Xem mẫu

  1. PGS.TS. NGUYEN THI HIEN NHA X U A T B A N VA N HÖA DÄN TQC
  2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỘNG ĐỒNG TRONG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VẢN HÓA PHI VẬT THỂ
  3. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Nguyên Thị Hiền Quản lý nhà nước và vai trò cộng đồng trong bảo vộ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể / Nguyễn Thi Hiền. - H. : Văn hóa dân tộc, 2018. - 244tr.; 21cm ISBN 9786047020959 1. Văn hóa phi vật thể 2. Quản lý nhà nước 3. Bảo tổn 4. Việt Nam 306.09597 - dc23 VDM0030p-CIP
  4. PGS.TS. NGUYỄN THỊ HIỀN Quản lý nhà nuòc và vai trò cộng dồng trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản l/ồk hờ4L sừH v ệ tịlc ễ NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA DÂN TỘC Hà N ội-2 0 1 7
  5. Các cộng tác viên: - TS. Lê Thị Minh Lý - TS. Vũ Hồng Thuật - TS. Vũ Diệu Trung - ThS. Phan Mạnh Dương - ThS. Nguyễn Thị Hảo - ThS. Trương Thị Thúy Hà
  6. M Ở ĐẦU Hiện nay, Việt Nam có 12 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thế đại diện của nhân loại và Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cãn bảo vệ khẩn cấp, bao gồm: 1) Nhã nhạc - âm nhạc cung đình Việt Nam (2003); 2) Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (2 0 0 5 ); 3) Hát Ca trù (2009). 4) Dân ca Quan họ Bắc Ninh (2 0 0 9 ); 5) Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc [2 0 1 0 ); 6) Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ (2 0 1 2 ); 7) Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ [2013); 8) Dân ca Ví, Giặm Nghệ - Tĩnh (2 0 1 4 ); 9) Nghi lễ và trò chơi Kéo co (di sản đa quốc gia năm 2015, gồm: Việt Nam, Hàn Quốc, Philippines và Cambodia); 10) Thực hành tín ngưỡng thờ Mau Tam phủ của người Việt (2 0 1 6 ]; 11) Nghệ thuật Bài Chòị ở Trung Bộ Việt Nam (2017); 12) Hát Xoan Phú Thọ (di sản được vinh danh trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khấn cấp năm 2011; chuyến sang Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2017]. Dựa trên đặc điểm loại hình và hình thức quản lý di sản, chúng tôi lựa chọn 5 di sản: Tín ngưỡng th ờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Không gian văn h ó a cồn g chiêng của người Lạch ở tỉnh Lâm Đồng, Dân ca ví, Giặm Nghệ - Tĩnh, Trò chơi K éo m ỏ ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội, làm trường họp nghiên cứu quản lý nhà nước và vai trò cộng đòng trong bảo vệ, phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam. s
  7. Đế bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, việc nâng cao vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng đang được sự quan tâm lãnh đạo, định hướng, hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế, sự chỉ đạo, quản lý trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể ở các địa phương là chưa thống nhất, chồng chéo và không như nhau. Điều này phụ thuộc vào bản chất của di sản văn hóa phi vật thế, truyền thống tự quản của cộng đòng, việc vận hành cơ chế quản lý tại địa phương, việc có Ban Quản lý di tích hay không, và sự kết hcrp của các bên tham gia. Đối với một sổ di sản, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản phụ thuộc rất nhiều vào sự quản lý, điều hành của Ban Quản lý di tích, có lẽ di sản Hội Gióng ử đền Phù Đổng và đền Sóc là một điển hình. "Hội Gióng” ở đền Phù Đổng được quản lý, điều hành bời Ban Quản lý di tích đền Phù Đổng (trực thuộc ủy ban nhân dân xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội); Trưởng ban là Chủ tịch xã, công việc điều hành, triển khai lễ hội, tế lễ do các ông trong Ban Quản lý di tích và Ban Khánh tiết tổ chức theo truyền thống được lưu truyền từ xưa, đã được ghi chép trong sổ Hội lệ. Còn "Hội Gióng" ờ đền Sóc, việc tổ chức lễ hội lại do Trung tâm quản lý khu Du lịch - Di tích đền Sóc Sơn (trực thuộc ủy ban nhân dân huyện Sóc Son, Hà Nội) quản lý và điều hành. Điều này đã gây ra nhiều vướng mắc trong công tác tổ chức lễ hội, cũng như việc phân công các làng xã tham gia lễ rước vào những ngày lễ hội. Đối với một số di sản, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản lại phụ thuộc trực tiếp vào sự thực hành và trao truyền di sản, vào sự chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền địa phương. Chẳng hạn đối với di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, trường hợp của người Lạch ở tỉnh Lâm Đồng: Thực tế, khi người Lạch ử thị 6
  8. trấn Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng (cách thành phố Đà Lạt 14km, nằm dưới chân núi Lang Biang) cũng như nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên chuyển sang trông cà phê, hạt điều, rau màu, cải đạo sang Tin Lành và Công giáo, các lễ hội cộng đồng, nghi lễ truyền thống hầu như vắng bóng, và cồng chiêng không còn được đòng bào diễn tấu trong các lễ hội truyền thống nữa. Trong bối cảnh này, từ những năm 1990, do nhu càu phục vụ khách du lịch đến thành phố Đà Lạt và tham quan núi Lang Biang, các Câu lạc bộ Cồng chiêng được các cá nhân thành lập tự phát. Hay do nhu cầu phục vụ cho các lễ nghi, các sự kiện quan trọng trong nhà thờ Công giáo tại thị trấn, cha xứ thành lập các Đội còng chiêng bao gồm các nghệ nhân nam, hay của các nghệ nhân nữ. Đối với các Câu lạc bộ cồng chiêng, cấp chính quyền địa phương chỉ là những người quản lý về mặt hành chính, cấp phép, kiểm tra việc thực hiện theo "tinh thần" giấy phép cấp, còn những vấn đề về bảo vệ, phát huy di sản để phát triển du lịch thì hầu như không có sự kết họp và quản lý chặt chẽ của ban ngành, các cơ quan liên quan. Bên cạnh đó, có những di sản được sự chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền địa phương tương đối tốt như Dân ca Ví, Giặm Nghệ - Tĩnh, nhưng các nguồn lực hỗ trợ cho cộng đồng chưa thực sự nhiều, chưa đi vào chiều sâu. Cộng đồng chưa được hưởng lợi nhiều từ di sản của họ. Còn đối với di sản Nghi lễ và trò chơi Kéo co, trường họp Trò chơi Kéo mỏ ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội, nhà nước hoàn toàn chỉ đạo từ cấp vĩ mô, hỗ trợ cộng đồng làm hồ sơ đa quốc gia đệ trình UNESCO vinh danh di sản, và thực hiện công tác kiểm kê trong danh mục di sản văn hóa phi vật thể của Hà Nội. Như vậy, cộng đồng đã và đang tham gia, quyết định và tự chủ vào quá trình bảo vệ và phát huy di sản Trò chơi Kéo mỏ. Điều này góp phần bảo đảm di 7
  9. sản sống với cộng đồng, phát huy giá trị vổn có của di sản đối với cộng đồng. Quản lý di sản văn hóa là một hình thức, một thực hành quản lý các sản phẩm văn hóa, các nguồn lực văn hóa được đúc kết từ thực tiễn bảo vệ, phục hồi, trao truyền. Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể không đơn giản chỉ có công tác quản lý hành chính, hoạch định các chiến lược, chính sách, mà còn phải thực thi những chức năng như chỉ đạo, điều hành, phối họp, và hỗ trợ cộng đồng về nguồn lực (tài chính, nhân lực, vật lực), về kiểm tra giám sát... Trong đó, cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra những quy định/quy ước bảo vệ di sản phù họp với truyền thống văn hóa và bảo đảm tính pháp lý của nhà nước, để thực thi các biện pháp bảo vệ di sản trong cộng đồng một cách tự giác và tự chủ. Qua công tác quấn lý 5 di sản mà chúng tôi chọn làm trường hợp nghiên cứu, cho thấy sự đa dạng của các mô hình quản lý trong thực tiễn ở nước ta, và những vấn đề còn tồn tại trong những hình thức quản lý đó. Từ đó, chúng tôi dựa trên những cơ sử lý luận, đánh giá và phân tích thực tiễn, đúc kết các bài học trong vấn đề quản lý di sản văn hóa phi vật thể. Với những nội dung đề cập, cuốn sách vừa mang tính nghiên cứu ứng dụng, bảo đảm cung cấp những cơ sử lý luận, vừa đề xuất các giải pháp thực hiện mối quan hệ giữa quản lý nhà nưó-c và vai trò cộng đồng, góp phần xây dựng cơ chế, chính sách hữu hiệu nhằm đẩy mạnh công tác quản lý, bảo vệ, phát huy di sản văn hóa phi vật th ể ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 8
  10. CHƯƠNG I TÌNH HÌNH NGHIÊN cứu, cơ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỘNG ĐỒNG TRONG BẢỌ VỆ VẢ PHÁT HUỸ GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ I. TÌNH HÌNH NGHIÊN cứu 1. Những công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt a. N hóm cô n g trình về q u ả n lý n h à n ư ớ c * Về chính sách văn hóa: Một trong những công trình đàu tiên giới thiệu tổng quan về chính sách văn hóa Việt Nam là tập sách do Nguyễn Văn Kiêu và Trần Tiến biên soạn với nhan đề: Tổng th u ậ t chính sá ch văn h ó a củ a m ộ t s ố n ư ớ c trên t h ế g i á p ) , trong đó các tác giả đã giới thiệu định nghĩa về văn hóa, về chính sách văn hóa và những nguyên lý, nguyên tắc, phương hướng, mục tiêu của chính sách văn hóa. Các lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của chính sách văn hóa được phân tích trong các công trình của các tác giả: Trần Quốc Bảng về Chính s á c h văn h ó a đ ố i v ớ i p h á t triểnw-, Lưu Trần Tiêu về T h ập kỷ q u ố c t ế p h á t triến vân h ó a (!) Nguyễn Văn Kiêu và Trần Tiến, Tổng thuật chính sách văn hóa của một số nước trên th ế giới, Nxb. Hà Nội, 1993. (2) Trần Quốc Bảng, Chính sách văn hóa đôi với phát triên, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Sô 6, 1995, Tr.15. 9
  11. và đ ổ i m ớ i chính sách p h á t triển văn h ó a V iệt Nam(V; Nguyễn Tri Nguyên về Chính sách vân h ó a - Điều kiện khu n g củ a qu ản lý văn hoáW , Nguyễn Danh Ngà về Chính s á c h văn h ó a tron g g ia i đ oạn hiện nạy(3); Đỗ Huy với Mấy suy n g h ĩ về p h ạ m vi điều chỉnh chính sách p h á t triển văn hóa ờ n ư ớ c ta hiện nay(4>. Một số tác giả khác lại đi sâu nghiên cứu chính sách văn hóa trên những lĩnh vực cụ thể, như bảo vệ di sản văn hóa®. Thêm vào đó, có nhiều công trìn h nghiên cứu về chính sách văn hóa của Đảng và Nhà n ư ớ c nhấn m ạnh sự đúng đắn của các quyết sách kịp thờ i tác động đến sự phát triể n văn hóa(6). Bùi Quang Thắng cho rằng "đường lối của Đảng”, hay "nghị quyết của Đảng" tuy chưa phải là toàn bộ chính sách văn hóa nhưng là khâu quyết địnht7). T rong nhiều năm qua đường lối quan trọng của Đảng được th ế hiện ở phương châm "xây dựng m ột nền văn (!) Lưu Trần Tiêu, Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa và đổi mới chính sách văn hóa Việt Nam, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, sỗ 10,1997. (2) Nguyễn Tri Nguyên, Chính sách văn hóa - Điều kiện khung của quàn lý văn hóa, Thông báo khoa học Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, Số 3, 2001, Tr. 32-44. (3) Nguyễn Danh Ngà, Chính sách văn hóa trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, So 9, 2002, Tr. 93-99. w Đỗ Huy, Mây suy nghĩ về phạm vi điều chinh chính sách phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 3,2007, Tr. 10-14. (5) - Hoàng Vinh, về chính sách bào vệ và phát triển di sản văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 03,1996, Tr. 3-5; số 05, Tr. 65-68. - Nguyễn Quổc Hùng, Bâo tồn di sán văn hóa phi vật thể, khái niệm và nhận thức, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 04, 2001, Tr. 14-21. (6) Lương Hồng Quang, Nghiên cứu chính sách - Một khoa học, Tạp chí Văn hóa học, SỔ 1, 2012, Tr. 34-46. (7) Bùi Quang Thắng, Cải cách chính sách văn hóa đ ể văn hóa thực sự trở thành động lực, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 3,2011. 10
  12. hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc" và được th ể chế hóa bằng nhiều "chư ơ ng trình quốc gia về văn hóa"^). Đánh giá về chính sách văn hóa Việt Nam, trong công trình Văn h ó a V iệt N am trư ớ c xu t h ế to à n câu h ó a - th ờ i c ơ và th á c h thứ c, tác giả Thành Duy đã đề xuất 5 mục tiêu lớn về chính sách văn hóa vì sự phát triển đối với các dân tộc ở Việt Nam, trong đó mục tiêu th ứ ba là đảm bảo một chính sách văn hóa nhằm bảo vệ những di sản văn hóa v ật th ể và di sản văn hóa phi vật th ể của cộng đòng các dân tộc V iệt Nam(2). Nhiều công trình của các học giả Việt Nam nghiên cứu, đánh giá, phân tích những tác động của các văn bản pháp quy về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam trong đó có di sản văn hóa phi vật thể, đặc b iệt từ thời kỳ đổi mới. Những công trình này lý giải khuynh hướng bảo vệ có chọn lọc được áp dụng cho các yếu tố trong cùng m ột thực hành văn hóa, ví dụ như quan điểm tăng phần "hội", giảm phần "lễ" trong lễ hội, khi m ột số nhà nghiên cứu khẳng định: trong tư ơng lai phần "lễ" của hội lễ sẽ hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại phần "hội" và "hội lễ" sẽ hoàn toàn biến thành "hội"(3l Theo quan điểm này, trong công tác bảo vệ dỉ sản, m ột số thực hành văn hóa dân gian bị tách khỏi môi trư ờ n g diễn xư ớ ng truyền thống, ví dụ như hát chầu văn tách í1) Bùi Quang Thắng, Cải cách chính sách văn hóa để văn hóa thực sự trở thành động lực, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Số 3,2011. w Thành Duy, Vân hóa Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa, thời cơ và thách thức. Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2007. (3) Lê Hữu Tầng, Hội lễ dân gian truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại: Văn đề và ý kiến, In trong sách Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng, chủ biên, Tr. 293-304. Nxb. Khoa học xã hội, 1994. 11
  13. khỏi nghi lễ lên đồng; cồng chiêng tách khỏi lễ đâm trâu; hát then tách ra khỏi nghi lễ sam an giáoM. * Vai trò chỉ đạo, định hướng của nhà nước: Nhiều tác giả đánh giá tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nư ớ c nhằm phát huy các giá trị của di sản® . T ác giả Bùi Hoài Sơn cho rằng, di sản văn hóa “được xem là m ột ngành công nghiệp"® . Do vậy, việc tiếp cận dưới góc độ quản lý di sản văn hóa như m ột loại hình quản lý di sản sẽ đưa đến quan điểm công nghệ quản lý lễ hội nói riêng và di sản văn hóa nói chung. Trên thực tế, việc quản lý di sản được hiểu theo nghĩa rộng hơn nhiều, "không chỉ hoàn toàn là công việc trự c tiếp liên quan đến di sản, m à chính (1) - Fjelstad, Karen and Nguyễn Thị Hiền, Introduction (Giới thiệu), in trong Possessed by the Spirits: Mediumship in Contemporary Vieữiamese Communities (Nhập đồng: Lên đồng ưong các cộng đồng Việt Nam đương đại). Karen Fjelstad và Nguyễn Thị Hiền, chủ biên, Ithaca: Southeast Asia Program Publications, 2006, Tr. 7-17. - Lê Hồng Lý và cộng sự, Báo cáo đánh giá hai dự án cồng chiêng Tây Nguyên và Nhă nhạc cung đình Huế, Dự án họp tác giữa Văn phòng UNESCO Hà Nội và Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam họp tác, 2010. - Ngữ Thiên, Bảo tồn chọn lọc vd sự nhầm lẫn khái niệm, Tạp chí Toàn cảnh - Sự kiện - Dư luận, Số 262, 2012, Tr. 48. í2) - Đặng Văn Bài, vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4,2001, Tr. 11-13. - Nguyễn Quốc Hùng, Quanh việc quản lý và phát huy tác dụng di sản văn hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Số 2,2000, Tr. 50-53. - Nguyễn Thế Hùng, Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, In trong cuốn Một con đường tiếp cận di sàn văn hóa, Tập 4, Nxb. Thẽ giói, Hà Nội, 2008. - Trương Quốc Bình, Đổi mới hoạt động bảo vệ và phát huy giá ứ ị kho tòng di sản văn hóa, Tạp chí Cộng sản, Sổ 2, 2009, Tr. 19-23. (3) Bùi Hoài Sơn, Quản lý lễ hội truyèn thống của người Việt ồ châu thổ Bắc Bộ tìr năm 1945 đến nay, Luận án tiến sỹ Văn hóa học, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, 2007. 12
  14. là quản lý m ột xã hội thu nhỏ"™. Tổ chức, quản lý một di sản văn hóa phi vật thể như lễ hội truyền thống, ngoài việc xây dựng chương trình, bố trí nguồn nhân lực, tìm kiếm nguồn tài trợ, còn phải có kế hoạch về hậu cần, an ninh, y tế, vệ sinh thực phẩm. Do vậy, việc quản lý di sản văn hóa cần có chỉ đạo, hướng dẫn của chính quyền Trung ưong và các cấp, các ngànhC2). * Chỉ đạo, quản lý các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa: Quản lý nhà nước về di sản văn hóa nói chung, trong đó có di sản văn hóa phi vật th ể là mối quan tâm hàng đầu ở Việt Nam, m ặc dù nhận thứ c về vai trò của cộng đồng đã được tăng lên. Điểm lại m ột số m ặt hoạt động của công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hóa năm 2013, tác giả Nguyễn Thế Hùng trình bày 11 nhiệm vụ trọng tâm và 7 giải pháp trong thời gian tới, đồng thời nhấn m ạnh hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng nhận đư ợc s ự quan tâm chỉ đạo của Đảng, nhà nư ớcí3). Tác giả Đặng Thị Bích Liên đánh giá thự c tiễn công tác quản lý di sản văn hóa và cho rằng, tron g thời gian tó i cần nâng cao vai trò chỉ đạo, định hướng của Bộ chủ quản về văn hóa; tăng cư ờ n g kiểm tra, đôn đốc, hư ớng dẫn triển khai các M Bùi Hoài Sơn, Một số vđn đề lý thuyết quản lý lễ hội ứuyền thống, Tham luận tại Hội thảo Lễ hội - nhận thức, giá trị và giải pháp quản lý do Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia phối hợp vói Bộ Văn hóa, Thế thao và Du lịch tổ chức tại Hà Nội, tháng 5-2012. [2) - Từ Thị Loan, Cộng đồng chủ th ể của hoạt động lễ hội, Tạp chí Văn hóạ nghệ thuật, Số 318, 2010. - Từ Thị Loan, Một số mô hình tổ chức, quản lý lễ hội cố truyền, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Sổ 340, 2012. (3) Nguyễn Thế Hùng, Công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa năm 2013 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2014, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 1,2014, Tr. 5-7. 13
  15. quy hoạch; triển khai có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực di sản văn hóaW. Di sản văn hóa phi vật thể là một loại hình nhạy cảm, cần được quan tâm thích đáng với các nguyên tắc khắt khe của nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó việc đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu, khảo sát, khảo cứu, sưu tãm, bảo tồn và phát huy tác dụng các di sản văn hóa phi vật thế là rất cần thiết, cần được quan tâm và ưu đãK2). Tư liệu hóa, in ấn, lưu trữ bằng văn bản, hình ảnh các loại hình truyền thống cũng là một hình thức quảng bá, phát huy di sản văn hóa phục vụ công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao hình ảnh của cộng đồng. * Giáo dục, đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ quản lý di sản văn hóa: ở Việt Nam, giáo dục tri thức văn hóa truyền thống được quan tâm và đã được đưa vào trong giáo dục phổ thông và trong cuộc sống hàng ngàyt3). về chính sách giáo dục văn hóa qua phương tiện truyền thông, tác giả Lương Hồng Quang cho rằng, thông qua các phương tiện truyền thông của xã huyện, xây dựng các chương trình truyền thông giáo dục nhận thức, bài trừ M Đặng Thị Bích Liên, Huy động sức mạnh của toàn ngành tiếp tục đẩy mạnh hoạt động báo vệ và phát huy giá trị di sản văn hỏa, Tạp chí Di sản văn hóa, số 1, 2013,Trr5-6. P1 - Lê Thị Minh Lý, về bảo tồn văn hóa phi vật thề, Tạp chí Xưa & Nay, Số 117,2002, Tr. 9-11. - Nguyễn Chí Bền, Di sản văn hóa phi vật thể, từ sưu tàm, nghiên cứu đến bảo vệ và phát huy, In trong sách Bảo vệ và phát huy di sán văn hóa phi vật thế ở Việt Nam, nhiều tác giả, Viện Văn hóa Thông tín, 2005, Tr. 77-95. - Lê Hồng Lý và cộng sự, Bảo tồn và phát huy di sán văn hóa trong quá trình hiện đại hóa: Nghiên cứu trường hợp tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ), hội Gióng (Hà Nội), tháp Bà Poh Nagar (Khánh Hòa) và văn hóa cồng chiêng của người Lạch (Lâm Đòng), trong sách: Di sản văn hóa trong xă hội Việt Nam đương đại, Nxb. Tri thức, 2014. P) Lê Hồng Lý. Truyền dạy các tri thức văn hóa dân gian qua lễ hội, Tạp chi Di sản văn hóa, So 7,2004, Tr. 20-23. 14
  16. tệ nạn xã hội, đấu tranh với các hủ tục, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóat1). Một số tác giả khác đề nghị cần có những cơ chế chính sách nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo và nâng cao ý thức của cán bộ quản lý và người dân về Công ước 2 0 0 3 , về Luật di sản văn hóa, về các vấn đề liên quan đến bảo vệ và phát huy di sản văn hóa sau khi được UNESCO vinh danht2). b. N hóm côn g trình về v a i trò củ a cộn g đ ò n g * Vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng: Những người làm công tác văn hóa và di sản đều đã nhận thức rõ vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa là trách nhiệm trư ớ c hết của cộng đồngt3). Khuyến nghị đối vói công tác bảo tồn và phát huy di sản í1) Lương Hồng Quang, Vân hóa cộng đồng làng vùng đồng bằng sông Cửu Long thập kỷ 80-90, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1997. í2) - Nguyễn Văn Huy, Vấrì đề bảo vệ và phát huy giá trị của lễ hội truyền thống: thảo luận về một sổ khái niệm cơ bản, Tạp chí Dân tộc học, Số 4, 2012, Tr. 44-54. - Lê Hồng Lý và cộng sự, Vai trò của môi trường thực hành văn hóa trong việc bảo vệ di sán: Bài học từ các dự án bào vệ di sản còng chiêng và nhã nhạc, In trong sách Bảo vệ vờ phát huy lễ hội cổ truyền trong xã hội Việt Nam đương đại (Trường hợp Hội Gióng), Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Nxi). Văn hóa - Thông tin, 2012. (3) - Nguyễn Văn Huy, vấn đè bảo vệ và phát huy giá trị của lễ hội truyền thống: thảo luận vê một số khái niệm cơ bản, Sđd, Trĩ 44-54. - Lê Thị Minh Lý, Cộng đồng bảo vệ di sản - Kinh nghiệm thực hành tốt từ Dự án Nhấnhạc, Tạp chí Di sàn văn hóa, Số 4, 2008, Tr. 38-41. - Nguyễn Chí Bền, Di sản văn hóa phi vật thể, từ sưu tâm, nghiên cứu đến bảo vệ và phát huy, Sđd, Tr. 77-95. - Tô Ngọc Thanh, Văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số Việt Nam: Vai trò, địa vị của nó, trách nhiệm của chúng ta và giải pháp, In trong Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, nhiều tác giả, Viện Văn hóa - Thông tìn, 2005, Tr. 13-23. - Lương Hồng Quang (chủ biên), Câu chuyện làng Giang: Các khuynh hướng, giá trị và khuôn mâu trong m ộtx ă hội đang chuyển đổi. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nôi 2011. - Hoàng Điệp, Nếu người dân hiểu rõ tín ngưỡng, Bài phỏng vấn Giáo sư Ngô Đức Thịnh, Tuổi Trẻ Online, 2012. 15
  17. văn hóạ phi vật thể ở Việt Nam, các tác giả Nguyễn Đức Tăng, Dương Bích Hạnh đề xuất 4 giải pháp then chốt, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc khuyến khích sự tham gia tối đa của cộng đồngW. Theo tác giả Lê Thị Minh Lý, thành viên cộng đồng, "chính họ là người làm nên giá trị lễ hội và quyết định cách thức bảo vệ di sản của họ. Họ là đối tác làm việc với các nhà quản lý văn hóa để bảo vệ lễ hội"C2). * Vai trò tự quản, sự cố kết cộng đồng: Việc cố kết cộng đồng trong các làng xã đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và cho rằng đó là một trong những nét văn hóa, xã hội đặc thù của người Việtí3). Sức mạnh của sự cố kết còn giúp cho việc tự quản các hoạt động văn hóa xã hội tại các địa phương. Lương Hồng Quang cho rằng, "Năng lực tự quản cộng đồng ờ nông thôn vẫn là một giá trị xã hội được coi trọng do ý thức về cộng đồng, về tập thế vẫn còn sâu đậm trong đời sống tâm linh cũng như trong cuộc sống hàng ngày, thế hiện qua sự trường tồn của hội làng, tâm thức hướng về ông tổ của làng, tinh thần tình làng nghĩa xóm, sự kiểm soát của dư luận vẫn là những giá trị tác động mạnh đến mọi thành viên trong cộng đòng"W. Thông qua việc quan sát và nghiên cứu thực tế tại (1) Nguyễn Đức Tăng, Dương Bích Hạnh, Một s ố khuyến nghị vè công tác bảo vệ di sản văn hóa phi vật th ể tại Việt Nam, Tạp chí Di sản văn hóa, Sỗ 1, 2014, Tr. 12-19. P) Lê Thị Minh Lý, Tăng cường nhận thức và biện pháp quản lý lễ hội (Một s ố ý kiến từ tiếp cận quản lý di sản vãn hóa phi vật thể), Tạp chí Di sản văn hóa, Số 4,2010, Tr.37. P) Ngô Đức Thịnh, về tín ngưỡng lễ hội c ổ truyền, Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2007, Tr. 343. M Lương Hồng Quang, Các tổ chức phi quan phương trong làng - xã vùng châu thổ Bắc Bộ (Trường hợp Hội đồng niên). In trong sách Hiện đại và động thái của ứuyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học, Lương Văn Hy, Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010,Tr. 307-329. 16
  18. đền Bà Chúa Kho, tác giả Trần Thị Thủy đi sâu phân tích năng lực tự quản, cố kết cộng đồng trong việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa, dẫn đến một sự đồng thuận cao, tạo ra một hiệu quả quản lý chung đảm bảo việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa một cách bền vững. Thực tế cho thấy, người dân làng Cổ Mễ (Bắc Ninh) đã tạo nên sự đoàn kết cộng đồng, phát huy sức mạnh tập thể thông qua tổ chức Hội Người cao tuổi để tự quản lý, phục dựng, tổ chức lễ hội. * Lợi ích của cộng đồng: Theo tác giả Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Thu Trang việc cố kết cộng đồng xuất phát từ truyền thống cũng như lợi ích trong hiện tại. Theo hai tác giả, "Trong quá khứ, yếu tố huyết thống/cội nguồn dòng giống tổ tiên và noi cư trú/không gian sinh tồn có vai trò hàng đầu trong việc gắn kết cộng đồng. Còn ngày nay, lợi ích và sự quan tâm chung là yếu tố quyết định sự bền chặt của cộng đồng"W. Để phát huy tối đa các nguồn lực xã hội từ cộng đồng, quan điểm cơ bản là: "Tự nguyện, đồng thuận và cùng có lợi". Cũng cùng quan điểm, tác giả Nguyễn Hồng Hà đề cao nhiệm vụ bảo vệ di sản văn hóa như là nghĩa vụ, quyền lợi thiết thực của mỗi người, mỗi nhóm xã hội, cộng đồng®. Nguyễn Hữu Thức thẳng thắn chỉ ra rằng, cộng đồng hơn ai hết biết phải tổ chức lễ hội như thế nào tùy thuộc vào khả năng tài chính, ý thức tự giác để đáp ứng các nhu cầu văn hóa lễ hội. Vói cơ chế tự quản của cộng đồng, người dân biết cách điều chỉnh hài hòa các lợi ích xuất phát từ nhu càu của họ®. * Phát huy vai trò của các thiết chế truyền thống, tổ chức phi w Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Thu Trang, Vai trò của cộng đồng nhìn tìrgóc độ bảo tồn di sản văn hóa, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 4,2012. PĨ Nguyễn Hồng Hà, Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa trong bối cảnh toàn cồu hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4, 2014, Tr. 14-18. (3) Nguyễn Hữu Thức, Một s â vấn đề đặt ra trong quản lý và tổ chức lễ hội hiện nay, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 2, 2012. 17
  19. quan phương: Một số tác giả đã nhận thấy sự cần thiết phải phát huy vai trò của các thiết chế truyền thống, luật tục, tổ chức phi quan phương trong quản lý di sản văn hóa phi vật thể. Phân tích những vai trò của luật tục trong đòi sống hiện nay, tác giải Bùi Quang Thanh và Phạm Nam Thanh cho rằng, muốn phát huy luật tục, hương ước, quy ước bảo vệ di sản văn hóa cần có sự kết họp họp lý giữa pháp luật của Nhà nước, và ngược lại để pháp luật thực sự đi vào đời sống xã hội nó cần được cụ thế hóa gắn với luật tục, hương ước, quy ước bảo vệ di sản văn hóaffl. c. Nhóm công trình về mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và vai trò của cộng đồng Về mối quan hệ giữa nhà nước và cộng đòng, tác giả Bùi Hoài Sơn cũng cho rằng, công tác chỉ đạo, định hướng của nhà nước không đơn thuần là công tác hành chính mà trên thực tế "Sự quan tâm của nhà nước đối với việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản cũng giúp cho người dân có ý thức hơn về di sản của chính mình"®. Nguyễn Hữu Thức cho rằng, chính quyền sở tại là cơ quan quản lý, hướng dẫn tổ chức lễ hội, đồng thời cũng là thành phần giám sát và hỗ trợ người dân tổ chức thực hiện các loại hình di sản, trong đó tiêu biếu là lễ hội truyền thốngí3). w - Bùi Quang Thanh, Phạm Nam Thanh, Xu hướng biến đổi luật tục và những bất cập ừong việc bảo tồn, phát huy giá trị của luật tục trong đời sống đương đại miền núi Quảng Nam, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 1,2008, Tr. 25-35. - Lương Hồng Quang (chủ biên), Câu chuyện làng Giang: Các khuynh hướng, giá trị và khuôn mẫu ữong một xã hội đang chuyển đổi, Nxb. Đại học Quổc gia Hà Nội, 2011. - Nguyễn Văn Huy, vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị của lễ hội truyền thống: thào luận vê một số khái niệm cơ bản, Sđd, Tr. 44 - 54. P) Bùi Hoài Sơn, Di sản đ ể làm gì và m ột số cởu chuyện quản lý di sản ờ Việt Nam, Tạp chí Di sản Văn hóa, Số 3,2013. (3) Nguyễn Hữu Thức, Một số vấn đề đặt ra trong quản lý và tồ chức lễ hội hiện nay, Sđd. 18
  20. T rong xu th ể hiện nay và trong các diễn ngôn về di sản văn hóa, vai trò của cộng đồng đang được sự quan tâm từ phía quản lý nhà nước, đề cao và khuyến khích sự tham gia tích cực của họ, cũng như tôn trọng tiếng nói và ý kiến của họ. Tuy nhiên, vai trò thực hiện, tham gia tích cực của cộng đồng cần được chỉ ra rõ ràng và đ ư ợc thể chế hóa trong các văn bản pháp luật và trong việc th ự c hiện các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật th ể trong thực tiễn. Khi áp dụng các điều khoản của Công ư ớc 2 0 0 3 về vai trò của cộng đồng vào các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật th ể thì ử V iệt Nam, đối với m ột số loại hình di sản, sự tham gia của họ còn m ờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh của các nhà quản lý, của sự chỉ đạo, công tác điều hành của các cấp chính quyền, các cơ quan nhà n ư ớ c liên quan từ trên xuống, còn cộng đồng là những ngư ời thự c hiện nhiệm vụ, phân công của nhà nước. Trong những trư ờ n g họp này, tiến g nói và vai trò chủ động của cộng đồng ít có trọng lượng, cộng đồng chưa được làm chủ di sản của m ìnht1). Đối với m ột số di sản văn hóa, sự can thiệp của nhà nư ớc quá sâu, dẫn đến tình trạng "làm hộ dân”, làm giảm sự chủ động của cộng đồngC2). Điều này th ể hiện ở m ột nhận xét khá tinh tế của tá c giả Nguyễn Văn Huy. Tác giả cho rằng, "Về lý thuyết, vai trò cộng đồng nay đã được công nhận, nhung trên th ự c tế thì việc (1) - Bùi Hoài Sơn, Di sản đ ể làm gì và một số câu chuyện quản lý di sán ở Việt Nam, Sđd. - Nguyễn Văn Huy, văn đè bào vệ và phát huy giá trị của lễ hội truyền thống: tháo luận vẽ một số khái niệm cơ bán, Sđd, Tr. 44 - 54. (2) - Lê Thị Minh Lý, Cộng đồng bảo vệ di sản - Kinh nghiệm thực hành tốt từ Dự án Nhã nhạc, Sđd, Tr. 38-41. - Nguyễn Văn Huy, vân đễ bảo vệ và phát huy giá trị của lễ hội truyền thống: thảo luận về một số khái niệm cơ bản, Sđd, Tr. 44 - 54. 19
nguon tai.lieu . vn