Xem mẫu
- Báo chí cách mạng là nguồn mạch
của văn hóa đương đại Việt Nam
"Trên thực tế trước và sau năm 1975, toàn bộ báo chí hiện nay ở
miền Nam đều “chui từ ống tay áo” của báo chí miền Bắc. Chắc
không ai giận khi tôi nói điều này cả. Nếu đi sâu vào nghiên cứu,
ngay cả những tờ báo hiện nay được coi là thành công như
Thanh Niên, Tuổi Trẻ thì những người làm báo ấy vẫn từ báo chí
cách mạng mà ra, chứ đâu phải “từ trên trời rơi xuống”..."
- Giáo sư Đỗ Quang Hưng, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu
tôn giáo (Viện KHXH Việt Nam).
Phóng viên (PV): Chiến tranh đã chấm dứt hơn ba mươi năm
qua, Cách mạng Việt Nam cũng đã chiến đấu ngót nghét một thế
kỷ và làm xong phận sự của mình. Nhưng thuật ngữ “báo chí
cách mạng” vẫn được sử dụng nhiều trong học thuật cũng như
trong dân chúng. Phải chăng vì tình cảm quá sâu nặng với một
thời kỳ tang thương nhưng quá đỗi hào hùng đã khiến người làm
báo lẫn người đọc không thể quên được dòng báo chí đó. Thưa
- giáo sư, ông có suy nghĩ gì về ý nghĩa sâu xa và lâu dài của khái
niệm ấy không?
GS Đỗ Quang Hưng (ĐQH): Nói cho cùng, báo chí cách mạng là
hoá thân của báo chí đương đại ngày hôm nay. Tuy vậy, tôi có
một suy ngẫm khá thú vị: Từ “cách mạng” được sử dụng như một
dòng báo thoát thai từ chế độ thuộc địa, hoạt động khó khăn, có
khi xuất hiện từ bên ngoài nước, nhen nhóm từ những tờ báo
đơn sơ đến mức không thể đơn sơ được nữa (in sáp, in litô…).
Nó có những giá trị không nhỏ trong cuộc Cách mạng của chúng
ta. Nói như những nhà cách mạng quốc tế, thì đứng về tuyên
truyền và cổ động tập thể, thì đúng là báo chí Việt Nam thuộc loại
điển hình. Hơn nữa, hiếm có người cách mạng nào lại thích làm
báo như người Việt Nam, kể cả trong tù. Các nhà cách mạng các
nước có điều kiện hơn ở ta thì họ viết sách.
- Ở đây nó có hai căn nguyên: Thứ nhất, thông tin ở Việt Nam quá
ư ngặt nghèo trong môi trường thuộc địa. Mặc dù người Pháp rất
muốn khai hoá văn minh cho người Việt nhưng họ vẫn thít chặt
thông tin với bên ngoài. Thứ hai, hiệu quả của việc làm báo rất
tốt, nhất là trong việc tuyên truyền cách mạng để truyền bá chủ
nghĩa Mác Lênin và quan điểm của Đảng.
Đấy là những điều mà ai cũng thấy khi nói về báo chí cách mạng.
Nhưng hiểu sâu xa, và trả lời cho đúng câu hỏi của bạn, thì tôi có
suy nghĩ rằng: Nếu tính đến trước năm 1945, khi nói đến báo chí
chỉ đơn thuần là chuyện của báo chí. Nhưng báo chí cách mạng,
theo nhận định của cá nhân tôi, tự nó đã tạo nên một giá trị văn
hoá cách mạng. Vì thực tế, trước năm 1945 như điều kiện ở
nước mình, cái vốn văn hoá mới chỉ có báo chí (là nổi nhất).
Ngoài ra là một số loại hình nghệ thuật khác thì đang thoi thóp
- như sân khấu, cải lương, tuồng, chèo.. Và, nếu có một bộ phận
nữa, không nhiều nhưng cũng quan trọng là lý thuyết về văn hoá.
Nhưng trở lại trong ba cái đó, bộ phận báo chí là di sản nổi bật
nhất. Chính vì thế, khi suy ngẫm về báo chí cách mạng của mình,
rõ ràng nó có một thực tế nguồn mạch đã nối chung với văn hoá
Việt Nam đương đại sau này. Nó là một sự chuyển biến ngoạn
mục, vì rất hiếm nước nào trải qua quá trình lịch sử như Việt
Nam.
Trên thực tế, trước và sau năm 1975, toàn bộ báo chí hiện nay ở
miền Nam đều “chui từ ống tay áo” của báo chí miền Bắc. Chắc
không ai giận khi tôi nói điều này cả. Nếu đi sâu vào nghiên cứu,
ngay cả những tờ báo hiện nay được coi là thành công như
Thanh Niên, Tuổi Trẻ thì những người làm báo ấy vẫn từ báo chí
cách mạng mà ra, chứ đâu phải “từ trên trời rơi xuống”.
- PV: Có câu “Văn Bắc, Báo Nam” với ý nghĩa báo chí ở Việt Nam
đầu tiên xuất hiện ở miền Nam, phục vụ cho chế độ thực dân.
Liệu dòng báo chí thực dân ấy có phải là cái gốc – dù sần sùi và
không hoàn chỉnh của phong cách làm báo ở miền Nam nói riêng
và Việt Nam nói chung sau này?
ĐQH: Nhận xét đấy có được trải nghiệm và có cái đúng nhất
định. Câu này người ta nhận xét từ trước năm 1945: báo miền
Nam, thơ miền Trung, văn miền Bắc. Đúng là chữ quốc ngữ và
báo chí sau mấy chục năm mới đi được từ Nam ra Bắc. Nhưng
ngược trở lại, cũng không nên tuyệt đối hoá nhận xét đấy. Báo
chí Hà Nội tuy có ra đời muộn hơn 40 năm so với Sài Gòn nhưng
nó cũng phát triển rất nhanh. Và chúng bổ sung cho nhau. Báo
Nam có cái mạnh về mặt thông tin, nhưng báo Bắc về xã hội, văn
hoá, văn học nghệ thuật. Nó vẫn rất xứng đáng là cái nôi của văn
- hoá dân tộc. PV: Báo chí Liên Bang Xô Viết năm 1942 có nhiều
trang ca ngợi về một người anh hùng trong trận tử chiến
Stalingrad. Đó là tay súng bắn tỉa nổi tiếng Vasily Grigoryevich
Zaytsev. Zaytsev có lẽ sẽ như những tay bắn tỉa cừ khôi khác
nếu không có sự tham gia của báo chí. Việc phát hiện ra Zaytsev
và biến anh thành một hình tượng người anh hùng trong cuộc
chiến đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến đấu của rất nhiều binh lính,
sĩ quan Hồng quân. Nhờ có anh, họ đã lấy lại được thứ họ mất đi
trong cuộc chiến: niềm tin chiến thắng. Hình tượng của Zaytsev
lan nhanh và lớn mạnh đến mức trở thành nỗi ám ảnh của quân
đội Đức. Trước tình hình đó, Sở chỉ huy Đức phái một xạ thủ nổi
tiếng nhất của Đức tới trận địa để đối phó với Zaytsev và cổ vũ
tinh thần lính Đức. Cuộc đối đầu giữa hai xạ thủ sau này không
- chỉ trở thành huyền thoại, mà còn là một đề tài rất ăn khách trong
điện ảnh và games.
Quay trở lại với báo chí cách mạng Việt Nam. Thưa giáo sư, có
người anh hùng nào được dựng lên như vậy trong thời chiến
không?
ĐQH: Đây là câu hỏi khá thú vị. Nêu gương “người tốt việc tốt” thì
đúng là báo chí đi đầu. Đây là những kinh nghiệm rất phổ biến
của báo chí xã hội chủ nghĩa trước đây. Nhưng có một điểm này
là khác nhau: Nếu nhìn kỹ trong lịch sử báo chí cách mạng, có lẽ
vì ở Việt Nam những sự kiện, nhân vật mà ta gọi là anh hùng khá
nhiều. Nó khiến cho báo chí lúng túng không biết lựa chọn người
nào để tuyệt đối hoá họ thành một khuôn mẫu lớn. Đã có thời
gian báo chí của chúng ta đăng chuyện này chuyện kia về những
anh hùng, như chị út Tịch, anh Nguyễn Văn Trỗi… Nhưng tất cả
- các cái đó không đủ sức để tạo nên một khuôn mẫu, một người
anh hùng đặc biệt quá như thế.
Cũng có lẽ do đặc điểm nhận thức và cảm thụ của người Việt
Nam thường muốn tìm thấy trên báo chí cuộc sống bình thường
của họ. Họ không đến mức chăm chăm đi tìm một nhân vật quá lý
tưởng. Họ không thích những “superman”, mà chỉ thích những
người anh hùng bình thường.
Kể cả những năm tháng gần đây, khi chúng ta đăng lại truyện của
bác sĩ Đặng Thùy Trâm qua ngôn ngữ của báo chí, thì bác sĩ
Trâm vẫn rất gần gũi với mọi người đọc. Có lẽ đó là đặc tính của
người Việt Nam.
PV: Vậy theo ông, đâu là đặc điểm độc nhất vô nhị của báo chí
cách mạng Việt Nam?
- ĐQH: Đúng là báo chí Việt Nam cũng như nhiều nước Châu á
trước đây thoát thai từ chế độ thuộc địa quả là ra đời muộn, như
Trung Quốc, Nhật Bản đến năm khoảng 1885 mới có tờ báo đầu
tiên. Nhưng qua nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam, tôi thấy có
một đặc điểm rất rõ: Báo chí tuy ra đời muộn, lại phải dùng chữ
quốc ngữ. Mà khi đó chữ quốc ngữ đang trên đường hình thành
và phổ biến, chứ không phải như những nước phương Tây là
báo chí phát triển trên cái nền ngôn ngữ đã ổn định.
Đặc biệt hơn nữa, chữ quốc ngữ đi vào đời sống và hoàn thiện
nó song song với sự hình thành của báo chí Việt Nam. Đây có lẽ
là đặc điểm độc nhất vô nhị mà tôi được biết.
PV: Điều gì khiến báo chí Việt Nam phát triển nhanh trong điều
kiện khó khăn về mọi mặt. Chưa kể đến điều kiện ngôn ngữ,
thậm chí còn chưa được thống nhất và phổ cập hóa?
- ĐQH: Quay trở lại, trong một điều kiện như thế, tại sao nó lại phát
triển nhanh đến vậy? Đã phát triển khó khăn, rồi lại khó khăn từ
vấn đề ngôn ngữ? Có thể giải thích được như thế này chăng:
Người Việt Nam khao khát muốn hiểu biết, muốn vươn lên, muốn
đạt đến tính hiện đại và họ cũng ý thức được rằng chỉ có báo chí
mới đem đến cho họ con đường nhanh nhất. Đúng như trong thời
kỳ cách mạng có nói: báo chí là một trong sáu đường canh tân
đất nước. Hay nói xa hơn, có hiện đại hoá thì mới “đánh Tây”
được.
Từ một ngành nghề, một kinh doanh, một hiện tượng tâm lý đã
trở thành một khao khát xã hội và được hiện thực hoá rất mạnh
và nhanh. Chính vì điều đó, tạm so sánh với tình hình báo chí của
một số nước Đông Nam á, thì có điều chắc chắn rằng, trước năm
1945 báo chí miền Nam (bao gồm cả báo chí cách mạng và báo
- chí tư nhân) thuộc loại phát triển nhanh nhất. PV: Hẳn khó có thể
phủ nhận được những “phế thải báo chí” mà thực dân Pháp để
lại?
ĐQH: Không hiểu có phải xuất phát từ thói quen và truyền thống
làm báo của người Pháp hay không vì dù sao mình từng là thuộc
địa của họ. Pháp là một trong những nước đi đầu trong ngành in
ấn thời đấy. Pháp cũng là một trong những cái nôi của báo chí và
nghệ thuật thế giới. Quân đội và Giáo hội Pháp nhập những máy
in tiên tiến nhất vào Sài Gòn từ năm 1862. Nó phát triển nhanh
mạnh như thế, cho nên đến khi cách mạng thành công, dù có
những điều kiện khác với những nước trong khu vực, nhưng có
thể nói báo chí Việt Nam “lột xác” rất nhanh.
Tất cả những yếu tố về văn hóa, xã hội, tâm lý, kỹ thuật được tích
tụ lại, đến đúng thời khắc của cánh cửa đổi mới là được bung ra.
- Báo chí của chúng ta chưa thể nói là hiện đại, tiên tiến nhất,
nhưng có lẽ nó có những hội nhập nhanh chóng hơn so với
những hoạt động khác.
PV: Giáo sư có nói báo chí Việt Nam trước năm 1945 thuộc loại
phát triển nhất trong khu vực Đông Nam á. ý của ông là những bộ
phận nào của báo chí? Báo chí cách mạng Việt Nam đang nhen
nhóm hay báo tư nhân của các chủ bút người Việt được xuất bản
công khai? Theo tôi, nếu tính đến cả hai bộ phân trên thì chưa
chính xác. Bởi chúng ta không thể có những máy in tiên tiến, trừ
khi nó được đầu tư bởi chính quyền thực dân Pháp?
ĐQH: Sao lại không? Hãy xem những con số sau: Vào năm 1938,
tức là trước chiến tranh thế giới lần thứ 2, trong cuốn sách “Lịch
sử báo chí Việt Nam 1865 -1945”, tôi đã tổng kết số liệu chính
thức của toàn quyền Đông Dương, ở Việt Nam đã có 400 đầu
- báo. Trong 400 đầu báo ấy, tất nhiên báo của chính quyền thực
dân thuộc địa chiếm vị trí quan trọng, nhưng số quan trọng hơn
chính là báo chí của các nhóm báo và báo tư nhân. Có đủ các
khuynh hướng, trong đó có cả những khuynh hướng khuynh – tả
yêu nước.
PV: Vậy là không có dòng báo chí cách mạng – khi ấy đang hoạt
động bí mật và chưa được công khai?
ĐQH: Ở đây tôi không nói đến báo chí cách mạng, mà nói đến
báo chí Việt Nam nói chung (công khai và hợp pháp) vào thời
điểm trước năm 1945. Nhưng nên nhớ rằng kể cả khi ấy báo chí
của ta nằm trong cái khung của nền thuộc địa Pháp, thì tỷ lệ
những tờ báo được coi là “tay sai” thực dân rất ít. Còn những tờ
báo trung lập chiếm đa số. Trung lập là vì người ta không thể có
- điều kiện chường mặt ra chống tây được thôi. Họ phải chọn cách
trung lập để qua đó tồn tại, tự dân tộc, văn hóa phát triển.
Thêm nữa, ban đầu tỷ lệ báo tiếng Pháp rất lớn và không thể phủ
nhận rằng báo chí thuộc địa Pháp đã để lại một di căn rất lớn, rất
phong phú, dày dặn mà cho đến tận ngày nay, ta chưa khai thác
được hết. Nhưng, theo đúng quy luật cung – cầu, báo tiếng Pháp
dần dần được thay thế bằng chữ quốc ngữ. Đến năm 1938, báo
quốc ngữ đã vượt lên, chiếm trên 2/3 trong tổng số 400 tờ báo tại
Việt Nam.
PV: Chúng ta đang nhìn theo chiều dọc về lịch sử báo chí. Nếu
quay nhanh hơn về thời gian gần đây, hình như xu hướng báo
chí ở Việt Nam cũng như nhiều nước châu á khác đang chạy
theo mốt (gu) của báo chí phương Tây, cụ thể là sự phát triển ồ
ạt của những tờ báo với hình ảnh bắt mắt, nội dung đa dạng và
- kiệm chữ. Theo giáo sư, phải chăng những bài báo có văn phong
tinh tế, tư duy sâu sắc, chặt chẽ và minh triết - từng là đặc trưng
nổi trội của báo chí Việt Nam giờ sắp là lỗi thời?
ĐQH: Trên thực tế, ngay ở những nước có truyền thống báo chí
có rất nhiều tờ báo thành đạt thuộc nhiều lực lượng xã hội, thậm
chí có cả những tờ chuyên biệt cho tôn giáo, như tờ Témoins
Chrétiens vượt xa phạm vi một tờ báo tôn giáo. Cho nên ở đây ta
thấy yếu tố đa nguyên chi phối. Không thể phủ nhận ở Tây âu và
Bắc Mỹ có truyền thống làm báo thành công có thể là thành công
về phương diện nội dung, tính hấp dẫn.
Mà một trong những bí quyết là người ta đã xây dựng được 1 hệ
thống báo chí vô cùng đa dạng. Có thể tờ báo ấy chỉ cần bán cho
vài trăm người cho đến tờ báo bán cho hàng chục triệu người
hay hơn nữa, nhưng nó vẫn song song tồn tại. Có nghĩa, ai cũng
- tìm được “khoái khẩu” của mình. Điều này thể hiện báo chí
phương Tây đang đi vào xu hướng cá thể hóa ngày càng cao.
Một điều hiển hiện nữa là sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Nhưng
nó cao trào hơn nữa là thành tựu lớn về Max – Media đã đưa
truyền thông lan rộng tới công chúng.
PV: Đó có phải là những khuôn mẫu thành công chung của báo
chí toàn cầu?
ĐQH: Đúng là những giải báo chí quốc tế có uy tín như giải
Pulitzer cũng nằm ở đấy hết. Chính vì thế xu hướng học tập
những kinh nghiệm của họ là tất yếu. Nó cũng là một trong những
chỉ số toàn cầu về văn hóa và báo chí.
Nhưng, không bao giờ lẽ đời chỉ có lôgíc một kiểu như thế. Thực
tế cuộc sống đa dạng và báo chí cũng khác nhau. Báo chí của
- Nhật Bản chắc chắn phải khác báo của Tây âu và Bắc Mỹ. Báo
chí của khu vực Đông Bắc á, rồi báo chí của Đông âu, Bắc âu,
Châu Phi, Nam Mỹ cũng rất khác nhau. Và họ đều có độc giả của
riêng mình.
Vấn đề là ta tìm thấy như thế nào, ta học được như thế nào ở
những nguồn lực khác nhau đó. Không nên tuyệt đối hóa nó. Nếu
như bây giờ ta hiện đại hóa báo chí mà tuyệt đối theo cách của
họ chưa chắc đã hẳn là hay.
nguon tai.lieu . vn