Xem mẫu
- I. Những vấn đề chung về bảo hiểm kinh doanh
( bảo hiểm rủi ro)
1. Khái niệm
Bảo hiểm kinh doanh ( BHKD) là hình thức bảo hiểm do các tổ chức
kinh doanh bảo hiểm tiến hành trên cơ sở huy động sự đóng góp của các tổ
chức, cá nhân tham gia bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm và phân
phối sử dụng chúng để bồi thường cho tổn thất có thể xảy ra đối với đối
tượng bảo hiểm
2. Đặc điểm của bảo hiểm kinh doanh
Hoạt động của bảo hiểm kinh doanh là hướng tới mục tiêu lợi
nhuận
Bảo hiểm kinh doanh vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang
tính chất không bồi hoàn.
Tính chất bồi hoàn của bảo hiểm kinh doanh không xác định
trước được không gian và thời gian mà chỉ có thể xác định được
khi rủi ro thực tế đã xảy ra
Mức độ bồi hoàn của bảo hiểm kinh doanh thường lớn hơn rất
nhiều so với mức phí bảo hiểm.
3. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm kinh doanh
Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm kinh doanh trước hết là
bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm
Nguyên tắc lấy số đông bù số ít
Nguyên tắc sàng lọc rủi ro
Nguyên tắc định phí bảo hiểm dựa trên cơ sở gía của các rủi ro
4. Các yếu tố cơ bản của hợp đồng bảo hiểm rủi ro.
- Người bảo hiểm: là chủ thể hay pháp nhân đứng ra chỉ đạo
việc tạo lập và điều khiển quá trình sử dụng quỹ bảo hiểm được pháp
luật công nhận. Ví dụ các công ty Bảo Việt, Bảo Minh, …
- Người tham gia bảo hiểm: là những chủ thể hay pháp nhân
tham gia đóng bảo hiểm phí dưới hình thức bắt buộc hay tự nguyện và khi
xảy ra những sự cố hay tai nạn bảo hiểm đã kí kết thì họ sẽ được quyền
nhận tiền bồi thường tổn thất
- Người được bảo hiểm: là người vì tính mạng, sức khoẻ của
người đó khiến người tham gia bảo hiểm đi đến ký kết hợp đồng bảo hiểm
với người bảo hiểm.
- Người được chỉ định hưởng bồi thường bảo hiểm: là người
được tham gia bảo hiểm chỉ định bằng văn bản với người bảo hiểm là
- người đó sẽ được nhận bồi thường bảo hiểm khi có sự cố bảo hiểm xảy
ra hoặc khi người được bảo biểm bị chết.
- Đối tượng bảo hiểm: là những cái gì mà người tham gia bảo
hiểm yêu cầu bảo hiểm hoặc do pháp luật quy định bắt buộc phải bảo
hiểm, có thể là thân thể con người, tài sản, trách nhiệm dân sự,…
- Rủi ro bảo hiểm: là mức độ hay khả năng xảy ra sự cố bảo
hiểm, là một hoặc nhiều sự cố dự tính trong các điều kiện bảo hiểm mà
khi những sự cố này xảy ra thì người bảo hiểm bắt buộc phải tiến hành trả
tiền bồi thường toonnr thất cho người tham gia bảo hiểm.
- Tai nạn bảo hiểm: là sự cố bảo hiểm xảy ra kéo theo trách
nhiệm của người bảo hiểm phải bồi thường toonr thất cho người tham gia
bảo hiểm
- Giá trị bảo hiểm: là giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời
điểm ký hợp đồng bảo hiểm.
- Số tiền bảo hiểm: là số tiền tính cho từng loại tài sản được
bảo hiểm mà trong giới hạn đó người bảo hiểm phải tiến hành trả tiền bồi
thường tổn thất khi tai nạn bảo hiểm xảy ra đối với bảo hiểm tài sản,
hoặc số tiền phải trả cho đời sống và sức khoẻ đối với bảo hiểm thân thể.
- Phí bảo hiểm: là số tiền mà người tham gia bảo hiểm phải
đóng góp cho người bảo hiểm về các đối tượng bảo hiểm.
5. Phân loại bảo hiểm kinh doanh
* Phân loại bảo hiểm kinh donh căn cứ vào đối tượng bảo
hiểm:
- Bảo hiểm tài sản: là loại hình bảo hiểm có đối tượng bảo
hiểm là giá trị tài sản.
- Bảo hiểm con người: là hình thức bảo hiểm có đối tượng
bảo hiểm là khả năng lao động, sức khoẻ, tính mạng của con người. Ví dụ:
bảo hiểm nhân thọ.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: là hình thức bảo hiểm có đối
tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự.
* Phân loại căn cứ vào tính chất hoạt động của bảo hiểm
kinh doanh:
- Bảo hiểm bắt buộc: là hình thức bảo hiểm được pháp luật
Nhà nước quy định bắt buộc phải bảo hiểm. Ví dụ: bảo hiểm ôtô, xe máy
- Bảo hiểm tự nguyện: Dựa trên nguyên tắc thoả thuận :
người than gia bảo hiểm tự nguỵện ký kết hợp đồng với người bảo hiểm
theo những quy tắc và điều kiện của bảo hiểm đã được pháp luật quy định.
6. Vai trò của bảo hiểm kinh doanh
- - Bảo hiểm kinh doanh góp ổn định sản xuất kinh doanh và
đời sống xã hội trước những rủi ro bất ngờ.
- Bảo hiểm kinh doanh góp phần thiết lập 1 hệ thống an
toàn xã hội, hỗ trợ và thực hiện các biện pháp phòng ngừa và hạn chế tổn
thất.
- Bảo hiểm kinh doanh góp phần cung ứng vốn cho nền
kinh tế
II. Thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm
kinh doanh (BHKD) trước khi VN gia nhập WTO
1. Các dịch vụ kinh doanh bảo hiểm hiện nay
- Bảo hiểm nhân thọ: tính đến nay hoạt động tại thị trường
Việt Nam có khoảng 11 DN BH nhân thọ. Dịch vụ này đannng có
mức tăng trưởng nhanh, và các doanh nghiệp hiện nay đang nỗ lực
mở rộng kênh phân phối đồng thời cũng đầu tư nhằm cải thiện chất
lượng phục vụ
- Bảo hiểm phi nhân thọ : có khoảng 26 DN BH phi nhân thọ
với các nghiệp vụ bảo hiểm như: BH tài sản; BH rủi ro tài chính; BH
trách nhiệm sản phẩm của các tổ chức sản xuất, kinh doanh; BH
trách nhiệm dân sự của các chủ doanh nghiệp… BH cơ giới, BH kỹ
thuật, BH tàu thủy, BH con người, BH hag hóa vận chuyển, BH cháy
nổ và rủi ro đặc biệt, các BH khác ,…
-Môi giới bảo hiểm: dịch vụ môi giới hoạt động nhằm đưa
người tham gia bảo hiểm tìm đến các chủ thể cung cấp dịch vụ bảo
hiểm, đồng thời tư vấn cho họ về các nghiệp vụ cũng như giới thiệu
về các sản phẩm bảo hiểm. Doanh thu từ haotj động bảo hiểm có
được cả từ các chủ thể cung cấp dịch vụ bảo hiểm và người tham
gia bảo hiểm. Nói cách khác môi giới bảo hiểm giúp người mua tìm
đến người bán và ngược lại . Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 10 DN
môi giới BH.
Đến cuối năm 2006, đã có hơn 700 sản phẩm BH Phi nhân
thọ và hơn 100 sản phẩm BH Nhân thọ ở cả 3 lĩnh vực bảo hiểm con
người, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm.
Các sản phẩm BH ngày càng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế
xã hội và tuân thủ theo chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt, sản phẩm BH
đã đáp ứng được yêu cầu phát triển một số ngành nghề quan trọng
như dầu khí, hàng không, đóng tầu, xây dựng cầu đường, gián tiếp
- góp phần tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và khuyến khích
đầu tư trong nước. Các DNBH Nhân thọ đi đầu trong việc phát triển
kênh phân phối sản phẩm BH qua đại lý.
Các DNBH Phi nhân thọ đã bước đầu hình thành kênh phân
phối sản phẩm BH qua đại lý BH chuyên nghiệp và bán chuyên
nghiệp. Ngoài ra, các công ty môi giới BH đã góp phần khai thác BH
Phi nhân thọ với tỉ lệ gần 12% doanh thu BH gốc, chủ yếu là với các
đối tượng BH có giá trị lớn, đánh giá rủi ro phức tạp nhằm bảo vệ
quyền lợi người tham gia BH. Tính đến cuối năm 2006, toàn ngành
BH có 75.000 đại lý BH Nhân thọ chuyên nghiệp, 30.000 đại lý BH
Phi nhân thọ bán chuyên nghiệp, và 8 DN môi giới BH.
2. Các chủ thể cung cấp dịch vụ bảo hiểm kinh doanh
Doanh nghiệp nước ngoài: là những doanh nghiệp được
phép hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Tính đến năm 2007
Việt Nam có :
- 9 doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động trong
lĩnh vực phi nhân thọ với tổng tài sản 1.573 tỷ đồng
- 8 doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực
nhân thọ với tổng tài sản 24.426 tỷ đồng
Doanh nghiệp Việt Nam. Tính đến hết năm 2007 thì Việt
Nam có :
- 13 doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ với tổng tài sản 15.796 tỷ đồng
- 1 doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh bảo hiểm nhân
thọ với tổng tài sản 13.990 tỷ đồng
Top 5 doanh nghiệp bảo hiểm có doanh thu cao là: Bảo Việt -
3.305 tỷ đồng (lợi nhuận sau thuế là 485 tỷ đồng), PVI - 2.016 tỷ
đồng, Bảo Minh - 1.981 tỷ đồng, PJICO - 1.061 tỷ đồng và PTI đạt
429 tỷ đồng. Năm 2009, Bảo Việt đặt mục tiêu đạt doanh thu 9.192
tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 508 tỷ đồng.
- 3. Khách hàng
Khách hàng tham gia bảo hiểm có thể là các cá nhân ở nhiều độ
tuổi khác nhau( khách hàng càng lớn tuổi thì tỷ lệ đóng phí cho bảo
hiểm càng , tích lũy càng thấp và ngược lại ), tổ chức như các doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội,…
Khách hàng tham gia bảo hiểm có thể trực tiếp đến các đại lý
phân phối của các công ty bảo hiểm hoặc thông qua các công ty môi
giới để tìm hiểu về các dịch vụ bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm,
các điều khoản để di đến ký kết hợp đồng. Các công ty môi giới
không tham gia trực tiếp vào các hợp đồng.
Hiện nay số lượng khách hàng của các công ty bảo hiểm đang
tăng. Đặc biệt khi nền kinh tế đang dần phục hồi sau suy thoái do
nhu cầu muốn được bảo hiểm của các cá nhân và các tổ chức . Số
lượng hợp đồng khai thác mới trong 06 tháng 2009 đạt 284.792 hợp
đồng (sản phẩm chính) tăng 3.5% so với cùng kỳ năm ngoái trong đó
Prudential khai thác được 107.286 hợp đồng, Bảo Việt Nhân thọ là
75.608 hợp đồng, AIA là 25.455 hợp đồng.
4. Chất lượng, giá cả dịch vụ
Phương thức đóng phí và khoản phí đóng cực kì linh hoạt.
Với bảo hiểm nhân thọ, bạn chỉ cần đóng đủ số phí tối
thiểu quy định cho 2 năm đầu tiên của hợp đồng, những năm tiếp
theo bạn có thể đóng mức phí thấp nhất hoặc thậm chí có thể tạm
dừng đóng phí một thời gian nếu gặp khó khăn tài chính miễn là giá
trị tài khoản vẫn còn, bạn vẫn được bảo hiểm đầy đủ. Thông thường
đến năm thứ 5 của hợp đồng bạn không cần đóng phí mà hợp đồng
vẫn chạy cho đến khi đáo hạn, dĩ nhiên là bạn vẫn được bảo đảm tất
cả những quyền lợi bảo hiểm rồi. Hơn thế nữa bạn có thể đóng phí
bất cứ lúc nào miễn thấy thuận tiện, nhân viên của sẽ đến thu trực
tiếp để tiết kiệm thời gian cho bạn miễn là mức phí đóng không thấp
hơn 100 ngàn đồng.
Chủ động điều chỉnh số tiền bảo hiểm khi cần.
Cuộc sống luôn thay đổi vì thế nhu cầu tài chính của chúng ta luôn
thay đổi theo từng giai đoạn. Với bảo hiểm nhân thọ bạn có thể linh
hoạt thay đổi tăng hoặc giảm số tiền bảo hiểm vào bắt cứ lúc nào
miễn là thoả mãn điều kiện tài chính và sức khoẻ.
Quyền lợi rút tiền chi tiêu như một tài khoản ngân hàng.
Khi tham gia bảo hiểm nhân thọ bạn có thể hoàn toàn chủ động
- hoạch định quỹ tài chính cho bản thân và gia đình. Cụ thể là bạn có
thể rút tiền từ hợp đồng như một tài khoản ngân hàng để chi tiêu cho
những nhu cầu trong cuộc sống. Đặc biệt số tiền trong tài khoản
càng ngày càng lớn lên với lãi suất hấp dẫn cam kết không thấp hơn
4% (hiện nay cty áp dụng lãi suất không kỳ hạn là 10% so với lãi suất
cùng loa của các ngân hàng khoảng 5%).Ngoài ra sau năm thứ 2 bạn
có thể tạm ứng hoặc rút tiền từ hợp đồng để thực hiện những kế
hoạc tài chính khác nhau phục vụ nhu cầu cho cuộc sống.
Tính minh bạch cao
Vào ngày kỉ niệm hợp đồng hàng năm Cty sẽ gửi báo cáo tài chính
cho bạn qua đó, bạn có thể theo dõi chi tiết số tiền nộp vào, chi phí
mà công ty khấu trừ, số lãi tích luỹ được,số dư cuối kỳ...
Quyền lợi được bảo hiểm
- Khi người được bảo hiểm tử vong: Cty sẽ chi trả quyền lợi bảo
hiểm bằng số tiền bảo hiểm mà mình chọn tham gia hoặc giá trị tài
khoản tuỳ theo số tiền nào lớn hơn.
- Khi người được bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn: trong giai
đoạn từ 18-65 tuổi ko may bị thương tật toàn bộ và vĩnh viễn, Cty sẽ
chi trả bằng quyền lợi tương đương với quyền lợi khi bị tử vong chia
làm 10 lần trong 10 năm liên tục sau đó.
- Khi người được bảo hiểm bị tử vong do tai nạn: ngoài số iền bảo
hiểm đc chi trả vừa nói trên, gđình còn bồi thuờng thêm mệnh giá tử
vong do tai nạn nữa để gđình có thể xoay sở trong tình huống bất ngờ
như vậy.
- Quyền lợi hỗ trợ viện phí: khi trường hợp bệnh tật tai nạ phải nằm
viện, sẽ hỗ trợ chi phí nằm viện cho khách hàng….
III.Đánh giá xu hướng phát triển của thị trường
BHKD khi VN gia nhập WTO
1. Thách thức của thị trường BHKD VN khi gia nhập
WTO & nội dung quy định của WTO về bảo kinh doanh
• Thách thức của thị trường BHKD VN khi gia nhập
WTO
a. Số lượng các DNBH được cấp phép hoạt động ngày
một gia tăng
- Các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước nếu đủ điều kiện thao
luật định đều có quyền xin phép thành lập DNBH, trong đó có các
DNBH nước ngoài theo đúng cam kết WTO. Điều này gần như đương
nhiên vì tiềm năng và cơ hội phát triển của thị trường BH nhân thọ và
phi nhân thọ còn đầy hứa hẹn, tốc độ tăng trưởng của ngành BH tương
đối hấp dẫn, BH còn được dùng dự phòng nghiệp vụ BH vào đầu tư
tài chính có khả năng sinh lời cao.
Tuy nhiên, việc có nhiều DNBH ra đời làm cho sự cạnh tranh vốn đã
gay gắt này càng gay gắt hơn.Vấn đề “chảy máu chất xám” từ doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam sang doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài
có thu nhập cao hơn cũng là điều đáng quan tâm. Với khả năng tài
chính rất mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ tìm mọi
cách trong đó có tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mại, khuếch trương
sản phẩm, hạ phí bảo hiểm để gây uy tín và chiếm lĩnh thị trường
b. DNBH hoạt động ở nước ngoài được cung cấp một số sản phẩm
BH qua biên giới (vào VN)
Đây là điều đáng lo ngại trong cuộc cạnh tranh không cân sức đối với
các DNBH đang hoạt động tại VN (DNVN, liên doanh, 100% vốn nước
ngoài).
Trước hết, họ không thể biết được thông tin về đối thủ cạnh tranh của
họ (DNBH đang hoạt động ở nước ngoài) cụ thể là ai đang bán sản phẩm
BH vào VN.
Thứ hai, vũ khí của đối thủ đang sử dụng là loại gì không được biết rõ:
đơn BH, điều khoản BH, điều kiện BH, phí BH như thế nào?
Thứ ba, DNBH đang hoạt động tại VN phải đóng thuế cho ngân sách
nhà nước như thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế môn bài, thuế
sử dụng đất… để hoạt động kinh doanh có doanh thu từ VN, trong khi đó
đối thủ không bị đóng góp các khoản thuế trên.
Trong một cuộc chiến, “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”. DNBH
đang hoạt động ở nước ngoài biết rất rõ DNBH đang hoạt động tại VN,
song DNBH đang hoạt động tại VN lại không biết gì về DNBH đang hoạt
động tại nước ngoài đang ngấm ngầm cùng chia chiếc bánh thị trường
BHVN.
- c. Kênh phân phối sản phẩm BH đã bộc lộ nhiều yếu kém
BH nhân thọ sau một thời gian tăng trưởng nhanh đi cùng với tăng
trưởng mở rộng kênh phân phối qua đại lý, có nghĩa là cứ tăng đại lý là có
tăng doanh thu nên nhiều DN chưa chú trọng đến chất lượng tuyển chọn
đào tạo và sử dụng đại lý.
Công nghệ của các DNBH chưa mang lại hiệu quả cao, chưa cập nhật
từng hợp đồng phát sinh, chưa phân loại khách hàng, rủi ro, chưa phân tích
được những nguyên nhân và mức độ rủi ro…sản phẩm còn đơn giản, chất
lượng dịch vụ sau bán còn nhiều bất cập , thị trường bảo hiểm Việt Nam
được xem như một cái bánh lớn mà các doanh nghiệp trong nước mới khai
thác được một phần do hoạt động còn kém hiệu quả, năng lực tài chính
cũng như nguồn nhân sự chưa đạt chất lượng cao đã làm mất thị phần về
tay các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài ví dụ như 85% thị phần bảo
hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu đang rơi vào tay các công ty nước ngoài, các
doah nghiệp trong nước chia phần còn lại .
Tuy trong những năm gần đây một số DNBH đã nhận thức ra được vấn
đề đã quan tâm, đầu tư công sức hơn cho việc nâng cao chất lượng đại lý
BH. Nhưng BH phi nhân thọ vẫn giữ cung cách khai thác chủ yếu từ cán bộ
BH, cạnh tranh về phí BH, tăng hoa hồng, tăng hỗ trợ cho đại lý, chưa xây
dựng được đội ngũ đại lý BH phi nhân thọ mang tính chuyên nghiệp. Các
công ty môi giới cạnh tranh lẫn nhau, làm việc thiếu chuyên nghiệp, tự ý bổ
sung điều kiện, điều khoản BH, hạ phí BH gây bất lợi cho DNBH và thị
trường BH.
d. Đầu tư công nghệ thiếu đồng bộ, kém hiệu quả
Hệ thống công nghệ thông tin của các DNBH chưa cập nhật được từng
hợp đồng BH phát sinh, chưa phân loại được khách hàng, rủi ro BH, chưa
phân tích đánh giá được nguyên nhân, mức độ rủi ro tổn thất, còn nhiều lỗ
hổng để trục lợi BH. Chúng ta không thể chấp nhận được việc một xe ô tô
bị tai nạn đã mua BH biết được biển số xe nhưng các DNBH đùn đẩy cho
nhau và cho rằng mình không bán BH cho chiếc xe này. Điều này bộc lộ rõ
sự yếu kém của các DNBH trong hệ thống công nghệ thông tin.
e. Cạnh tranh gay gắt chủ yếu bằng con đường hạ phí BH, không chú
trọng nhiều đến dịch vụ chăm sóc khách hàng
- Phí BH trên thị trường BHVN hiện nay được hình thành chủ yếu qua
con đường cạnh tranh hạ phí phi kĩ thuật mà không quan tâm đến đối tượng
BH như thế nào, mức độ rủi ro ra sao. Phí BH một khách sạn 5 sao chỉ
tương đương với phí BH một chiếc xe ô tô trị giá 1 tỉ đồng là một điều phi
lý mà trên thị trường vẫn có DNBH chấp nhận để giành bằng được dịch vụ
BH. Một trong những nguyên nhân có nguồn gốc sâu xa là chế độ khoán
tiền lương và chi phí theo doanh thu không chú trọng đến bồi thường có thể
xảy ra (lời cam kết của DNBH đến khách hàng). Tình trạng này dẫn đến
không những các DNBH cạnh tranh lẫn nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa
các chi nhánh trong cùng một DNBH. Chính vì vậy, việc quan tâm chăm sóc
khách hàng cung cấp dịch vụ gia tăng bổ sung cho khách hàng cũng bị hạn
chế.
f. Việc giải quyết bồi thường còn nhiều vướng mắc
Trước hết, tính công khai minh bạch về hồ sơ, thủ tục giải quyết bồi
thường chưa được thực hiện.
Thứ hai, việc đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục bồi thường giảm phiền phức
cho khách hàng chưa được cải thiện rõ rệt.
Thứ ba, còn nhiều vướng mắc trong việc thu thập hồ sơ chứng từ để
giải quyết bồi thường cho nạn nhân khi những hồ sơ chứng từ này buộc
phải lấy từ cơ quan có thẩm quyền như công an, bệnh viện.
Thứ tư, việc tự quyết, tự chịu trách nhiệm của DNBH trong việc giám
định bồi thường tổn thất chưa được phát huy và hay bị hình sự hóa.
Thứ năm, các DN hoạt động trong lĩnh vực tư vấn giám định và giải
quyết bồi thường (trung gian giữa DNBH và khách hàng) chưa hoạt động có
hiệu quả và phán quyết của họ nhiều khi không được pháp luật công nhận.
Cuối cùng là chưa có biện pháp xử phạt thích đáng DNBH trong việc
chậm trễ bồi thường cũng như xử phạt thích đáng các hành vi trục lợi BH.
g. Sức ép từ người tiêu dùng
Sức ép từ người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm cũng mang lại cho thị
trường bảo hiểm Việt Nam những thách thức mới : khách hàng ngày càng
đòi hỏi cao hơn về chất lượng dịch vụ , khách hàng đã đưa ra yêu cầu cao
hơn và khắt khe hơn để lựa chọn cho mình một công ty bảo hiểm như là
- yêu cầu về việc mở rộng phạm vi bảo hiểm, đơn giản hóa thủ tục, giảm
phí bảo hiểm…mà đây là lại là nhược điểm của các doanh nghiệp bảo
hiểm Việt Nam
h. Không còn chế độ bảo hộ của Nhà nước
Sau khi hội nhập các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không còn nhận được
sự bảo hộ của Nhà nước. Trong kinh doanh bảo hiểm, cũng sẽ không
có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Một số doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước
sẽ tiến hành cổ phần hóa, trong đó sức ép chia lãi cho cổ đông không phải
là nhỏ nếu kinh doanh bảo hiểm và đầu tư không có hiệu qủa.
• Cam kêt khi ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO
a. Về cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới
Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ được phép cung cấp các dịch vụ bảo
hiểm như bảo hiểm vận tải quốc tế, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm,
dịch vụ đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo hiểm và đặc
biệt là được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân
tại Việt Nam.
Trong thời gian đầu, các cam kết này có thể sẽ ảnh hưởng mạnh tới một
số loại hình bảo hiểm phi nhân thọ và giới hạn trong nhóm đối tượng
người nước ngoài và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thời gian trung hạn thì với sự lớn mạnh của các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong nước (xét về mặt uy tín và năng lực tài
chính) thì các cam kết này không có ảnh hưởng nhiều, một phần do tâm lý
khách hàng thường có thiên hướng lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có trụ
sở tại Việt Nam, là những doanh nghiệp nắm thông tin về rủi ro tốt nhất do
đó có khả năng bảo hiểm tốt nhất, mặt khác các doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài thông thường cũng muốn thành lập pháp nhân để cung cấp dịch
vụ tốt hơn.
b. Về các cam kết hiện diện thương mại
- Có thể nói, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh
doanh dịch vụ bảo hiểm là những cam kết mang tính chất tự do hoá thị
trường bảo hiểm và có ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp bảo
hiểm hiện đã hoạt động trên thị trường cũng như tới tình hình chung của thị
trường.
Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước
ngoài tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam sẽ tăng
thêm năng lực khai thác bảo hiểm của thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm
trên phạm vi quốc tế sẽ giúp chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và
đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm tại Việt Nam.
Với năng lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm mới tham gia
thị trường này cũng sẽ cho ra đời các sản phẩm bảo hiểm mới, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng. Trong điều kiện cung cấp dịch vụ tốt hơn,
khách hàng sẽ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất. Đặc biệt, chi phí bảo
hiểm là một cấu phần ngày càng quan trọng trong chi phí sản xuất và kinh
doanh của các đơn vị kinh tế khi nền kinh tế ngày càng phát triển, vì vậy
giảm giá thành đầu vào đối với chi phí bảo hiểm sẽ giúp giảm một cách
tương đối giá thành sản xuất sản phẩm và dịch vụ đầu ra của các doanh
nghiệp Việt Nam và là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt
Nam nói chung trong điều kiện toàn cầu hoá ngày càng được đẩy mạnh.
Có thể nói, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham
gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng
thể cho thị trường.
Tuy nhiên, điều kiện thị trường bảo hiểm với sự có mặt của nhiều
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cũng sẽ đặt ra một số vấn đề như cạnh
tranh không lành mạnh, hệ thống pháp lý chưa đủ mạnh để kiểm soát hoạt
động đa dạng của các doanh nghiệp này, song các vấn đề này có thể được
kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù hợp trong công tác quản lý Nhà
nước đối với hoạt động của thị trường.
c. Cam kết liên quan đến kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt
buộc
Hiện nay, bảo hiểm bắt buộc theo luật định gồm: bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận
chuyển hàng không đối với hành khách; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
- đối với hoạt động tư vấn pháp luật; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; Bảo hiểm cháy, nổ; và các loại bảo
hiểm khác được quy định theo điều kiện phát triển của nền kinh tế.
Trong những năm gần đây, tỷ trọng phí bảo hiểm thu từ bảo hiểm bắt
buộc khá lớn trong tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy nhiên, tỷ trọng
phí bảo hiểm từ loại hình bảo hiểm bắt buộc này sẽ giảm tương đối qua
thời gian khi các nhu cầu bảo hiểm tiềm năng trên thị trường được khai
thác tốt hơn do các doanh nghiệp ngày càng trưởng thành về năng lực vốn
cũng như về trình độ chuyên môn. Do đó, việc cho phép các doanh nghiệp
bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài cung cấp các dịch vụ này sẽ không
ảnh hưởng nhiều đến thị trường bảo hiểm mà chỉ ảnh hưởng đến thị phần
của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường và chỉ trong lĩnh
vực phi nhân thọ.
d. Cam kết xoả bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc sau 1 năm
Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm ra
nước ngoài đều phải thực hiện tái bảo hiểm bắt buộc tối thiểu 20% với
Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE).
Vì vậy thực hiện cam kết xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc này sẽ có tác
động kép, trước tiên là ảnh hưởng tới hoạt động của VINARE, đồng thời
ảnh hưởng đến tổng mức phí giữ lại của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường, cam kết này
nếu được áp dụng chung sẽ tạo điều kiện cho họ linh hoạt hơn trong công
tác tái bảo hiểm và tạo điều kiện tái bảo hiểm có lợi hơn xét về mặt kinh
tế.
Cam kết về dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam trong đàm phán WTO
Ngành/Phân Hạn chế tiếp cận thị trường Hạn chế
ngành đối xử
quốc gia
A. Bảo hiểm và (1) Không hạn chế đối với: (1) Không
các dịch vụ liên hạn chế
quan đến bảo - Dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho các doanh nghiệp
hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm
việc tại Việt Nam;
- a. Dịch vụ bảo - Dịch vụ tái bảo hiểm;
hiểm nhân thọ, trừ
dịch vụ bảo hiểm - Dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế; (2) Không
y tế hạn chế
- Dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo
b. Dịch vụ bảo hiểm; (3) Không
hiểm phi nhân thọ hạn chế
- Dịch vụ tư vấn , giải quyết khiếu nại, đánh
c. Dịch vụ tái bảo giá rủi ro.
hiểm và nhượng
tái bảo hiểm (2) Không hạn chế
d. Dịch vụ hỗ trợ (3) Sau khi gia nhập, các nhà cung cấp dịch vụ nước
bảo hiểm (trừ dịch ngoài được thành lập doanh nghiệp bảo hiểm liên
vụ đại lý bảo doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần vốn góp
hiểm) của nước ngoài không quá 50% vốn pháp định của
liên doanh.
1 năm sau khi gia nhập, được phép thành lập doanh
nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài
không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt
buộc, bao gồm bảo hiểm trách nhiệm dân sự của (4) Chưa
chủ xe cơ giới, bảo hiểm trong xây dựng và lắp đặt, cam kết trừ
bảo hiểm đối với các công trình dầu khí và các công các cam kết
trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và chung
môi trường. 2 năm sau khi gia nhập, hạn chế này sẽ
được bãi bỏ.
Trong trường hợp tái bảo hiểm cho các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài, doanh nghiệp bảo
hiểm có vốn đầu tư nước ngoài phải tái bảo hiểm
theo tỷ lệ 20% trách nhiệm của các hợp đồng bảo
hiểm đã giao kết cho Công ty tái bảo hiểm quốc gia
Việt Nam. 1 năm sau khi gia nhập, hạn chế này sẽ
được bãi bỏ.
(4) Chưa cam kết trừ các cam kết chung
2. Cơ hội đối với hoạt động BHKD ở thị trường VN sau
khi VN gia nhập WTO
- a. Nhu cầu bảo hiểm ngày càng cao
Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp , công nghiệp , xuất nhập
khẩu và đầu tư … sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm cũng như thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển. Những khu
đô thị mới , khu chế xuất , khu công nghiệp không ngừng hình thành và
phát triển là cơ hội cho sự bảo hiểm xây dựng, lắp đặt hàng không ,
vận tải …
Đời sống nhân dân được nâng cao , trình độ dân trí và nhận thức
của dân cư về bảo hiểm đang được cải thiện. Nền kinh tế tăng trưởng
cao có tác động tích cực tới việc nâng cao đời sống vật chất cũng như
tinh thần của người dân trong xã hội , thu nhập bình quân của người
dân việt nam những năm gần đây đạt mức trên 400 USD , đặc biệt năm
2008 con số này vượt ngưỡng 1.024 USD. Thu nhập của người dân
tương đối ổn định , mức sống dần được nâng cao … đã làm tăng thêm
nhu cầu vể bảo hiểm trong xã hội như con người, sức khỏe, khả năng
lao động.. thúc đẩy hoạt động bảo hiểm phát triển.
Thị trường bảo hiểm với hơn 87 triệu dân hứa hẹn nhiều tiềm
năng , lại trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa chắc chắn là
cơ hội lý tưởng cho các nhà kinh doanh bảo hiểm . Có thể nói thị
trưởng bảo hiểm việt nam đã cung cấp cho các nhà bảo hiểm một
lượng khách hàng tiềm năng dồi dào và đa dạng cả một lực lượng
đông đảo nhân lực cho ngành bảo hiểm.
b. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao,
Hàng hóa của VN sẽ có một thị trường rộng lớn hơn đó là các
thành viên WTO đồng thời hàng hóa nước họ sẽ được xâm nhập
vào thị trường VN làm cho kinh tế phát triển tạo tiền đề cho các
ngành nghề phát triển như giao thông vận tải đường bộ, hàng
không, xuất nhập khẩu làm tiền đề cho BH phát triển . Nền kinh
tế tăng trưởng cao đòi hỏi nhu cầu vốn và nhu cầu BH phải đáp
ứng, từ đó làm tiền đề cho BH nhân thọ, tín dụng ngân hàng,
chứng khoán phát triển. Vốn tích lũy tích tụ từ dự phòng nghiệp
vụ BH có nhiều cơ hội đầu tư sinh lãi cao, khuyến khích BH phát
triển.
- c. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước phát
triển nhanh chóng
Đây cũng là cơ sở để ngành BH phát triển, đồng thời cũng đòi
hỏi ngành BH phải có sản phẩm BH đáp ứng nhu cầu của tăng
trưởng đầu tư nước ngoài và trong nước, nhất là những cơ sở đầu
tư ngành nghề mới, công nghệ cao như đóng tàu, xây dựng đường
tàu điện ngầm, xây dựng ngành điện tử công nghệ thông tin, xây
dựng nhà máy lọc dầu, điện nguyên tử, vệ tinh, sản xuất linh kiện
máy bay… Đây là tiềm năng cho BH xây dựng lắp đặt, BH tài sản,
BH kĩ thuật, BH trách nhiệm phát triển.
d. Lộ trình cổ phần hóa chuẩn bị hoàn thành
Chế độ sở hữu tư nhân buộc người điều hành DN (có thể là
người làm thuê) muốn bảo toàn vốn và tài sản trước mọi rủi ro
cần phải có BH làm tăng nhu cầu BH để ngành BH phát triển. Khi
các chủ DN coi trọng BH là lá chắn trước mọi rủi ro, tai nạn bất
ngờ, khi người mua BH (nhân viên của DNBH) không có cơ hội
đòi hỏi hoa hồng hoặc lựa chọn hoa hồng cao hay thấp thì thị
trường BH sẽ có nhiều cơ hội phát triển lành mạnh
e. Pháp luật ngày càng hoàn thiện và mang tính tương
thích với nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
người tiêu dùng của DN ngày một tốt hơn làm phát sinh theo
nhu cầu BH như:
BH trách nhiệm nghề nghiệp bác sĩ, luật sư, tư vấn thiết kế…;
BH tài sản; BH rủi ro tài chính; BH trách nhiệm sản phẩm của các
tổ chức sản xuất, kinh doanh; BH trách nhiệm dân sự của các chủ
doanh nghiệp… Luật KDBH sẽ được sửa đổi, bổ sung, tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của DNBH, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người
tham gia BH là môi trường thuận lợi để thị trường BH phát triển.
f. Tầng lớp dân cư có thu nhập cao ngày càng đông đảo,
Bao gồm giới chủ DN tư nhân, các chuyên gia giỏi trong
DNVN và DN có vốn đầu tư nước ngoài, các chủ hộ kinh doanh,
các chủ trang trại đều có nhu cầu BH Nhân thọ cho mình và người
thân.
- 3. Một số giải pháp cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
* Liên kết, hợp nhất giữa các nhà bảo hiểm với nhau:
Theo chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt nam từ năm 2003
đến năm 2010, việc phát triển và sắp
xếp các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ hướng đến mục tiêu phát triển các loại
hình doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm gốc, tái bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ theo
hướng đa dạng hình thức sở hữu
bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài và tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Trong đó:
- Các doanh nghiệp nhà nước không được dùng vốn nhà nước để thành lập
doanh nghiệp bảo hiểm mới hoặc công ty cổ phần bảo hiểm mang tính
chuyên ngành, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước hiện nay để nâng cao
năng lực tài chính và năng lực hoạt động, giữ được thị phần lớn trên thị
trường trong nước và tham gia thị trường bảo hiểm quốc tế.
-Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) sẽ được xây dựng thành
một tập đoàn tài chính đa năng hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân
thọ, nhân thọ, đầu tư, chứng khoán; trong đó hoạt độngchủ yếu là kinh doanh
bảo hiểm và là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước duy nhất. Bảo Việt sẽ
tăng vốn điều lệ từ 586 tỷ đồng (hiện nay) lên mức 3.000 tỷ đồng (năm
2005) và 5.000 tỷ đồng (năm 2010).
- Các công ty bảo hiểm nhà nước khác như công ty bảo hiểm TP. Hồ Chí
Minh, công ty tái bảo hiểm Quốc gia (Vinare) và công ty bảo hiểm dầu khí
(PVI) sẽ tiến hành cổ phần hóa. Bảo Minh chuyển thành công ty bảo hiểm
cổ phần có vốn nhà nước chi phối, chuyên kinh doanh bảo hiểm phi nhân
thọvà thực hiện các hoạt động khác như đầu tư vốn, dịch vụ tài chính, trong
đó bảo hiểm là hoạt động
kinh doanh chủ yếu.
- Công ty bảo hiểm Dầu khí (PVI) 100% vốn nhà nước, trực thuộc Tổng
công ty Dầu khí Việt Nam hiện đang hoạt động đơn ngành, không có khả
năng cạnh tranh khi thị trường tiếp tục mở cửa, hội nhập với quốc tế. Hoạt
động của PVI ảnh hưởng đến việc giảm giá thành, hiệu quả kinh doanh của
ngành dầu khí; vì vậy, PVI sẽ chuyển thành cổ đông của Bảo Minh. phần
vốn nhà nước của PVI sẽ là cổ phần của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
trong Bảo Minh.
- Giống như Bảo Minh, công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam cũng
chuyển thành công ty cổ phần, do vốn nước chi phối, hoạt động chuyên lĩnh
vực tái bảo hiểm duy nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đến năm
2010, Vinare có đủ năng lực tài chính, năng lực kinh doanh để tham gia thị
- trường tái bảo hiểm quốc tế. Đến năm 2005, Vinare đủ sức giữ vai trò điều
tiết thị trường tái bảo hiểm Việt Nam, không để phụ thuộc vào thị trường tái
bảo hiểm quốc tế trong việc thu xếp các dịch vụ tái bảo hiểm lớn và phức
tạp như tái bảo hiểm hàng không, dầu khí, năng lượng … ngay cả khi thị
trường tái bảo hiểm quốc tế có sự biến động, thu hẹp năng lực nhận tái bảo
hiểm. Nhà nước không đầu tư vốn để thành lập thêm doanh nghiệp tái bảo
hiểm 100% vốn nhà nước
* Liên kết với các tập đoàn tài chính khác
Chẳng hạn như liên kết với ngân hàng, các tổ chức tín dụng có mạng lưới
khách hàng rộng khắp cũng sẽ là một hình thức đáng quan tâm. Các ngân
hàng và các nhà
bảo hiểm có rất nhiều lựa chọn trong việc quyết định cách thức hợp tác như
thế nào để hoạt động trên các thị trường tài chính.
- Lợi ích mang lại đối với các nhà bảo hiểm khi liên kết với ngân hàng
tương đối rõ ràng; đó là: mang lại khả năng tiếp cận với cơ sở khách hàng to
lớn của các ngân hàng, giảm sự phụ thuộc của họ vào vào các đại lý truyền
thống bằng cách tận dụng nhiều kênh phân phối của các ngân hàng, chia sẻ
các dịch vụ với các
ngân hàng, phát triển các sản phẩm tài chính mới hiệu quả hơn khi hợp tác
với các đối tác ngân hàng của mình, tạo thị trường một cách nhanh chóng mà
không cần xây dựng mạng lưới đại lý, nhận được thêm vốn từ các ngân hàng
để cải thiện khả năng thanh toán và mở rộng kinh doanh. Ngoài ra, việc liên
kết này còn mang lại lợi ích tích cực đối với khách hàng: nó mang lại hiệu
quả của việc giảm chi phí phân phối của các nhà bảo hiểm và việc giảm chi
phí này sẽ được chuyển lại cho khách hàng dưới hình thức phí bảo hiểm
thấp hơn hoặc bổ sungthêm các dịch vụ phụ trợ miễn phí, từ đó các sản
phẩm mới có thể sẽ được phát triển thích hợp hơn đáp ứngnhu cầu khách
hàng. Mặt khác, các sản phẩm dịch vụ kết hợp này có thể không có sẵn nếu
các ngân hàng và các nhà bảo hiểm hoạt động một cách độc lập. Ví dụ như
bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm thấu chi. Sự thuận tiện của việc các nhà bảo
hiểm liên kết với hệ thống ngân hàng mang lại cũng làm tăng thêm sự thoả
mãn của khách hàng; ví dụ như khách hàng có thể trả phí bảo hiểm cũng như
rút tiền và trả nợ vay bằng các hợp đồng bảo hiểm thông qua hệ thống ATM
của các ngân hàng.
* Các công ty bảo hiểm phải hoàn chỉnh bản thân mình
- Chính bản thân các công ty bảo hiểm phải hoàn chỉnh bản thân mình. Hơn
bao giờ hết, để cạnh tranh trong hội nhập, các công ty bảo hiểm Việt nam sẽ
- phải quan tâm tới việc cải thiện năng suất và hiệu quả làm tốt công tác
chuyên môn cũng như quảng bá mạnh mẽ thương hiệu của họ ra công chúng.
- Doanh nghiệp bảo hiểm phải không ngừng nỗ lực để trở thành khác biệt
so với các đối thủ cạnh tranh bằngcách cung cấp dịch vụ nổi trội, tập trung
vào một thị trường hẹp hoặc kinh doanh có hiệu quả hơn các đối thủ. Việc
này đòi hỏi doanh nghiệp phải có văn hoá, có sự đề cao tính chủ động và cải
tiến liên tục … nhiều
hơn nữa.
* Tập trung việc quản lý và phát triển nguồn nhân lực
- Hiện nay việc quản lý, phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam còn chưa được quan tâm đầy đủ. Đa phần nhân viên và
quản lý làm việc trong môi trường áp lực cao nhưng lại không được trang bị
đầy đủ các làm việc hoàn chỉnh cũng như các kỹ thuật căn bản để có thể giải
quyết vấn đề phát sinh một cách nhanh nhạy. Chủ yếu họ làm việc theo kinh
nghiệm bản thân, kinh nghiệm của những người đi trước và thực hiện một
cách khá máy móc
- Các doanh nghiệp đa phần chỉ dừng lại ở việc trả lương thưởng, thực
hiện các nghĩa vụ đối với người lao động do nhà nước qui định, dẫn đến
việc chảy máu chất xám sang các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có
bề dày kinh nghiệm về thu hút, quản lývà phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy
trong tiến trình hội nhập đang đến, các doanh nghiệp bảo hiểm phải nhận
thức được tầm quan trọng của việc quản lý và phát triển nguồn nhân lực.
Tập trung nguồn kinh phí, xâydựng các chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ
có đủ trình độ theo các chuẩn mực quốc tế.
* Sử dụng tối đa, có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các doanh
nghiệp bảo hiểm
Để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được, các doanh nghiệp
bảo hiểm cần:
• Xây dựng chiến lược đầu tư, danh mục đầu tư tài chính phù hợp trong mỗi
giai đoạn, từng loại tài sản đầu tư như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp,
đồng thời chuyển dịch đầu tư một cách linh hoạt giữa các tài sản đầu tư này
cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, với sựphát triển
kinh tế và sự phát triển của thị trường vốn trong mỗi giai đoạn.
• Nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư. Vì với sự phát triển mạnh mẽ
của các thị trường vốn, thị trường tài chính trong và ngoài nước cũng như sự
phát triển của các công cụ tài chính tài sản tài chính … thì việc có một đội
ngũ cán bộ chuyên nghiệp giỏi, am hiểu về thị trường tài chính và đầu tư tài
chính để thực hiện các hoạt động đầu tư là rất cần thiết, nó góp phần đảm
bảo thực hiện các hoạt động đầu tư an toàn, hiệu quả.
- • Hiện đại hóa công nghệ trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm trên cơ sở thực
hiện chiến lược đầu tư phát triển công nghệ của toàn hệ thống.
• Thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lý vốn đầu tư theo qui
định của pháp luật để tạo cầu nối giữa các nguồn vốn ngắn hạn và nhu cầu
vốn dài hạn trên thị trường. Xác định rõ nguồn vốn đầu tư, cơ cấu, lượng
tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp trên cơ sở đó có kếhoạch đầu tư
nhằm nâng cao năng lực đầu tư nguồn vốn này của các doanh nghiệp bảo
hiểm.
• Tập trung các hình thức đầu tư dài hạn, phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu
và tham gia thị trường chứng khoán, đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh và xây dựng phát triển cơ sởhạ tầng theo qui định của pháp luật, đảm
bảo cho công tác quản lý, hạch toán hay việc thực hiện chi trả, thực hiện
quyết định đầu tư …
• Kiện toàn hệ thống phục vụ khách hàng, huấn luyện nâng cao tính chuyên
nghiệp của hệ thống đại lý trên cơ sở người đại lý là cầu nối thực sự giữa
khách hàng và công ty, họ phải hành đồng vì lợi ích của cả bảo hiểm bên chứ
không phải của riêng mình. Các công ty bảo hiểm cũng phải tập trung đẩy
mạnh tuyên truyền và tư vấn cho người dân hiểu rõ hơn về lợi ích của bảo
hiểm là bảo vệ tài chính khi rủi ro xảy ra.
* Hoàn thiện cơ chế pháp lý
Ngoài các nỗ lực của các doanh nghiệp bảo hiểm thì về phía nhà nước, cần
tạo cơ chế, môi trường pháp lý phù hợp, cạnh tranh bình đẳng, đồng thời
tiến hành quản lý giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp
bảo hiểm hoạt động và phát triển ổn định, nâng cao năng lực tài chính, năng
lực kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm.
4. Những kết quả đã đạt được sau khi gia nhập WTO
Những thành tựu của năm 2007 chứng tỏ thị trường BHVN tiếp tục phát
triển trong năm đầu tiên gia nhập WTO
Năng lực tài chính:
Đơn vị: tỉ đồng
- Doanh nghiệp Vốn điềuVốn chủ sởTổng tài
lệ hữ u sản
Phi nhân thọ 7.376 8.680 17.369
13 DNVN 6.185 7.670 15.796
9 DN nước ngoài 1.191 1.016 1.573
Nhân thọ 5.940 5.624 39.417
1 DNVN 1.500 1.502 13.990
8 DN nước ngoài 4.440 4.122 24.426
Tái BH (1) 672 614 1.215
Môi giới BH (8) 424 – –
Tổng cộng so với14.030,4 14.918 58.001
2006
212,5% 146,1%
Doanh thu:
Đơn vị: tỉ đồng
Lĩnh vực 2006 2007 %
Phi nhân6.38 8.35 31%
thọ 1 9
12%
Nhân thọ 8.48 9.45
1 8
Dự phòng nghiệp vụ:
Đơn vị: tỉ đồng
nguon tai.lieu . vn