Xem mẫu
- VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY TRI THỨC DÂN GIAN
NGHỀ LÀM CHÕ XÔI TRUYỀN THỐNG
CỦA NGƯỜI THÁI (SƠN LA)
LÊ VĂN MINH, LÒ NGỌC DIỆP
Tóm tắt
Chõ đồ xôi là sản phẩm của nghề thủ công truyền thống, nghề có giá trị văn hóa - xã hội tộc người,
được người dân gìn giữ thông qua quá trình lao động sản xuất, trong đó chõ đồ xôi bằng gỗ của đồng
bào dân tộc Thái được biết đến nhiều hơn cả. Nghề làm chõ xôi ở xã Chiềng Kheo, huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La hiện nay được nhân dân trong vùng và một số vùng lân cận ưa chuộng. Nghề tồn tại và duy trì
không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống thường ngày mà còn do nhu cầu nối tiếp văn hóa truyền thống
của cộng đồng, bởi sản phẩm của nghề thúc đẩy việc bảo tồn tri thức dân gian nghề và gìn giữ những
giá trị cốt lõi của văn hóa Thái. Bài viết nghiên cứu các tri thức dân gian của nghề thủ công truyền
thống và quy trình làm chõ xôi bằng gỗ, từ đó đưa ra một số giải pháp bảo tồn, phát triển nghề và tri
thức dân gian nghề, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Thái.
Từ khóa: Nghề thủ công truyền thống, tri thức dân gian, chõ đồ xôi, Chiềng Kheo, dân tộc Thái
Abstract
Steamers for cooking sticky-rice are the products of traditional handicrafts, which have cultural and
social values and preserved by the people through the production process of which the wooden sticky
rice steamers of the Thai people is better known. Making sticky-rice steamer in Chieng Kheo commune,
Mai Son district, Son La province is favoured by people in the region and nearby areas. The handicraft
has survived and maintained not only to meet the daily life needs but also because of the need of
continuing community’s traditional culture as the product of the handicraft promotes with conserving
folklore handicraft knowledge and maintenance of Thai’s core cultural value. The article studies
folklore handicraft knowledge and processes of making wooden steamers and suggests solutions to
preserving and developing this traditional handicraft and folklore handicraft knowledge, contributing
to preserving the Thai cultural identity.
Keywords: Traditional handicrafts, folklore knowledge, steamer for cooking sticky-rice, Chieng
Kheo, Thai ethnic minority
Đặt vấn đề sản xuất nông nghiệp chiếm 94%, kinh doanh
C
hiềng Kheo là xã khu vực III của tỉnh dịch vụ nhỏ lẻ 6% tổng dân số toàn xã” (8, tr.1).
Sơn La, cách trung tâm huyện Mai Người Thái chiếm số đông tại xã Chiềng
Sơn 35km, nằm dọc theo trục đường Kheo, vì thế, văn hóa của cộng đồng người Thái
Quốc lộ 4G Sơn La - Sông Mã. Phía bắc giáp được thể hiện ở mọi khía cạnh, lĩnh vực của đời
với xã Chiềng Mai; phía đông giáp xã Chiềng sống xã hội trên địa bàn từ lễ hội, tập quán tín
Ve; phía nam giáp với xã Nà Ớt; phía tây giáp ngưỡng tới văn hóa ẩm thực, trang phục, nhà
xã Chiềng Dong và xã Phiêng Cằm. “Năm 2017 ở, nghề thủ công,... trong đó có nghề làm chõ
xã có tổng diện tích tự nhiên là 2.747,07ha, có xôi bằng phương pháp thủ công truyền thống
9 bản và 3 dân tộc cùng sinh sống, tổng số hộ phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con
trong toàn xã là 647 hộ (dân tộc Thái 577 hộ người. Chõ xôi tiếng Thái gọi là hạy khẩu. Nghề
chiếm 89%; dân tộc Mông 64 hộ - 9%; dân tộc làm chõ có từ lâu đời do tập quán lấy xôi (cơm
Kinh 6 hộ - 0,092%); tổng số nhân khẩu 2.882 nếp) làm thức ăn chủ yếu, “gạo nếp là lương thực
người (dân tộc Thái 2.516 người chiếm 87%; ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm bỏ vào chõ” (1,
dân tộc Mông 346 người - 12% và dân tộc Kinh tr.157). Nghề mang tính cần cù, sáng tạo, kiên
20 người - 0,7%). Nhân dân trong vùng chủ yếu nhẫn, vận dụng tri thức dân gian dựa vào nguồn
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
43
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
tự nhiên của cộng đồng Thái. Kinh nghiệm làm phần tăng thu nhập và tạo việc làm đơn thuần
chõ xôi được đúc kết tạo ra sản phẩm được cộng mà trong đó chứa đựng cả giá trị văn hóa tộc
đồng đón nhận và sử dụng, là sản phẩm không người tại Sơn La. Không chỉ có vậy, chõ còn
thể thiếu trong mỗi gia đình người Thái. có vị trí quan trọng trong các tri thức về tín
1. Nghề làm chõ xôi truyền thống trong đời ngưỡng dân gian, khi đã trở thành biểu tượng
sống văn hóa của đồng bào dân tộc Thái trong tiềm thức thì khó có thể thay đổi hình
ảnh chõ xôi bằng các hình thức khác được.
1.1. Vị trí, vai trò của nghề làm chõ xôi
truyền thống Trước đây, khi nền kinh tế chưa phát triển,
cuộc sống tự cung tự cấp đã nảy sinh những
Nghề làm chõ chỉ được tiến hành vào thời
sản phẩm mà nguyên liệu có sẵn trong tự
gian giao mùa, đợi thu hoạch, hoặc thời gian
nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu, đảm
rảnh rỗi. Người thợ chính thường là những
bảo miếng cơm hàng ngày của cộng đồng
người cao tuổi không tham gia sản xuất chính
người Thái sống ở ven sông suối vùng Sơn
mà kết hợp việc làm chõ với những việc phụ
La. Ngày nay, bộ mặt thôn bản đang thay
khác như chăn trâu, bò, chăm sóc ao cá,... Tuy
đổi nhanh chóng, một vài nơi thay đổi tới
nhiên, sản phẩm của nghề không chỉ đáp ứng
mức biến dạng so với quá khứ truyền thống.
nhu cầu thiết yếu trong đời sống hàng ngày
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là nạn phá
mà còn là động lực, đòn bẩy để bảo tồn những
rừng bởi rừng vốn được coi là cội nguồn của
giá trị văn hóa tộc người đặc sắc của dân tộc
đời sống tâm linh đang bị tàn phá ảnh hưởng
Thái. Trong văn hóa ẩm thực Thái - tộc người sử
không nhỏ đến nguồn nguyên liệu gỗ nói
dụng cơm nếp là chủ yếu, thì chõ gỗ đồ xôi có
riêng và các giá trị văn hóa liên quan đến rừng
vị trí rất quan trọng, chõ gỗ làm cho chất lượng
nói chung. Nguồn nguyên liệu phân bố rải rác,
của xôi thêm giá trị trong bữa ăn hàng ngày.
các thế hệ kế cận tiếp thu, học tập nghề không
Người Thái có thói quen chế biến món ăn bằng
nhiều trong khi đó các sản phẩm truyền thống
cách xôi chín hầu hết các loại lương thực, thực
hiện nay đã bị mất dần vị thế bởi lớp trẻ với tư
phẩm: gạo, rau. củ, quả,... Do vậy, chõ gỗ dùng
tưởng sống hiện đại, phóng khoáng hơn. Tuy
để chế biến món ăn bằng phương pháp đồ,
vậy, nghề làm chõ đồ xôi bằng gỗ của người
hấp (xôi) là vật dụng không thể thiếu trong đời
Thái vẫn là một nét văn hóa truyền thống đặc
sống của đồng bào Thái.
sắc, chưa bị mai một, lai tạp.
Nghề làm chõ với nhiều giá trị văn hóa
1.2. Giá trị của nghề làm chõ xôi truyền
truyền thống tiêu biểu cho cộng đồng người
thống
Thái mà các sản phẩm công nghiệp khác
không có được. Sản phẩm được làm thủ 1.2.1. Giá trị kinh tế
công từng chiếc một, mặc dù có cùng kiểu Theo nghiên cứu, tìm hiểu của chúng tôi,
dáng kích thước và cùng một người thợ làm trên địa bàn xã Chiềng Kheo hiện nay có 4 hộ
ra nhưng các sản phẩm vẫn không thể giống gia đình tham gia làm chõ xôi, tạo thu nhập và
nhau hoàn toàn. Đây là điểm khác biệt mang giải quyết việc làm cho các thành viên trong
tính độc đáo so với các sản phẩm sản xuất theo gia đình mỗi lúc rảnh rỗi. Tại gia đình ông Lò
dây chuyền, máy móc. Nguyên liệu có xuất xứ Văn Pọm, bản Nà Viền, xã Chiềng Kheo, nghề
trong tự nhiên như: gỗ, tre, nứa. Bằng tri thức làm chõ xôi đã tồn tại, duy trì hàng chục năm
kinh nghiệm tích lũy được qua quá trình sống, nay, thu hút hàng chục lao động trong gia
người thợ đã tạo ra các sản phẩm từ đôi bàn đình.
tay khéo léo phục vụ mục đích nhân văn trong Khi làm chõ, mỗi người phụ trách một khâu,
đời sống của cộng đồng. Sản phẩm của nghề một mảng việc, phụ nữ giúp những công việc
luôn là đứa con tinh thần của người thợ qua nhẹ như phơi các phôi thừa để làm chất đốt
quá trình sản xuất, tạo tác từ các vật liệu thông hoặc tham gia mua bán trao đổi sản phẩm,...
thường, quen thuộc thể hiện đặc điểm vùng còn việc tạo hình mang tính quyết định đến
miền trong sản phẩm thủ công. Hiện nay, chõ chất lượng sản phẩm thì cần đôi tay khỏe
xôi dần trở thành hàng hóa, trao đổi để góp mạnh và khéo léo của đàn ông. Theo ông Pọm,
44 Số 26 - Tháng 12 - 2018
- VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
sản phẩm chõ sau khi làm xong được phân Trong tang ma, người Thái xã Chiềng Kheo
phối chủ yếu tại địa phương, các xã lân cận, quan niệm người chết cũng được chia các đồ
thành phố Sơn La hoặc người Lào sang gom vật trong nhà bởi công sức và đóng góp của
mang về nước phân phối. Mỗi chiếc chõ làm người đó khi còn sống với gia đình, khi chết
bằng gỗ mạy sọ hoàn thiện được bán tại gia cần mang theo để tiếp tục cuộc sống ở mường
đình từ 100.000 - 250.000 VNĐ, giá cả cũng trời. Khi nhà có người chết hoặc làm lễ cúng
tùy thuộc vào kích thước của sản phẩm, nếu (panh khuôn) cho các thành viên trong gia
chõ to thì giá thành cao còn nhỏ hơn thì giá đình, lúc khấn chia các đồ vật, bàn giao các vật
thành thấp hơn. Để hoàn thiện một chiếc chõ dụng trong nhà thì chiếc chõ xôi được nhắc
cần thời gian là 2 ngày, lao động lúc rảnh rỗi, tới đầu tiên, sau đó mới đến các đồ vật khác.
với một sản phẩm như vậy trừ các khoản chi Người Thái quan niệm người chết về với tổ
phí như mua nguyên liệu, công vận chuyển thì tiên, đi đường cần chiếc chõ để nấu ăn trong
người thợ thu được 60% tiền bán chõ. Tuy thu quãng đường về mường trời, bởi nó tượng
nhập đem lại chưa cao nhưng đã góp phần trưng cho thần bếp, ấm no.
giải quyết việc làm tại chỗ cho các hộ tham gia Ngoài chức năng sử dụng, chõ xôi còn có
sản xuất đảm bảo thu nhập và nâng cao chất tác dụng để trừ tà, chống ma. Trong nhà có
lượng cuộc sống. người ốm, các đồ vật gồm chiếc chõ xôi, lưới
Chõ xôi có 2 loại, bằng gỗ và bằng tre, với xúc cá, đòn gánh được để ở chân giường vào
hai nguồn cung cấp chính: một là chõ bằng gỗ các buổi tối để ma tà không lại gần làm hại
của đồng bào Thái xã Chiềng Kheo, được mua người ốm, bởi người Thái quan niệm rằng ma
bán, trao đổi tại chỗ hoặc chuyển tới bán tại tà, những điều xấu kỵ với các đồ vật này. Đồng
các chợ trong tỉnh; hai là chõ được đan bằng thời “chiếc chõ còn là vật chứa đựng điều cấm.
tre, nứa của các nơi khác. Tuy nhiên, người dân Chẳng hạn như kẻ rắp tâm muốn làm hại ai thì
ưa chuộng loại chõ được làm bằng gỗ mạy sọ chúng sẽ trộm lấy áo của đối tượng đem bỏ vào
của người Thái xã Chiềng Kheo hơn bởi có độ chõ, đặt lên ninh lên bếp đồ. Người bị mất áo lập
bền cao, không nứt,... đặc biệt sử dụng chõ tức bị tai họa như gặp hổ vồ, xé xác ăn thịt...” (7,
bằng gỗ mạy sọ là thói quen từ lâu đời trong tr.98). Chõ xôi và chiếc ninh đồng tạo thành
cộng đồng, một thói quen mang tính văn hóa một bộ, là điểm nhấn không thể thiếu trong
mà tộc người vẫn duy trì. Còn chõ đan bằng văn hóa của cộng đồng, có vị trí đặc biệt quan
tre làm dễ hơn, nhanh hơn, nguyên liệu dễ trọng trong nhận thức của người dân, được
kiếm hơn bởi nguyên liệu gỗ không phải địa thể hiện là “một trong 4 thứ của gia truyền được
phương nào cũng có. Tuy nhiên, chõ đan bằng kể ra thành ngạn ngữ: ninh đồng - chân chài -
tre, nứa khi đồ, xôi cơm và các loại thức ăn thanh gươm - khẩu súng” (7, tr.98).
không thơm, hơn nữa chõ dễ bị mối mọt, các Ngày nay, ở nhiều nơi, không ít gia đình
thanh đan nhanh mòn, mủn, độ bền thấp. đã chuyển sang đồ xôi, nấu cơm bằng các loại
1.2.2. Giá trị tín ngưỡng, tâm linh xoong chảo hiện đại (cũng như ống khèn của
Theo quan niệm của người Thái xã Chiềng người Mông đã xuất hiện các ống kim loại inox
Kheo, lên nhà mới là việc trọng đại không chỉ xen lẫn các ống tre truyền thống), nhưng với
gói gọn trong phạm vi gia đình mà còn mang người Thái tỉnh Sơn La nói chung và người Thái
tính cộng đồng cao. Lên nhà mới, đồ vật được xã Chiềng Kheo nói riêng thì “lý cũ” vẫn được
gia chủ chuyển vào nhà đầu tiên là chiếc chõ người dân gìn giữ, chõ đồ xôi bằng gỗ vẫn
xôi bằng gỗ tượng trưng cho sự no đủ, may được sử dụng hàng ngày, cùng với đó là những
mắn, là vật dụng để làm chín đồ ăn, cung cấp phong tục, tín ngưỡng, tâm linh liên quan đến
và tái tạo sức khỏe, sản sinh sức lao động cho chiếc chõ xôi vẫn được bảo tồn, nghề làm chõ
con người. Mang chõ vào để xôi bữa cơm đầu vẫn được duy trì.
tiên trên chính gian bếp của gia đình, cơm 1.2.3. Giá trị văn hóa truyền thống
được xôi trên chõ dùng để làm lễ vật dâng Nói đến nghề làm chõ xôi thủ công không
cúng vào nhà mới và chia cho mọi người trong thể không nói đến tri thức dân gian, luật tục,
bản đến làm giúp gia đình tới nơi ở mới. tục lệ, thói quen trong lao động nông nghiệp
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
45
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
và cách thức sử dụng. Khi vào rừng tìm cây gỗ hóa đặc trưng, trong đó có sản phẩm truyền
để làm chõ, người dân thường đánh dấu bằng thống luôn hiện hữu trong gian bếp gia đình
cách dùng taleo (được đan bằng tre có các mắt của cộng đồng Thái, đó là chiếc chõ xôi bằng
thưa như mắt cáo) để gắn dưới gốc cây, báo gỗ mạy sọ - một sản phẩm nghề thủ công tồn
hiệu với người đến sau là cây đã có chủ. “Trong tại bao đời nay.
từng mường bản của người Thái có sự phân chia 2. Tri thức dân gian trong quy trình tạo dựng
các loại rừng khác nhau tùy theo chức năng và sản phẩm nghề làm chõ xôi truyền thống
giá trị sử dụng: rừng lấy gỗ, rừng lấy tre nứa, 2.1. Nguồn nguyên liệu
rừng đầu nguồn,... rừng khai thác nguyên liệu”
(3, tr. 319). Người Thái quan niệm cây gỗ trong Nguyên liệu làm chõ xôi là gỗ mạy sọ cũng
rừng có thần linh trú ngụ, trước khi đốn hạ có nơi gọi là cây sôcô, cây hoa bạc. Có thời điểm
phải khấn xin phép, báo hiệu với thần linh để nguyên liệu gỗ làm chõ xôi khan hiếm, người
khai thác đem về sử dụng. Bên cạnh việc khai thợ dùng gỗ gạo làm chõ, nhưng chủ yếu vẫn
thác tự nhiên, người Thái xã Chiềng Kheo còn là gỗ mạy sọ, là loại gỗ tốt nhất để tạo nên sản
phẩm. Cây gỗ mạy sọ mọc tự nhiên hoặc được
mang những cây con về gần nhà trồng để lấy
người dân trồng gần nhà, cây lớn nhanh, thân
bóng mát, hoặc trồng cạnh bờ ao, bờ ruộng
thẳng, tròn, có màu trắng, ít mối mọt, lá to, lớp
nhằm tạo nguồn, khai thác tại chỗ để sử dụng
vỏ bên ngoài sần sùi nhìn giống vỏ cây xoài,
hoặc trao đổi mua bán với những người thợ
có vệt nám trắng, nứt thành từng kẽ, có màu
làm nghề.
xám nhạt, xanh đen. Cây sống chủ yếu trên
Người Thái rất giỏi sử dụng rìu hoặc các đồi dốc trong rừng hoặc núi cao, gần đây cây
dụng cụ đơn sơ như dao dựa, đục,... để chế tác mọc xen kẽ với rừng thông, rìa nương rẫy cùng
chiếc chõ xôi bằng gỗ. Khi làm chõ, người Thái cỏ dại, cây bụi, cây không thuộc loại gỗ “tốt”,
tuyệt đối không làm ở rừng hoặc bản khác, bởi “quý hiếm” nhưng lại ít gặp, hiếm vì lượng cây
theo họ, nếu làm ở nơi khác sẽ bị người dân ở không nhiều, cây to có chiều dài từ 7 - 15m cây
đó học được nghề, mất đi tính độc tôn trong già lên đến 25 - 30m, độ tuổi gỗ từ 7 đến 10
cách thức sử dụng nguyên liệu và quy trình năm thì khai thác để làm chõ. Cây có ưu điểm
làm chõ. chắc, mềm, dễ gia công, ít mắt. Phải tiến hành
“Giỏi đẽo gỗ ở quê mình làm khi gỗ còn tươi bởi gỗ tươi có một lượng
Đến đất người chỉ mang rìu làm phụ” nước nhất định dễ dàng cho việc gia công, khi
hoặc: gỗ khô khó làm bởi độ quánh của gỗ nên dễ
nứt, dai hoặc vỡ. Gỗ mạy sọ không độc, không
“Dao rơi khỏi thắt lưng mùi, đồ xôi ngon, thơm hơn so với gỗ gạo hay
Đòn xanh rời khỏi vai - không tốt” (6, tr.465). tre, nứa.
Qua đó khẳng định về tính giáo dục, sự Người thợ làm chõ thường mua gỗ từ các
khiêm tốn, cẩn trọng trong việc khai thác, hộ dân lân cận hoặc của người Mông. Gỗ
ngay cả cách thức mang dao, vác đòn cũng có nguyên liệu được chặt nhỏ thành từng khúc
kiêng kỵ, mang đặc trưng, kinh nghiệm được phù hợp với chiều dài của sản phẩm. Sau khi
hun đúc trong lao động, sản xuất và làm nghề. mua bán hoặc trao đổi (mang 2 khúc gỗ đổi lấy
“Tất cả các hoạt động từ việc đi kiếm ăn, bảo vệ một sản phẩm), gỗ được vận chuyển về bằng
nguồn thức ăn, quá trình sản xuất, ăn, ở, mặc, đi sức kéo của xe gắn máy, gia súc, khuân, vác
đứng, mang vác đều được tiến hành theo các tục và được bảo quản nơi kín gió, có độ ẩm cao
lệ truyền thống. Các tục lệ truyền thống thường (tránh để gỗ khô hanh) để dùng dần. Trước khi
được các luật tục làm chỗ dựa chắc chắn, là tạo hình sản phẩm, gỗ được loại bỏ mắt, chỗ
nguồn động viên, khuyến khích cho các tục lệ sù sì bên ngoài của khúc gỗ, bằng cách dùng
tồn tại và phát triển” (4, tr.107). Qua ngàn đời con dao dựa (mịt) chặt, đẽo, gọt cho tới khi gỗ
nay, các thói quen, kinh nghiệm trong dân bằng hai đầu. Sau đó người thợ sử dụng đôi
gian đã được đúc kết thành luật tục với mong bàn tay khéo léo kết hợp với những công cụ
muốn quản lý, duy trì và cân bằng xã hội. Nó lao động thô sơ thường ngày để tạo ra những
cũng giúp cho việc bảo tồn những nét văn sản phẩm đủ kích cỡ.
46 Số 26 - Tháng 12 - 2018
- VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
2.2. Bộ dụng cụ tạo hình sản phẩm sức tác động lên phần chuôi của đục, đục từng
Bộ dụng cụ để tạo hình chõ khá đơn giản, góc trên mặt sản phẩm, cứ thế cho tới khi nào
được người dân sử dụng trong lao động, sản thủng hai đầu, từ đầu trên xuống đầu dưới.
xuất thường ngày nhưng lại có công dụng và Sau khi đục thủng hai đầu, người thợ dùng
chức năng riêng biệt trong việc tạo hình sản đục móng chỉnh sửa lại bên trong sản phẩm
xuất chõ xôi: cho thật nhẵn, tròn một cách tỉ mỉ, cẩn thận
chăm chút. Tiếp đến dùng dao dựa gọt xung
Dao dựa (tiếng Thái gọi là mịt): là loại dao
quanh bề mặt bên ngoài sản phẩm cho nhẵn,
đa năng dùng trong nhiều công việc trong gia
dùng hai tay cầm hai đầu (phần chuôi và phần
đình, dao một lưỡi rất sắc được làm từ nhíp ôtô
đầu dao) của con dao dựa và cứ thế vừa chuốt
hoặc sắt đặc, chiều dài dao 35cm, chuôi dao
(giống như bào gỗ của người thợ mộc) vừa
20cm. Dao dùng để gọt, đẽo, vót, chặt khi tạo
hình sản phẩm. chỉnh lại cho thật ưng ý, đảm bảo độ dày thành
chõ là 2,5 - 3cm, đầu trên to hơn và thon đều
Đục 2 (ma síu): gọi là đục 2 bởi lưỡi đục có xuống phần dưới theo dạng hình trụ (phần đặt
kích thước rộng 2cm, đục dài 30cm, bao gồm vào chiếc ninh khi xôi), bên trong và bên ngoài
phần thân đục dài 20cm và phần chuôi dài phải cân đối và đều nhau.
10cm. Đục 2 dùng để tạo rãnh trong của sản
phẩm, khoét phần lõi từ đầu này thông sang Khi đục từ trên xuống phía dưới bên trong
đầu kia. Đục được rèn tại địa phương từ thanh sản phẩm, cách phần đáy 5 - 7cm (chiều này
sắt phi 6 (dùng trong xây dựng) hoặc mua từ không khoét vát theo hình dạng bên ngoài)
các cửa hàng sắt, cơ khí trong vùng. thì đục bằng, thẳng phần còn lại, giữa hai phần
được ngăn cách bởi rãnh được khoét bằng đục
Đục móng (ma long): lưỡi đục có hình móng bao quanh, sâu 0,3cm, đoạn này dùng
khuyết dạng móng tay, đục dài 45cm, bao hai thanh tre đặt chéo nhau sao cho phù hợp,
gồm phần thân đục 35cm và phần chuôi đục cân đối giữa 2 thanh tre với phần đáy của sản
dài 10cm. (Đục móng thường được dùng để phẩm được tạo ra, mỗi thanh tre tương ứng với
đục lỗ tròn trong việc dựng nhà). Trong việc hai lỗ để cắm 2 đầu. Người thợ dùng đục, đục
tạo hình chõ, đục dùng để chỉnh sửa mặt trong 4 lỗ, mỗi lỗ có chiều sâu 0,5cm, dùng để đặt 4
sản phẩm tạo mặt phẳng, nhẵn xuyên suốt từ
đầu của 2 thanh tre. Hai thanh tre có tác dụng
đầu cho tới phần cuối sản phẩm.
đỡ phần vỉ đan bằng tre, nứa (hưm hay) ngăn
Dùi đục (mạy cọn): có chiều dài 35cm, gồm không để gạo rơi xuống, tạo khoảng cách với
phần tay cầm và phần đầu (trực tiếp tác động phần nước chứa trong ninh mà chỉ tiếp nhận
với chuôi đục). Phần tay cầm, nắm nhỏ hơn phần hơi nước (Hình 1, 2).
so với phần đầu (phần gõ). Dùi đục được làm
Mặt ngoài của sản phẩm, người thợ dùng
bằng các loại gỗ chắc, cứng, nhằm hạn chế
dao đẽo (tạo) hai chiếc tai hay còn gọi là phần
bào mòn, bởi lực tác động lên phần chuôi đục
tay cầm song song với nhau nhằm mục đích
liên tục trong quá trình tạo ra sản phẩm (5).
thuận lợi cho việc di chuyển, đưa lên, đặt
2.3. Kỹ thuật tạo hình sản phẩm xuống khi sử dụng, hai chiếc tai cách mặt trên
Việc tạo hình sản phẩm được tiến hành của sản phẩm 8cm có hình khuyết. Cuối cùng
dưới sàn nhà hoặc trên lán nương của gia là kiểm tra lại sản phẩm xem có lồi lõm cũng
đình. Mỗi khúc gỗ mạy sọ dùng làm chõ xôi có như độ dày, mỏng của sản phẩm, từ đó người
đường kính dao động từ 20 - 30cm, chiều cao thợ dùng dao dựa chỉnh sửa, chuốt lại một lần
khoảng 30 - 38cm tùy theo nhu cầu sử dụng nữa cho thật đều để hoàn thiện sản phẩm (5).
hoặc số lượng thành viên trong mỗi gia đình. Quy trình làm chõ khá đơn giản được người
Khâu đầu tiên trong việc tạo hình là loại bỏ dân gìn giữ tới ngày nay. Cho đến nay, Chiềng
phần vỏ gỗ, sau đó dùng dao dựa đẽo khúc gỗ Kheo là nơi cung cấp lượng lớn chõ gỗ làm đồ
thành nhiều cạnh dạng hình bát giác nhằm dùng sinh hoạt cho cả tỉnh Sơn La và một số
mục đích khi tạo hình sản phẩm không bị xê vùng lân cận. Đây cũng là xã duy nhất trong
dịch bởi các cạnh. Đặt khúc gỗ theo chiều vùng còn tồn tại nghề làm chõ gỗ thủ công
thẳng đứng, người thợ dùng đục 2 và dùng truyền thống.
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
47
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Hình 1. Sản phẩm chõ xôi của người Thái ở xã Hình 2. Chõ dùng để đồ xôi hàng ngày trong các gia
Chiềng Kheo (Nguồn: Tác giả) đình người Thái (Nguồn: Tác giả)
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nghề truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”; Điều
làm chõ gỗ của người Thái ở Chiềng Kheo, mặc 41: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận
dù vẫn khẳng định được vị thế và giá trị tích các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn
cực trong cuộc sống đương đại, song cũng hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”... Qua đó cho
gặp không ít những khó khăn từ việc hạn hẹp thấy vấn đề bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa
vùng nguyên liệu, việc cạnh tranh mạnh mẽ dân tộc, tộc người đã được Đảng, Nhà nước
từ các sản phẩm cùng loại với chất liệu khác đặc biệt quan tâm. Trước thực tế hiện nay,
nhau, đặc biệt là các sản phẩm công nghiệp, nghề làm chõ của đồng bào Thái ở Chiềng
việc thay đổi thị hiếu tiêu dùng, nhất là của lớp Kheo cần được bảo tồn, phát huy với những
trẻ... Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để giải pháp cụ thể sau:
bảo tồn một cách toàn vẹn, lâu dài và phát huy Một là, nâng cao nhận thức cho cộng đồng
nghề làm chõ xôi bằng gỗ của người Thái, để cư dân về văn hóa dân tộc, tộc người: Bồi đắp
sản phẩm của nghề mãi gắn bó với sinh hoạt thêm tình yêu, thay đổi nhận thức ở thế hệ
của mỗi gia đình, làng bản, gắn với những trẻ nói riêng và cộng đồng nói chung về nghề
hoạt động văn hóa, tinh thần của người Thái thủ công truyền thống. Tuyên truyền, giáo dục
và giữ gìn được nét văn hóa đặc trưng trong tới người dân, làm cho người dân nhận thức
ẩm thực dân tộc Thái. Thực tế cho thấy chỉ có được vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn
thể phát triển nghề một cách bền vững, thông
của nghề làm chõ xôi truyền thống ở Chiềng
qua đó giữ gìn các tri thức dân gian trong nghề
Kheo trong kho tàng văn hóa của cộng đồng
khi có những chiến lược, giải pháp mang tính
mình và có ý thức bảo tồn, phát huy giá trị tri
quy mô, trọng tâm, cấp thiết.
thức dân gian của nghề. Đặc điểm khác biệt
3. Giải pháp bảo tồn và phát huy tri thức của sản phẩm thủ công truyền thống đó là
dân gian của nghề làm chõ xôi truyền thống những tác phẩm chứa đựng những giá trị văn
Hiến pháp năm 2013, Điều 5 ghi rõ: “Các hóa, nét đẹp và bản sắc văn hóa của vùng,
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn miền, tính kế thừa, nối tiếp của mỗi dân tộc rất
bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, rõ nét. Mỗi sản phẩm được tạo nên bởi chính
48 Số 26 - Tháng 12 - 2018
- VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
tâm hồn, khả năng sáng tạo và tình yêu nghề, với nghề mà còn giúp cho các thế hệ nghệ
yêu quê hương, yêu cộng đồng của người thợ nhân có điều kiện để lưu giữ và truyền bá tri
làm nghề. thức dân gian nghề, từ đó có thêm các thế hệ
Hai là, hoàn thiện cơ chế chính sách: Dựa nghệ nhân, thợ giỏi nối tiếp, kế tục trong các
trên những quan điểm, định hướng lớn của gia đình tham gia làm nghề cũng như phát
Đảng, Nhà nước, của tỉnh, các sở, ban ngành triển nghề trong cộng đồng. Khuyến khích
về văn hóa, chính quyền địa phương lấy đó những nghệ nhân trẻ nắm vững kỹ thuật và tri
làm căn cứ nhằm xây dựng các chính sách thức dân gian của nghề truyền thống, sau đó
phù hợp, thông thoáng, thiết thực cho công học tập kinh nghiệm và tiếp thu thêm những
tác bảo tồn và phát huy tri thức dân gian và tinh hoa của các tỉnh, các vùng có nghề tương
những giá trị văn hóa nghề, coi đó là mục tiêu đồng với nghề làm chõ xôi ở xã Chiềng Kheo.
chính cùng với việc phát triển kinh tế gắn với Từ đó giúp người thợ có thêm niềm tin, tình
nghề thủ công truyền thống của cộng đồng. yêu và cảm hứng với nghề để gắn bó lâu dài
Các cơ chế chính sách cần lấy giá trị văn hóa với nghề thủ công truyền thống.
của cộng đồng dân tộc, tộc người làm thước Năm là, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị
đo, bởi nghề có đổi mới, sáng tạo đến đâu thì trường tiêu thụ: Cần phối hợp mở các phiên chợ
cũng không được bỏ đi giá trị văn hóa truyền định kỳ, cố định tại địa phương, để cung ứng
thống tốt đẹp, bỏ đi cội nguồn của dân tộc. và quảng bá sản phẩm; mở rộng thị trường
Như vậy mọi chính sách của các cấp từ Trung tiêu thụ hướng tới một chợ nghề truyền thống
ương tới địa phương mới đạt hiệu quả, đồng tại Mai Sơn hoặc kết hợp giao lưu với các địa
thời đi vào từng ngành nghề cụ thể, trong đó phương nơi có các lễ hội lớn như: Ngày hội văn
có nghề làm chõ xôi của người Thái. hóa các dân tộc huyện Mộc Châu, lễ hội hoa
Ba là, quy hoạch nguồn nguyên liệu: Gỗ mạy ban Vân Hồ, lễ hội đua thuyền Quỳnh Nhai (Sơn
sọ là nguyên liệu chính trong hoạt động nghề La); đan xen, lồng ghép với các chương trình
làm chõ xôi tại xã Chiềng Kheo, nhưng hiện của lễ hội, hội thi, hội diễn trong tỉnh để giới
nay nguồn nguyên liệu đang gặp khó khăn thiệu, trình diễn một hoặc một vài công đoạn
về số lượng cũng như chất lượng, do diện tích trong quy trình tạo dựng sản phẩm nghề thủ
rừng bị thu hẹp nhiều. Vì vậy, chính quyền các công truyền thống tới du khách. Đây là những
cấp cần có chủ trương như: khoanh vùng, quy kênh hữu hiệu để quảng bá nhằm tìm hướng
hoạch lại nguồn đất rừng, trồng rừng, chính đi mới cho sản phẩm của nghề. Kết hợp vận
sách về rừng, đặc biệt cần trồng và nhân rộng chuyển sản phẩm tới các hội chợ hoặc các
gỗ mạy sọ phục vụ phát triển nguồn nguyên phiên chợ ở nhiều địa phương khác nhau để
liệu và phủ xanh đồi trọc. Từ đó kêu gọi, đánh tiêu thụ một cách liên tục, thường xuyên. Việc
thức tiềm năng giá trị nguồn nguyên liệu để tìm thị trường tiêu thụ đem lại nguồn thu
nghề có cơ hội phát triển hơn nữa, qua đó tạo nhập ổn định cho các hộ sản xuất và mở rộng
điều kiện bảo tồn tri thức dân gian nghề. thị trường là nhân tố quan trọng để đảm bảo
Bốn là, truyền nghề và giữ nghề: Cần có các việc nhân rộng nghề thủ công truyền thống
biện pháp tôn vinh và gìn giữ các tài năng đạt hiệu quả cao.
cao tuổi như những báu vật của cộng đồng, Sáu là, bảo tồn và phát huy nghề thủ công
của địa phương, bởi “nghệ nhân dân gian là truyền thống gắn với phát triển du lịch: Phát
những người ưu tú của mỗi cộng đồng dân cư, triển du lịch gắn với nghề thủ công ở Sơn La
là người nổi trội nhất và có công trong việc lưu là giải pháp tạo điều kiện buôn bán, phân phối
trữ, trao truyền và thể hiện những bí quyết, kỹ sản phẩm nghề tại chỗ thông qua việc tham
thuật và nghệ thuật trong kho tàng văn hóa dân quan mua sắm của du khách trong các chương
gian” (2, tr.228). Các chế độ ưu đãi tốt, những trình du lịch tại Sơn La. Nghiên cứu về mô
chính sách mới mang tính quan tâm chăm sóc hình du lịch sinh thái cộng đồng tại khu vực
đối với các nghệ nhân cao tuổi và nhiều tuổi cho thấy có thể phù hợp với những thị trường
không chỉ là nguồn động lực, giúp họ có thêm khách như: khách du khảo làng, bản, khách du
điều kiện để sáng tạo và lao động cống hiến lịch tìm hiểu về làng nghề, khách dã ngoại,...
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
49
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Do đó cần khai thác các sản phẩm hàng hóa chốt để duy trì, phát triển nghề. Chính quyền
trong vùng, do người dân địa phương sản xuất các cấp và người dân bản địa cần hướng đến
thủ công, trong đó có sản phẩm chõ xôi truyền những giải pháp thiết thực, có kế hoạch cụ thể
thống, phục vụ nhu cầu mua sắm, làm quà lưu trước mắt và lâu dài nhằm bảo tồn tri thức dân
niệm... gian nghề, phát triển, phát huy những sáng
Nên tổ chức nhiều hơn những hội chợ, chợ tạo của người dân với nghề, với văn hóa nghề,
phiên chuyên về sản phẩm nghề thủ công góp phần làm đa dạng bức tranh văn hóa đa
truyền thống, mở cuộc thi tay nghề giỏi, các màu sắc của núi rừng Tây Bắc.
cuộc thi trưng bày sản phẩm thủ công của L.V.M, L.N.D
nghề truyền thống và qua đó góp phần tuyên (ThS., Trường Đại học Tây Bắc)
truyền, quảng bá các sản phẩm của nghề. Tổ
chức cho nghệ nhân, thợ giỏi làng nghề tham Tài liệu tham khảo
gia trình diễn và giới thiệu sản phẩm tại các lễ
1. Nguyễn Văn Huy (2003), Bức tranh văn hóa
hội văn hóa lớn trong tỉnh, có như vậy mới đem
các dân tộc Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
tới du khách những điểm nhấn, điểm khác biệt
mang tính đặc sắc của các sản phẩm đẹp, độc 2. Nguyễn Kim Loan (2013), Bảo tồn và phát
đáo và giàu tính truyền thống của cộng đồng. huy di sản văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
Kết luận
3. Phạm Văn Lực (2011), Một số vấn đề về lịch
Người Thái ở Sơn La có truyền thống lịch sử sử và văn hóa Tây Bắc, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà
văn hóa tộc người đa dạng, phong phú và đặc Nội.
sắc. Từ xa xưa họ đã sử dụng lương thực chính
4. Hoàng Lương (2004), Luật tục với việc bảo
là lúa nếp, với việc chế tác và sử dụng chiếc chõ
tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống một
đồ xôi bằng gỗ, họ đã tạo ra sản phẩm mang
số dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân
dấu ấn đặc trưng của tộc người. Là mảnh đất
tộc, Hà Nội.
cho đến nay vẫn duy trì, bảo lưu được vốn văn
5. Lê Văn Minh (2016), “Nghề làm “hạy khẩu”,
hóa về nghề thủ công truyền thống, Chiềng
Bản tin của Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa các
Kheo được thiên nhiên ưu đãi có nguyên liệu
dân tộc Tây Bắc, Trường Đại học Tây Bắc, http://
gỗ mạy sọ dùng để làm chõ xôi phục vụ nhu
app.utb.edu.vn/ncvh/index.php/di-san-vat-the/
cầu văn hóa ẩm thực, góp phần duy trì phong
nghe-truyen-thong/119-ngh-lam-h-y-kh-u
tục tập quán của cộng đồng người Thái trong
vùng. 6. Hoàng Trần Nghịch (2011), Phương thức
giáo dục cổ truyền của dân tộc Thái, Hội liên hiệp
Nghề làm chõ ở Chiềng Kheo tồn tại đến văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La xuất bản.
ngày nay đáp ứng nhu cầu của chính người
7. Cầm Trọng (2005), Những hiểu biết về người
dân trong cộng đồng và các địa phương có
Thái ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
người Thái sinh sống. Do nhu cầu và tập quán
sử dụng, chõ xôi ở xã Chiềng Kheo được người 8. UBND xã Chiềng Kheo, huyện Mai Sơn, tỉnh
dân đánh giá cao và rất ưa chuộng bởi nguyên Sơn La (2017), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ
liệu gỗ, khiến xôi thơm và ngon hơn, để được phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh 9
tháng, nhiệm vụ và phải pháp 3 tháng cuối năm
lâu hơn. Nghề làm chõ đóng một vai trò quan
2017, bản đánh máy lưu tại văn phòng UBND xã
trọng trong đời sống văn hóa truyền thống của
Chiềng Kheo.
người dân địa phương, đem lại thu nhập và là
thước đo về khả năng thích nghi, sáng tạo, tận Ngày nhận bài: 24 - 10 - 2018
dụng tự nhiên để tồn tại của con người. Hiện
Ngày phản biện, đánh giá: 13 - 12 - 2018
nay, không chỉ tri thức dân gian nghề chưa
được chú trọng bảo tồn và phát huy, mà ngay Ngày chấp nhận đăng: 25 - 12 - 2018
chính nghề truyền thống cũng đang có nguy
cơ mai một. Nguồn nguyên liệu, nhu cầu sử
dụng và thị trường đang là những vấn đề mấu
50 Số 26 - Tháng 12 - 2018
nguon tai.lieu . vn