sách ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam 1.1. Chính sách bảo tồn phát triển văn hoá dân tộc thiểu số (Nghị quyết TW5 khoá 8) - Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. - Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật là người dân tộc thiểu số. Ưu tiên tài trợ cho các tác giả dân tộc thiểu số có tài nǎng sáng tạo các tác phẩm về đề tài dân tộc và miền núi. Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số và tạo điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê hương. Phát huy tài nǎng các nghệ nhân. - Đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số. - Xây dựng nếp sống vǎn minh, gia đình vǎn hóa, mở rộng mạng lưới thông tin ở vùng dân tộc thiểu số. - Thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, sớm giảm tỉ lệ hộ đói nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, xóa mù chữ, nâng cao dân trí, xóa bỏ hủ tục. 1 1 Nghị quyết TW5 khoá 8, Nhiệm vụ cụ thể Bảo tồn, phát huy và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu số. 1 Trong đó, chính sách sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ giao tiếp giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam không chỉ phù hợp với tư tưởng tiến bộ của nhân loại về quyền bình đẳng giữa các dân tộc mà còn phù hợp với nhu cầu thực tế của đồng bào dân tộc thiểu số trong nước, góp phần bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Tác giả Trần Trí Dõi trong bài viết Chính sách ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam và giá trị của nó trong phát triển bền vững vùng lãnh thổ. Theo kết quả khảo sát, nhóm tác giả cho rằng người dân tộc sử dụng thành thạo tiếng phổ thông (tức ngôn ngữ quốc gia) sẽ là nguồn nhân lực có trình độ lao động cao hơn, có thu nhập xã hội cao hơn. Cũng vậy, người đồng thời sử dụng thành thạo tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ sẽ có đời sống văn hóa phong phú và đa dạng hơn. Chính vì thế, ở Việt Nam,người dân tộc thiểu số có nhu cầu cao trong việc sử dụng cả tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ của mình. Và đồng thời người ta cũng nhận ra vai trò nghiêng về chức năng “phát triển” kinh tế - xã hội đối với tiếng phổ thông và ưu tiên về chức năng “nâng cao giá trị văn hóa” cho việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình đối với người dân tộc2. Như vậy, theo tác giả Trần Trí Dõi, người dân tộc thiểu số mà thành thạo cả ngôn ngữ phổ thông và ngôn ngữ dân tộc sẽ có trình độ cao hơn và có thu nhập cao hơn. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hoá. 1.2. Chính sách ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam Lãnh thổ Việt Nam có 54 dân tộc sinh sống, kết thành cộng đồng xây dựng, gìn giữ và phát triển đất nước trong suốt những năm trường lịch sử và để lại cho các thế hệ mai sau. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hoá riêng, ngôn ngữ riêng, có lịch sử lâu dài gắn bó với Tổ quốc Việt Nam. Với chính sách dân tộc – đoàn kết – bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, từ lâu, Đảng và Nhà nước đã ý thức rất rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và phát triển nền văn hoá vùng dân tộc thiểu số. Và với sự đa dạng về ngôn ngữ, cộng đồng 54 dân tộc ở Việt Nam cần có ngôn ngữ chung để các dân tộc giao tiếp được với nhau, bình đẳng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đó cũng 2 Trần Trí Dõi, Tài liệu hội thảo Đóng góp của Khoa học xã hội và nhân văn trong phát triển kinh tế xã hội 2 chính là sự thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. - Chủ trương phổ cập tiếng phổ thông (tiếng Việt) cho tất cả các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển bình đẳng ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau và không có nghĩa là không tạo điều kiện để tiếng mẹ đẻ của các dân tộc được duy trì, phát triển. Ngay từ năm 1941, khi chưa giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu trong nghị quyết của mình: “Văn hoá của mỗi dân tộc sẽ được tự do phát triển, tồn tại và được bảo đảm”. Tư tưởng, đường lối chính sách đúng đắn này đã được thể hiện nhất quán và rõ ràng trong các Hiến pháp của ta từ đó đến nay. - Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 nhấn mạnh: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình”3. Để thực thi những quyền cơ bản về ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số trong các luật của Nhà nước, nhiều biện pháp hướng dẫn cụ thể đã được xây dựng và thực hiện: - Theo Quyết định 53-CP/1980 của Hội đồng bộ trưởng: “Tiếng nói và chữ viết hiện có của các dân tộc thiểu số được Nhà nước tôn trọng, duy trì, giúp đỡ và phát triển”. Theo tinh thần quyết định, Luật phổ cập giáo dục tiểu học đã được Quốc hội thông qua, trong đó hướng dẫn việc dạy và học tiếng nói, chữ viết dân tộc. - Năm 1997, Bộ Giáo dục Đào tạo có Thông tư số 1 GD-ĐT cụ thể hoá kế hoạch này: “Các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình cùng tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học. Trong những chính sách khác nhau nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, chính sách ngôn ngữ nói chung và chính sách ngôn ngữ dân tộc thiểu số nói riêng đóng một vai trò quan trọng. Ngôn ngữ có hai chức năng: vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ của tư duy. Hai chức năng này góp phần quan trọng vào việc phát triển tri thức, kinh nghiệm, trao truyền văn hoá và đồng thời cũng là công cụ để trao đổi sản 3 Hieán phaùp Vieät Nam (2002), NXB Chính trò Quoác gia, Haø Noäi, tr.124 3 phẩm văn hoá trong cộng đồng các dân tộc. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của tác giả Trần Trí Dõi về chính sách ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam, nhiều phiếu thống kê cho rằng, ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số chỉ giữ vai trò là phương tiện trao đổi trong cộng đồng theo nghĩa đơn giản nhất4. Và như vậy, việc giảng dạy tiếng mẹ đẻ của các dân tộc thiểu số tại các địa phương mới chỉ dừng lại ở mục đích có tiếng nói để sử dụng trong cuộc sống. Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhiều địa phương có các dân tộc thiểu số ở miền Bắc đã tổ chức các hoạt động dạy chữ Thái, Tày, Nùng và Mông. Từ sau năm 1975, một vài dân tộc thiểu số khu vực Trường Sơn Tây Nguyên và Nam bộ cũng được học tiếng mẹ đẻ. Thực hiện theo nghị quyết TW5 khoá 8 về vấn đề “Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình”5… Các chương trình đào tạo ở bậc tiểu học, trung học, đại học vùng Đồng bào dân tộc thiểu số đã áp dụng việc đào tạo tiếng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, việc dạy và học tiếng mẹ đẻ tại các địa phương còn nhiều bất cập và chưa hiệu quả. Trong phạm vi bài viết này, tôi trình bày thực trạng việc đào tạo tiếng dân tộc Khơ-me qua khảo sát ở hai tỉnh Kiên Giang và Sóc Trăng. 3. Thực trạng việc đào tạo ngôn ngữ dân tộc Khmer (qua khảo sát ở huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang và huyện Trần Đề tỉnh Sóc Trăng) 3.1. Vai trò của nhà chùa trong việc đào tạo. - Bên cạnh việc đào tạo tiếng dân tộc trong các trường học của nhà nước. Nhà chùa là nơi giảng dạy tiếng dân tộc cho người Khmer. Giáo viên trực tiếp là các sư sãi của chùa. Thông thường, vào dịp học trò nghỉ hè và thứ 7, chủ nhật… nhà chùa tổ chức giảng dạy dạy tiếng Khmer, đối tượng học là cả nam và nữ. 4 Traàn Trí Doõi, Chính saùch ngoân ngöõ vaên hoaù daân toäc ôû Vieät Nam, NXB Ñaïi hoïc Quoác gia Haø Noäi, 2003, tr. 83 5 Nghị quyết TW 5 khoá 8 4 Chùa KôksTưng xã Bàn Thạch 1, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang Chùa Sê rây Ta mơn xã Viên Bình, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng - Ngôi chùa Khmer cũng là nơi tiếp nhận đào tạo cho con em người Khmer gặp nhiều khó khăn, gián đoạn thời gian học phổ thông. Nơi đây xem như là là cơ hội lần 2 cho con em người dân tộc mong muốn được đi học lạị, có thể vào chùa đăng ký. Nhà chùa có liên kết với phòng giáo dục của huyện để cấp bằng, đồng thời đào tạo về phật pháp. Sau khi học xong các chương trình tiểu học, trung học ở chùa, học sinh có thể học nâng cao hơn ở các trường đào tạo phật giáo trong nước và nước ngoài. Sư cả Trần Văn Thà, Chùa Sê rây Ta mơn, xã Viên Bình, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng Nhà chùa liên kết với phòng giáo dục huyện, cấp chứng nhận cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn, theo học ở chùa 3.2. Vấn đề đào tạo tiếng dân tộc trong đồng bào Khơme hiện nay 5 ... - --nqh--
nguon tai.lieu . vn