- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Báo cáo tổng kết đề tài tham gia xét thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học: Ứng phó với stress trong học tập của sinh viên
Xem mẫu
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG
“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2017 - 2018
ỨNG PHÓ VỚI STRESS TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
Thuộc lĩnh vực Tâm lý học
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG
“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2017 - 2018
ỨNG PHÓ VỚI STRESS TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
Thuộc lĩnh vực Tâm lý học
Sinh viên thực hiện nhất: Nguyễn Ngọc Quang Nam, Nữ: Nam
Dân tộc: Kinh
Lớp, khoa: QH-2015-X-TLLS, Tâm lý học Năm thứ: 3/Số năm đào tạo: 4
Ngành học: Tâm lý học
Sinh viên thực hiện thứ hai: Nguyễn Linh Chi Nam, Nữ: Nữ
Dân tộc: Kinh
Lớp, khoa: QH-2015-X-TLLS, Tâm lý học Năm thứ: 3/Số năm đào tạo: 4
Người hướng dẫn chính: PGS. TS. Nguyễn Văn Lượt
- TÓM TẮT CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Ứng phó với stress học tập ở sinh viên
Nguyễn Ngọc Quang*, Nguyễn Linh Chi
QH-2015-X, Khoa Tâm lý học, ĐHKHXHNV – ĐHQGHN
Tóm tắt: Cách ứng phó với stress học tập quyết định mức độ ảnh hưởng tiêu cực của
stress đối với sức khỏe thể chất, tinh thần và hiệu quả học tập của sinh viên. Tại Việt
Nam, chưa có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về chủ đề này. Nghiên cứu hiện tại được tiến
hành dựa trên Lý Thuyết Tương Tác Về Stress nhằm tìm hiểu nguồn gây stress học tập,
các chiến lược ứng phó, hệ quả ứng phó, và mối liên hệ giữa các chiến lược ứng phó với
những biến số về nhân khẩu, và động lực học tập của sinh viên. Mẫu nghiên cứu là mẫu
thuận tiện bao gồm 157 sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn với độ
tuổi trung bình là 20.52, độ lệch chuẩn là 1.29, và nữ chiếm 77.7%. Kết quả nghiên cứu
tìm ra 12 nguồn gây stress học tập chủ yếu. Kết quả và hiệu quả học tập, kiểm tra và
đánh giá, khối lượng và mức độ khó của bài tập là những nguồn gây stress học tập phổ
biến nhất. Giải quyết vấn đề, bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ tích cực, và chấp nhận là những
chiến lược ứng phó được sinh viên sử dụng thường xuyên nhất. Những sinh viên ứng
phó điều hòa cảm xúc, chấp nhận, suy nghĩ tích cực, và thay đổi nhận thức thì có mức
độ stress thấp hơn. Sinh viên ứng phó bằng chiến lược giải quyết vấn đề thì có kết quả
học tập cao hơn. Những sinh viên thường né tránh và mong ước thì có mức độ stress cao
hơn và kết quả học tập thấp hơn. Những sinh viên có động lực học tập tự chủ thường
ứng phó gắn kết trong khi những sinh viên thiếu động lực hoặc có động lực học tập bị
kiểm soát thì thường ứng phó tách khỏi.
Từ khóa: stress học tập; ứng phó; nguồn gây stress học tập; động lực học tập; lý thuyết
trao đổi về stress; lý thuyết tự quyết
*
ngocquang0329@gmail.com, +84 913 027 911
- MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN..................................................................................................... 7
1.1. Lý thuyết tương tác về stress ................................................................................................ 7
1.2. Nguồn gây stress trong học tập ............................................................................................ 8
1.2.1. Khái niệm nguồn gây stress trong học tập .................................................................... 8
1.2.2. Tổng quan nghiên cứu về nguồn gây stress trong học tập .......................................... 11
1.2.3. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu về nguồn gây stress trong học tập ......................... 15
1.3. Ứng phó với stress trong học tập ....................................................................................... 16
1.3.1. Khái niệm ứng phó với stress trong học tập ............................................................... 16
1.3.2. Đo lường ứng phó với stress trong học tập ................................................................. 18
1.3.3. Phân loại ứng phó với stress trong học tập ................................................................. 19
1.3.4. Tổng quan nghiên cứu về ứng phó với stress trong học tập ....................................... 21
1.3.5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu về ứng phó với stress trong học tập ...................... 25
1.4. Hệ quả của ứng phó với stress trong học tập ..................................................................... 25
1.4.1. Tổng quan nghiên cứu về hệ quả ứng phó với stress trong học tập ............................ 25
1.4.2. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu về hệ quả của ứng phó với stress trong học tập .... 28
1.5. Mối liên hệ giữa ứng phó với stress trong học tập và những biến số khác ........................ 28
1.5.1. Tổng quan nghiên cứu về mối liên hệ giữa ứng phó với stress trong học tập và những
biến số khác .......................................................................................................................... 28
i
- 1.5.2. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu về mối liên hệ giữa ứng phó với stress trong học tập
và những biến số khác........................................................................................................... 33
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP ..................................................................................................... 35
2.1. Mẫu nghiên cứu và cách tiến hành ..................................................................................... 35
2.2. Công cụ nghiên cứu............................................................................................................ 36
2.3. Phân tích dữ liệu ................................................................................................................. 39
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ............................................................... 40
3.1. Nguồn gây stress trong học tập ở sinh viên........................................................................ 40
3.2. Ứng phó với stress trong học tập ở sinh viên ..................................................................... 44
3.3. Hệ quả của ứng phó với stress trong học tập ..................................................................... 47
3.4. Mối liên hệ giữa ứng phó với stress trong học tập và các biến số khác ............................. 47
CHƯƠNG 4: THẢO LUẬN ......................................................................................................... 54
4.1. Nguồn gây stress trong học tập .......................................................................................... 54
4.2. Ứng phó với stress trong học tập ....................................................................................... 56
4.3. Hệ quả của ứng phó với stress trong học tập ..................................................................... 59
4.4. Mối liên hệ giữa ứng phó với stress trong học tập và các biến số khác ............................. 61
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 67
PHỤ LỤC A: Thống kê mô tả và kiểm định phân phối chuẩn các chiến lược ứng phó của
sinh viên nam và sinh viên nữ ................................................................................................... 82
ii
- PHỤ LỤC B: Thống kê mô tả và kiểm định phân phối chuẩn các chiến lược ứng phó của
các nhóm sinh viên chia theo năm học ..................................................................................... 83
PHỤ LỤC C: Thống kê mô tả và kiểm định phân phối chuẩn các chiến lược ứng phó của
các nhóm sinh viên chia theo khu vực...................................................................................... 85
PHỤ LỤC D: Thống kê mô tả và kiểm định phân phối chuẩn các chiến lược ứng phó của
các nhóm sinh viên chia theo nơi ở........................................................................................... 86
PHỤ LỤC E: Thống kê mô tả và kiểm định phân phối chuẩn các chiến lược ứng phó của
nhóm sinh viên có làm thêm và không làm thêm ................................................................... 88
PHỤ LỤC F: Thống kê mô tả và kiểm định phân phối chuẩn các chiến lược ứng phó của
nhóm sinh viên có tham gia không tham gia tình nguyện ..................................................... 89
PHỤ LỤC G: Bảng hỏi nghiên cứu ............................................................................................... 90
iii
- MỞ ĐẦU
Stress từ lâu đã là một khái niệm quen thuộc trong đời sống của con người, được sử
dụng để chỉ tình trạng căng thẳng tiêu cực về mặt tâm lý và sinh lý khi con người phải đối
mặt với những tình huống nguy hiểm hay những tình huống đòi hỏi phải nỗ lực để thích
ứng hoặc vượt qua. Theo báo cáo chuyên đề về sức khỏe tâm thần của thanh thiếu niên Việt
Nam, một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng stress ở thanh thiếu niên trong độ
tuổi từ 14 đến 25 là áp lực học tập (Nguyễn Hương Thanh, 2010). Nhiều nghiên cứu đã cho
thấy bên cạnh những vấn đề liên quan đến tài chính, sức khỏe của bản thân, sức khỏe của
các thành viên trong gia đình, rắc rối trong các mối quan hệ liên cá nhân, và điều kiện môi
trường sống không thuận lợi, các khó khăn trong học tập cũng là một nguồn gây stress chủ
yếu cho sinh viên (Đăng Đức Nhu, 2016; Nguyễn Hữu Thụ, 2009; O’Reilly, McNeill,
Mavor, & Anderson, 2014; Vũ Dũng, 2015). Những khó khăn trong học tập này có thể là
bài tập quá nhiều, kiểm tra và thi cử liên tục, dồn dập, hay điểm số không như mong muốn.
Stress gây ra bởi những tình huống này đôi khi có tác dụng tích cực, giúp sinh viên có thêm
động lực học tập và làm việc hiệu quả hơn. Tuy nhiên nếu kéo dài, tình trạng stress này có
thể để lại nhiều hệ quả tiêu cực đối với sinh viên.
Khi đối mặt với những vấn đề gây stress trong học tập, cách mà sinh viên ứng phó
đóng vai trò rất quan trọng bởi nó quyết định mức độ ảnh hưởng tiêu cực của nguồn gây
stress đối với sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và hiệu quả học tập của sinh viên. Nhiều
nghiên cứu đã cho thấy những cách ứng phó thiếu thích ứng với stress trong học tập của
sinh viên có mối liên hệ với nhiều vấn đề, chẳng hạn như kết quả học tập giảm sút (Struthers,
Perry, & Menec, 2000), trầm cảm (Aktekin và c.s., 2001; Bouteyre, Maurel, & Bernaud,
1
- 2007; Steinhardt & Dolbier, 2008), lo âu (Renk & Eskola, 2007), rối loạn ăn uống
(Wichianson, Bughi, Unger, Spruijt‐Metz, & Nguyen‐Rodriguez, 2009), hay sử dụng đồ
uống có cồn (Pritchard, Wilson, & Yamnitz, 2007). Ngược lại, với những chiến lược ứng
phó chủ động và tích cực, sinh viên có thể có mức độ stress thấp hơn (Coiro, Bettis, &
Compas, 2017), ít lo âu hơn (Renk & Eskola, 2007), có khả năng thích ứng với môi trường
cao hơn (Leong, Bonz, & Zachar, 1997), và sức khỏe thể chất tốt hơn (Park & Adler, 2003).
Những kết quả này đặt ra yêu cầu cho các nhà quản lý giáo dục, các nhà tâm lý học đường,
các nhà tham vấn và trị liệu phải tiến hành các nghiên cứu tìm hiểu về ứng phó với stress
trong học tập ở sinh viên, để từ đó xây dựng được các chương trình can thiệp nhằm giúp
sinh viên ứng phó hiệu quả hơn trước các tình huống hay vấn đề gây stress trong học tập.
Tuy nhiên, số lượng các nghiên cứu về chủ đề này tại Việt Nam vẫn còn hạn chế.
Những nghiên cứu trước đây chủ yếu mới dừng lại ở mục tiêu mô tả chứ chưa xác định mối
liên hệ giữa các chiến lược ứng phó với những biến số về tâm lý, sinh lý, hay xã hội (Nguyễn
Hữu Thụ & Nguyễn Bá Đạt, 2009; Nguyễn Phước Cát Tường & Đinh Thị Hồng Vân, 2012).
Bên cạnh đó, các nghiên cứu này cũng gặp phải một số hạn chế về nền tảng lý thuyết và
công cụ đo lường.
Nghiên cứu hiện tại được tiến hành dựa trên mô hình Lý Thuyết Tương Tác Về
Stress của Lazarus và Folkman (1984) nhằm tìm hiểu về ứng phó với stress trong học tập
ở sinh viên thông qua việc trả lời các câu hỏi cơ bản sau đây: (1) Những nguồn gây stress
trong học tập ở sinh viên là gì? (2) Sinh viên ứng phó như thế nào với những nguồn gây
stress trong học tập đó? (3) Ứng phó với stress trong học tập có mối liên hệ như thế nào với
2
- mức độ stress và kết quả học tập của sinh viên? (4) Ứng phó với stress trong học tập có mối
liên hệ như thế nào với các biến số khác?
Đối tượng của nghiên cứu bao gồm: (1) Các nguồn gây stress trong học tập ở sinh
viên; (2) Các chiến lược ứng phó với stress trong học tập của sinh viên; (3) Mối liên hệ
giữa các chiến lược ứng phó với stress trong học tập và mức độ stress, và kết quả học tập;
(4) Mối liên hệ giữa các chiến lược ứng phó với stress trong học tập và các biến số nhân
khẩu (bao gồm giới tính, năm học, khu vực, tình trạng kinh tế, nơi ở, việc làm thêm, việc
tham gia tình nguyện, tôn giáo) và động lực học tập của sinh viên.
Khách thể nghiên cứu là sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội. Mẫu nghiên cứu là mẫu thuận tiện với 157 sinh viên. Trong đó,
nam chiếm 22.3%, nữ chiếm 77.7% và độ tuổi trung bình của các khách thể là 20.52 với độ
lệch chuẩn là 1.29.
Nghiên cứu có mục đích tìm hiểu thực trạng ứng phó với các nguồn gây stress trong
học tập ở sinh viên và thông qua đó bước đầu áp dụng một mô hình lý thuyết cho việc
nghiên cứu stress nói chung và ứng phó với stress nói riêng ở Việt Nam, cũng như cung
cấp các thông tin ban đầu để làm cơ sở cho việc xây dựng các chương trình can thiệp nhằm
làm giảm tình trạng stress trong học tập, và tăng cường khả năng ứng phó ở sinh viên.
Nghiên cứu có các nhiệm vụ cụ thể đó là: (1) Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài (bao
gồm trình bày mô hình lý thuyết nền tảng; giới thiệu các khái niệm nguồn gây stress, ứng
phó với stress trong học tập, và động lực học tập; và tổng quan nghiên cứu); (2) Khảo sát
các nguồn gây stress trong học tập ở sinh viên; (3) Đo lường các chiến lược ứng phó với
3
- stress trong học tập ở sinh viên, mức độ stress, kết quả học tập, động lực học tập, và các
biến số khác; (4) Phân tích quan hệ giữa các biến số nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
Đối với câu hỏi về nguồn gây stress trong học tập ở sinh viên, giả thuyết mà chúng
tôi đặt ra đó là: (1) Các nguồn gây stress trong học tập cho sinh viên bao gồm chương trình
học nặng/nhàm chán, phương pháp giảng dạy không hiệu quả, bài tập quá nhiều/quá khó/có
thời hạn hoàn thành ngắn, áp lực kiểm tra hay thi cử, kết quả và hiệu quả học tập không
như mong muốn, áp lực từ gia đình/bạn bè/bản thân, khó khăn trong quản lý thời gian, khó
khăn trong thích ứng với môi trường đại học, mâu thuẫn trong làm việc nhóm, và thiếu tài
liệu học tập/nghiên cứu; (2) Trong đó, bài tập quá nhiều/quá khó/có thời hạn hoàn thành
ngắn, áp lực kiểm tra hay thi cử, và kết quả và hiệu quả học tập không như mong muốn là
những nguồn gây stress trong học tập phổ biến nhất; (3) Nguồn gây stress trong học tập đặc
thù của sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai là khó khăn trong thích ứng với môi trường
đại học; nguồn gây stress trong học tập đặc thù của sinh viên năm thứ ba và năm thứ tư là
thiếu tài liệu học tập/nghiên cứu.
Đối với câu hỏi về ứng phó với stress trong học tập ở sinh viên, nghiên cứu có những
giả thuyết sau: (1) Giải quyết vấn đề, điều hòa cảm xúc, bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ tích cực,
và sao nhãng là những chiến lược ứng phó được sinh viên sử dụng nhiều nhất; (2) Những
chiến lược ứng phó bao gồm chối bỏ, né tránh, và mong ước ít được sinh viên sử dụng; (3)
Sinh viên thường sử dụng kết hợp các chiến lược ứng phó thuộc cùng một nhóm chiến lược
ứng phó với nhau; (4) Sinh viên thường sử dụng kết hợp các chiến lược ứng phó gắn kết
kiểm soát sơ cấp và thứ cấp với nhau; (5) Sinh viên đã sử dụng các chiến lược ứng phó gắn
kết thì ít sử dụng các chiến lược ứng phó tách khỏi.
4
- Đối với câu hỏi về mối liên hệ giữa ứng phó với stress trong học tập và mức độ
stress, động lực học tập, các giả thuyết được đặt ra đó là: (1) Những sinh viên sử dụng chiến
lược ứng phó giải quyết vấn đề, điều hòa cảm xúc, bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ tích cực và
thay đổi nhận thức sẽ có mức độ stress thấp hơn và kết quả học tập cao hơn; (2) Trong khi
đó, những sinh viên tìm cách né tránh, chối bỏ và mong ước sẽ có mức độ stress cao hơn
và kết quả học tập thấp hơn.
Đối với câu hỏi về mối liên hệ giữa ứng phó với stress trong học tập và các biến số
nhân khẩu, và động lực học tập, nghiên cứu có những giả thuyết sau đây: (1) Sinh viên nữ
sử dụng chiến lược ứng phó điều hòa cảm xúc và bộc lộ cảm xúc nhiều hơn sinh viên nam;
(2) Sinh viên năm thứ ba và năm thứ tư sử dụng chiến lược ứng phó giải quyết vấn đề, điều
hòa cảm xúc, bộc lộ cảm xúc nhiều hơn so với sinh viên năm thứ hai và năm thứ nhất; (3)
Sinh viên năm thứ ba và năm thứ tư sử dụng chiến lược ứng phó né tránh, chối bỏ, và mong
ước ít hơn sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai; (4) Sinh viên có tình trạng kinh tế tốt
hơn thì sử dụng chiến lược ứng phó giải quyết vấn đề nhiều hơn; (5) Trong khi đó, sinh
viên có tình trạng kinh tế kém hơn thì sử dụng chiến lược ứng phó né tránh, chối bỏ, và
mong ước nhiều hơn; (6) Sinh viên ở khu vực thành thị thì sử dụng chiến lược ứng phó giải
quyết vấn đề, điều hòa cảm xúc và bộc lộ cảm xúc nhiều hơn so với sinh viên ở khu vực
nông thôn; (7) trong khi đó, sinh viên ở khu vực nông thôn sử dụng chiến lược ứng phó
chấp nhận, sao nhãng, né tránh, chối bỏ và mong ước nhiều hơn sinh viên ở khu vực thành
thị; (8) Sinh viên ở với gia đình thì sử dụng chiến lược ứng phó giải quyết vấn đề, điều hòa
cảm xúc và bộc lộ cảm xúc nhiều hơn so với sinh viên ở ký túc xá hoặc ở phòng trọ/nhà
trọ; sinh viên ở ký túc xá thì ứng phó né tránh, chối bỏ, và mong ước nhiều hơn so với sinh
5
- viên ở với gia đình hoặc sinh viên ở phòng trọ/nhà trọ; (9) Sinh viên đi làm thêm sử dụng
chiến lược ứng phó sao nhãng, nhé tránh, thay đổi nhận thức nhiều hơn sinh viên không đi
làm thêm; (10) Sinh viên tham gia tình nguyện sử dụng chiến lược ứng phó giải quyết vấn
đề, điều hòa cảm xúc, bộc lộc cảm xúc, suy nghĩ tích cực, và thay đổi nhận thức nhiều hơn
sinh viên không tham gia tình nguyện; (11) Sinh viên có tôn giáo sử dụng chiến lược chấp
nhận và mong ước nhiều hơn sinh viên không có tôn giáo; (12) Sinh viên có động lực học
tập tự chủ thì thường sử dụng chiến lược ứng phó giải quyết vấn đề, điều hòa cảm xúc, bộc
lộ cảm xúc, thay đổi nhận thức và suy nghĩ tích cực, và ít ứng phó bằng né tránh, chối bỏ
hay mong ước; (13) Sinh viên thiếu động lực hoặc có động lực học tập bị kiểm soát thì
thường sử dụng chiến lược ứng phó sao nhãng, né tránh, chối bỏ, và mong ước, và ít ứng
phó bằng giải quyết vấn đề, điều hòa cảm xúc, bộc lộ cảm xúc, thay đổi nhận thức, và suy
nghĩ tích cực.
6
- CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý thuyết tương tác về stress
Lý Thuyết Tương Tác Về Stress của Lazarus & Folkman (1984) là một trong những
lý thuyết đươc sử dụng phổ biến nhất trong các nghiên cứu về stress. Trong khi hai lý thuyết
của Cannon (1932) và Selye (1956) coi stress chỉ thuần là những phản ứng về mặt sinh lý,
và lý thuyết của Holmes và Rahe (1967) xem xét stress như là những kích thích có bản chất
là sự thay đổi trong cuộc sống, thì Lý Thuyết Tương Tác Về Stress lại cho rằng stress là
một quá trình trong đó cá nhân và môi trường liên tục tác động qua lại lẫn nhau mà ứng phó
là một phần quan trọng của sự tương tác ấy.
Khi cá nhân thẩm định nhận thức sơ cấp một sự kiện hay một tình huống là nguy
hiểm (tổn hại/mất mát, đe dọa, hay thách thức) và thẩm định nhận thức thứ cấp rằng bản
thân không có đủ nguồn lực để có thể đối phó với những tình huống đó thì ở cá nhân sẽ
xuất hiện những phản ứng stress về mặt sinh lý, tâm lý và hành vi. Những phản ứng sinh lý
có thể bao gồm đổ mồ hôi, tăng nhịp tim, tăng huyết áp, và căng cứng cơ thể - Cannon
(1932) gọi chung là phản ứng chiến-đấu-hay-bỏ-chạy (fight-or-flight response). Khi phải
liên tục đối mặt với những tình huống hay sự kiện gây trở ngại trong thời gian dài, cá nhân
có thể sẽ phải trải qua Hội Chứng Thích Ứng Chung (General Adaptation Syndrome; Selye,
1956), bao gồm ba giai đoạn là báo động, kháng cự và kiệt quệ. Bên cạnh đó, cá nhân cũng
sẽ phải đối mặt với những phản ứng về tâm lý như lo lắng, sợ hãi, và tức giận kèm theo
những vấn đề về hành vi như rối loạn giấc ngủ, rối loạn ăn uống, hay hành vi gây hấn
(Abraham, Conner, Jones, & O’Connor, 2016; Sarafino & Smith, 2011).
7
- Trong trạng thái đó, ứng phó chính là nỗ lực liên tục thay đổi về mặt nhận thức và
hành vi của cá nhân để đáp ứng những đòi hỏi từ môi trường xung quanh. Những thay đổi
này có thể tác động vào sự kiện hay tình huống gây stress, vào quá trình thẩm định nhận
thức, từ đó làm giảm những phản ứng stress. Mặc dù vậy, trong một số trường hợp, viêc
ứng phó của cá nhân cũng có thể làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn và làm tăng mức
độ của các phản ứng stress.
Có thể thấy Lý Thuyết Tương Tác Về Stress đã trình bày được những thành tố và
giai đoạn cơ bản trong quá trình tương tác giữa cá nhân và môi trường trong một tình huống
gây stress. Cụ thể, các thành tố và quá trình đó là tình huống hoặc sự kiện có khả năng gây
stress, quá trình thẩm định nhận thức sơ cấp về tính chất của tình huống hay sự kiện, quá
trình thẩm định nhận thức thứ cấp về nguồn lực của bản thân, phản ứng stress, quá trình
ứng phó, và hệ quả của sự tương tác.
1.2. Nguồn gây stress trong học tập
1.2.1. Khái niệm nguồn gây stress trong học tập
Một trong những khó khăn khi nghiên cứu về stress trong học tập ở sinh viên là sự
thiếu thống nhất giữa các nghiên cứu trong việc xác định thế nào là một nguồn gây stress
trong học tập. Phần lớn các nghiên cứu trước đây vẫn chưa tách bạch được một cách rõ
ràng và có hệ thống giữa những vấn đề gây stress có liên quan đến học tập với những vấn
đề gây stress có liên quan đến các lĩnh vực khác trong đời sống (O’Reilly và c.s., 2014),
chẳng hạn như các vấn đề về các mối quan hệ xã hội, sức khỏe thể chất và tinh thần, môi
trường sống, việc làm, hay các rắc rối thường ngày.
8
- Kemeny (2007) cho rằng các nguồn gây stress trong học tập là những suy nghĩ hay
sự kiện làm giảm khả năng đạt được các mục tiêu liên quan đến học tập và thành công tại
trường học của sinh viên. Chẳng hạn, việc ôn thi, làm bài thi, hay làm một bài tập nhóm là
những nguồn gây stress trong học tập vì việc không đạt được kết quả như mong muốn trong
các hoạt động này có thể gây cản trở cho việc tốt nghiệp của sinh viên. Khái niệm của
Kemeny (2007) đã xác định được một trong những đặc điểm của nguồn gây stress trong
học tập đó là cản trở cá nhân đạt được các mục tiêu trong học tập. Mặc dù vậy, khái niệm
này lại tỏ ra quá rộng vì có thể thấy rằng bất cứ một sự kiện nào trong cuộc sống cũng có
khả năng gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đối với hoạt động học tập của sinh viên, từ đó
ảnh hưởng đến kết quả học tập của họ. Điều này dẫn tới hệ quả là những nghiên cứu sử
dụng khái niệm của Kemeny (2007) có thể sẽ coi cả những vấn đề trong các lĩnh vực khác
của đời sống là những nguồn gây stress trong học tập. Chẳng hạn, mất người thân, mâu
thuẫn với cha mẹ, hay gặp phải các rắc rối thường ngày cũng có thể được coi là nguồn gây
stress trong học tập.
Để phân biệt giữa những vấn đề trong cuộc sống với các nguồn gây stress trong học
tập, Misra và c.s. (2003) đề xuất phân chia nguồn gây stress ở sinh viên thành hai nhóm,
gồm nguồn gây stress sơ cấp và nguồn gây stress thứ cấp. Trong đó, nguồn gây stress sơ
cấp là những vấn đề liên quan đến cuộc sống cá nhân (chẳng hạn như khó khăn về tài chính,
bận tâm về học tập, thích ứng với môi trường mới), còn nguồn gây stress thứ cấp là các vấn
đề về học tập. Tuy nhiên Bảng Kiểm Stress Trong Cuộc Sống Sinh Viên (Student-Life
Stress Inventory) của Gadzella (1994) mà Misra và c.s. (2003) sử dụng để tìm hiểu về nguồn
gây stress trong học tập lại không phân loại được một cách rõ ràng các vấn đề trong cuộc
9
- sống với các vấn đề trong học tập. Chẳng hạn trong tiểu thang thất vọng có đề cập đến các
vấn đề về hẹn hò, từ chối các cơ hội trong cuộc sống, hay trong tiểu thang tự áp đặt cũng
xác định trì hoãn hay cầu toàn là nguồn gây stress trong học tập. Như vậy, trong khi đã đề
cập đến sự khác biệt giữa các vấn đề trong cuộc sống và trong học tập, nghiên cứu của
Misra và c.s. (2003) vẫn chưa thể tách biệt được hai nhóm nguồn gây stress này.
Trong nghiên cứu đối với một nhóm sinh viên y khoa, O’Reilly và c.s. (2014) chia
các nguồn gây stress thành hai nhóm, gồm các nguồn gây stress liên quan đến cá nhân và
các nguồn gây stress liên quan đến học tập. Cụ thể, các nguồn gây stress liên quan đến cá
nhân có thể là khó khăn về tài chính, bệnh tật của các thành viên trong gia đình, các vấn đề
về nơi ở, lo lắng về tương lai và sự nghiệp, mâu thuẫn trong gia đình, hay mối quan hệ liên
cá nhân. Trong khi đó, làm bài thi, khối lượng bài tập quá lớn, đòi hỏi về kỹ năng và thái
độ, là những ví dụ về nguồn gây stress liên quan đến học tập. Tuy các vấn đề trong cuộc
sống có thể gây cản trở đối với hoạt động học tập của sinh viên nhưng không nên coi đây
là những nguồn gây stress trong học tập. Nói cách khác, một vấn đề gây khó khăn cho sinh
viên trong việc đạt được kết quả học tập như mong muốn có thể không phải là một nguồn
gây stress trong học tập. Điểm khác biệt rõ ràng giữa các nguồn gây stress trong học tập và
các nguồn gây stress khác trong cuộc sống đó là lĩnh vực mà các vấn đề đó xuất hiện.
Dựa theo khái niệm của Lazarus và Folkman (1984) về stress, có thể coi nguồn gây
stress trong học tập là những đòi hỏi xuất phát từ hoạt động học tập, được sinh viên đánh
giá là vượt quá nguồn lực của bản thân, buộc sinh viên phải nỗ lực để thích ứng hay vượt
qua. Như vậy, các nguồn gây stress trong học tập phải là các sự kiện hay tình huống đòi hỏi
sinh viên phải giải quyết, và xuất phát từ các hoạt động tiếp thu, rèn luyện, kiểm tra và đánh
10
- giá của sinh viên tại trường đại học. Những nguồn gây stress này có thể là chương trình học
quá nặng, bài tập quá nhiều hoặc quá khó, thời gian hoàn thành bài tập quá ngắn, chưa thích
ứng với phương pháp học tập mới, khó khăn trong việc cân đối thời gian học với những
công việc khác, áp lực thi cử, hoặc điểm số không như mong muốn.
1.2.2. Tổng quan nghiên cứu về nguồn gây stress trong học tập
Nghiên cứu về nguồn gây stress trong học tập thường là một phần trong các nghiên
cứu tìm hiểu về nguyên nhân dẫn tới tình trạng stress ở sinh viên. Các nghiên cứu này cho
thấy stress ở sinh viên thường được gây ra bởi khó khăn về tài chính (Lee, Kang, & Yum,
2005; Misra và c.s., 2003; Pitt, Oprescu, Tapia, & Gray, 2017), tình trạng sức khỏe của bản
thân hay các thành viên khác trong gia đình (Dyrbye, Thomas, & Shanafelt, 2005; Pitt và
c.s., 2017), vấn đề về chỗ ở (Aktekin và c.s., 2001), lo lắng về tương lai và sự nghiệp
(O’Reilly và c.s., 2014), các mối quan hệ liên cá nhân (Ben-Zur, 2012; Lee và c.s., 2005;
Pitt và c.s., 2017), hay môi trường sống (Bedewy & Gabriel, 2015). Bên cạnh những vấn
đề đó, những nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra rất nhiều những tình huống hay sự kiện
trong học tập gây nên stress cho sinh viên.
Trên thực tế, kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy các vấn đề liên quan đến học
tập chính là nguồn gây stress chủ yếu ở sinh viên (Gomathi, Ahmed, & Sreedharan, 2012;
Montgomery, Peeters, Schaufeli, & Ouden, 2003; Sreeramareddy và c.s., 2007; Yusoff,
Rahim, & Yaacob, 2010). Trong nghiên cứu của Pitt và c.s. (2017), hơn 94% sinh viên Úc
báo cáo đã từng gặp phải các vấn đề trong học tập dẫn tới stress. Theo sau đó mới là các
vấn đề liên quan đến tài chính, sức khỏe, gia đình, mối quan hệ liên cá nhân và môi trường
xung quanh. Nghiên cứu của Phil, Il, và Gyun (2001) cũng xác định các yêu cầu trong học
11
- tập là nguồn gây stress phổ biến nhất cho sinh viên Hàn Quốc. Tại Việt Nam, một số nghiên
cứu cũng đã tìm ra những kết quả tương tự. Chẳng hạn trong nghiên cứu của Đăng (2016),
hai nguồn gây stress chính cho sinh viên là học tập và các mối quan hệ liên cá nhân. Nghiên
cứu của Vũ (2015) cho thấy những sinh viên phải chịu áp lực học tập cao thì có mức độ
stress cao gấp ba lần so với những sinh viên chịu áp lực thấp.
Tìm hiểu cụ thể hơn về nguồn gây stress trong học tập, các nghiên cứu trước đây
cho thấy các vấn đề và tình huống liên quan đến học tập thường khiến sinh viên rơi vào tình
trạng stress bao gồm các khó khăn trong tiếp thu, làm bài tập, kiểm tra và thi cử, và kết quả
hay hiệu quả học tập. Đối với việc tiếp thu bài, các nguồn gây stress thường gặp phải đó là
chương trình học nặng (Bedewy & Gabriel, 2015; Salamonson Yenna, Andrew Sharon,
Watson Roger, Teo Stephen TT, & Deary Ian J, 2011; Sreeramareddy và c.s., 2007) hay
nhàm chán, và phương pháp giảng dạy của giảng viên không hiệu quả (Lee và c.s., 2005;
Yusoff và c.s., 2010). Đối với việc làm bài tập, tình huống khiến cho sinh viên bị stress
thường là khi bài tập quá nhiều (Barker, Howard, Villemaire-Krajden, & Galambos, 2018;
Bedewy & Gabriel, 2015; Ben-Zur, 2012; Lee và c.s., 2005; Mikolajczak & Luminet, 2008;
O’Reilly và c.s., 2014; Pitt và c.s., 2017) hoặc quá khó, hay thời gian để hoàn thành bài tập
quá ngắn (Bedewy & Gabriel, 2015; O’Reilly và c.s., 2014; Salamonson Yenna và c.s.,
2011). Sinh viên cũng khó tránh khỏi tình trạng stress khi đối diện với áp lực kiểm tra hay
thi cử (Ben-Zur, 2012; Hashmat, Hashmat, Amanullah, & Aziz, 2008; Lee và c.s., 2005;
O’Reilly và c.s., 2014; Pitt và c.s., 2017). Ngoài ra, không đạt được kết quả hay hiệu quả
học tập như kỳ vọng (Ben-Zur, 2012; Lee và c.s., 2005; Shah, Hasan, Malik, &
Sreeramareddy, 2010; Sreeramareddy và c.s., 2007) cũng là một nguồn gây stress trong học
12
- tập cho sinh viên. Thêm vào đó, áp lực từ bản thân hoặc những người xung quanh (Bedewy
& Gabriel, 2015; Misra và c.s., 2003; O’Reilly và c.s., 2014; Tangade, Mathur, Gupta, &
Chaudhary, 2011), gặp khó khăn trong quản lý thời gian (Ben-Zur, 2012; Yusoff và c.s.,
2010), gặp khó khăn trong việc thích ứng với môi trường đại học (Lee và c.s., 2005; Verger
và c.s., 2009), mâu thuẫn trong làm việc nhóm (Pitt và c.s., 2017), hay thiếu tài liệu (Yusoff
và c.s., 2010) cũng là những nguồn gây stress trong học tập phổ biến.
Kết quả của các nghiên cứu khám phá về những nguồn gây stress trong học tập ở
sinh viên cũng phản ánh một thực tế đó là bên cạnh những nguồn gây stress trong học tập
phổ biến, mỗi nhóm sinh viên lại có những vấn đề hay tình huống gây stress trong học tập
đặc thù. Chẳng hạn, khi xét đến yếu tố văn hóa, nghiên cứu của Tan và Yates (2011) cho
rằng so với sinh viên phương Tây, sinh viên thuộc các nước chịu ảnh hưởng của Nho Giáo
như Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản, hay Hàn Quốc thường phải
chịu áp lực lớn hơn từ bản thân và gia đình trong việc học tập bởi thành công trên giảng
đường tại các nước này được coi là một biểu hiện của sự hiếu thảo hay của sự đóng góp
trong việc bảo vệ và làm gia tăng danh dự cho gia đình, và dòng họ. Xem xét yếu tố ngành
học, các nghiên cứu cho thấy sinh viên y khoa có nhiều nguồn gây stress trong học tập
mang tính đặc thù như gặp khó khăn trong thực hành lâm sàng (Acharya, 2003), phải thông
báo tin xấu cho bệnh nhân, tức giận với bệnh nhân, chứng kiến cái chết của bệnh nhân, hay
không tìm ra cách chữa cho bệnh nhân (O’Reilly và c.s., 2014). Trong khi đó, các nguồn
gây stress trong học tập đặc thù của sinh viên ngành thể thao là chấn thương, bệnh tật, áp
lực thi đấu, mâu thuẫn với huấn luyện viên, trọng tài, hay áp lực từ khán giả (Abedalhafiz,
Altahayneh, & Al-Haliq, 2010). Khi xem xét đến yếu tố năm học, sinh viên năm thứ nhất
13
- và sinh viên năm thứ hai có những vấn đề gây stress khác so với sinh viên năm thứ ba hoặc
sinh viên năm thứ tư. Sự khác biệt rõ ràng nhận thấy nhất đó là trong khoảng thời gian đầu
vào đại học, sinh viên thường phải đối mặt với vấn đề thích ứng với môi trường mới
(Trương Thị Ngọc Điệp, Huỳnh Minh Hiền, Võ Thế Hiện, & Hồ Phương Thùy, 2012;
Verger và c.s., 2009). Những kết quả này cho thấy mỗi nhóm sinh viên khác nhau do có sự
đa dạng về văn hóa, ngành học, điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội, sẽ có những nguồn
gây stress riêng biệt. Điều này đòi hỏi các nghiên cứu phải lựa chọn phương pháp phù hợp
để tìm hiểu đầy đủ cả những nguồn gây stress trong học tập phổ biến và các nguồn gây
stress trong học tập đặc thù của mỗi nhóm khách thể.
Trong khi trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về nguồn gây stress trong
học tập ở sinh viên thì tại Việt Nam số lượng các nghiên cứu về chủ đề này còn khá hạn
chế. Phần lớn các nghiên cứu trước đây chỉ tìm hiểu chung về các nguồn gây stress mà các
vấn đề trong học tập chỉ là một phần (Đăng Đức Nhu, 2016; Nguyễn Hữu Thụ, 2009; Vũ
Dũng, 2015). Các nguồn gây stress trong học tập trong những nghiên cứu này thường không
được xác định rõ ràng hoặc không có số liệu thống kê cụ thể. Chẳng hạn trong nghiên cứu
của (Nguyễn Hữu Thụ, 2009), các nguồn gây stress trong học tập được mô tả bao gồm áp
lực thi cử, vấn đề về trang thiết bị, thiếu giáo trình, thiếu sách chuyên ngành, chương trình
học quá nặng, bài tập quá nhiều. Dựa theo số liệu thống kê, nhóm những vấn đề này được
xếp thứ tự về mức độ tác động so với các nhóm nguồn gây stress khác. Tuy nhiên nghiên
cứu không báo cáo số liệu phản ánh rõ mức độ ảnh hưởng của mỗi tình huống hay vấn đề
cụ thể này đối với sinh viên. Điều này gây ra hạn chế trong việc vận dụng các kết quả vào
thực tế. Các chương trình can thiệp hoặc trợ giúp sinh viên giảm stress hay tăng cường khả
14
nguon tai.lieu . vn