Xem mẫu

  1. Tiểu luận Nghiên cứu đa dạng thành phần loài, dạng sống thực vật ở một số quần xã tại xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ 1
  2. Contents MỞ ĐẦU .................................................................................................... 3 1. Đặt vấn đề .............................................................................................. 3 2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................. 4 3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................. 4 4. Giới hạn và địa điểm nghiên cứu .......................................................... 5 2.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................ 18 2.1.2.1. Địa hình địa mạo .......................................................................... 19 2.1.2.2. Khí hậu - thủy văn ......................................................................... 20 2.1.2.3. Địa chất- thổ nhưỡng.................................................................... 21 2.2. Tài nguyên thiên nhiên ................................ ..................................... 23 2.2.1. Tài nguyên nước ............................................................................. 23 2.2.2. Tài nguyên rừng ............................................................................. 23 2.2.3. Tài nguyên khoáng sản .................................................................. 24 2.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội.................................................................. 24 2.3.2.1. Thực trạng kinh tế......................................................................... 25 2.3.2.2. Thực trạng xã hội và cơ sở hạ tầng ............................................... 25 Bảng 4.7: Các loài thực vật có nguy cơ tuyệt chủng ở KVNC .............. 49 KẾT LUẬN .............................................................................................. 54 2
  3. MỞ ĐẦU 1 . Đặt vấn đề Chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh tiên tiến, do đó vấn đề tìm hiểu về thế giới xung quanh không chỉ giới hạn ở việc tìm tòi, khám phá nó mà còn nhận một nhiệm vụ hết sức quan trọng là đảm bảo sự tồn tại, phát triển của văn minh nhân loại nói riêng và Trái đất xinh đẹp nói chung. Trong đó, vấn đề nghiên cứu thực vật mặc dù đã được các thế hệ đi trước thực hiện từ rất sớm, nhưng đứng trước vấn nạn ô nhiễm môi trường, suy giảm đa d ạng sinh học trên toàn cầu thì đến nay công tác đó vẫn đóng một vai trò quan trọng và cần tiếp tục được nghiên cứu. Tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên rừng có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống con người. Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội m à còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng: rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển ôxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nh ẹ sức tàn phá khốc liệt của thiên tai, bảo tồn nguồn nước mặt, nước ngầm, làm giảm đến mức tối đa ô nhiễm không khí và nước. Đất nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và đai cao, với địa hình rất đ a dạng, hơn 2/3 lãnh thổ là đồ i núi, lại có khí hậu thay đ ổi từ nhiệt đới ẩm phía Nam, đến á nhiệt đới ở vùng cao phía Bắc, đ ã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và sự phong phú về các loài sinh vật. Những hệ sinh thái đó bao gồm nhiều lo ại rừng như rừng cây lá rộ ng thường xanh, rừng nửa rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá vôi, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim, rừng lá kim, rừng tre nứ a, rừng ngập m ặn, rừng tràm, rừng ngập nước ngọt,... Nước ta hiện có tới 10.386 loài thuộ c 2.257 chi và 305 họ thực vật b ậc cao có mạch, chiếm 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số họ của toàn th ế giới. Điều đáng lo ngại là do quá trình qu ản lý rừng chưa hợp lí nên độ che phủ củ a rừ ng ở Việt Nam đã giảm sút đ ến mức báo động, ch ất lượng củ a rừng tự nhiên còn lại đ ã b ị giảm sút đáng kể. Từ một nước có độ che phủ rừng lớn trên thế giới, đ ến thời điểm này Việt Nam chỉ còn giữ được một diện tích nhỏ rừng nguyên sinh. Ch ỉ trong vòng hơn 50 năm qua, diện tích rừng tự nhiên nước ta đã suy giảm nghiêm trọng. Năm 1945, nư ớc ta có 14,3 triệu ha rừng tự nhiên , đến năm 2008 diện tích rừng tự nhiên chỉ còn 10,34 triệu ha (theo nguồn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Năm 3
  4. 1995, diện tích rừng bình quân cho mộ t người là 0 ,13 ha, th ấp hơn mức trung b ình ở vùng Đông Nam Á (0,42 ha/người). Tháng 8/2009, bình quân diện tích rừng trên đ ầu người của Việt Nam th ấp nhất th ế giới với 0,14 ha/người, trong khi trên thế giới tỷ lệ này là 0 ,97 ha/người. Để khắc phục tình trạng trên, Qu ốc hội khóa X đ ã thông qua chương trình “trồng 5 triệu ha rừng” đ ến năm 2010, nhằm mục đích b ước sang th ế k ỷ 2 1, độ che ph ủ rừng và tài nguyên rừng của nước ta sẽ tăng lên, góp phần cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao đời sống vật chất, tinh th ần, phát triển kinh tế - xã hộ i cho nhân dân các dân tộc vùng trung du và miền núi nước ta. Xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ là một trong 4 xã thuộc Vư ờn Quố c gia Xuân Sơn, với tổng diện tích tự nhiên là 6.528,7 ha, trong đó diện tích đ ất lâm nghiệp chiếm hơn 80%, với thành phần loài thự c vật khá phong phú và đa d ạng. Trước khi trở thành Khu b ảo tồn thiên nhiên (năm 1986) và Vườn Quố c gia (năm 2002) th ì hiện tượng ch ặt phá rừng, khai thác lâm sản diễn ra thường xuyên đ ã làm cho chất lượng rừng bị giảm sút nghiêm trọng. Từ khi trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên, th ảm thực vật ở đ ây đã được bảo vệ, tình trạng phá rừng không còn, song việc khai thác nguồn tài nguyên phi lâm sản (song mây, dược liệu, hoa quả rừng,…) vẫn diễn ra hàng ngày đã làm giảm đáng kể tính đa dạng sinh họ c. Điều này cho thấy cần phải thực hiện công tác nghiên cứu, qua đó làm cơ sở cho công tác b ảo tồn đa d ạng sinh họ c nói chung, bảo tồn đa dạng thực vật nói riêng. Vì vậ y, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu đa d ạng thành p hần loài, dạng số ng thực vật ở một số quần xã tại xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ”. 2 . Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu tính đa dạng thành ph ần loài và dạng sống thực vật bậc cao có m ạch tại thời điểm hiện tại trong ba quần xã: rừng phụ c hồ i tự nhiên 15 năm, rừng trồng Keo tai tượng 7 năm, thảm cây bụi 3 – 4 tuổi ở xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kết qu ả n ghiên cứu góp phần xây d ựng cơ sở khoa họ c cho công tác quản lý và bảo tồn nguồn tài nguyên thự c vật của xã Xuân Sơn nói riêng và Vườn Quốc gia Xuân Sơn nói chung. 3 . Nội dung nghiên cứu - Xác định số lượng loài thực vật b ậc cao có mạch tại thời điểm hiện tại ở xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. 4
  5. - Thành lập danh lục các loài th ực vật được sắp xếp theo vần ABC (theo tên khoa họ c). - Xác định các nhóm dạng sống và tỉ lệ ph ần trăm (%) của chúng (nhóm cây thân gỗ, nhóm cây thân bụ i, nhóm cây thân th ảo , nhóm cây thân leo). - Xác định được một số loài thực vật có nguy cơ bị tuyệt chủng theo Sách đỏ Việt Nam (2007) và Danh lụ c đỏ IUCN (2001). - Đề xuất một số biện pháp nh ằm bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thực vật ở địa phương. 4 . Giới hạ n và địa điểm nghiên cứu Do điều kiện th ời gian và kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều nên đ ề tài chỉ tập trung điều tra sự đa dạng về thành phần loài, dạng sống thực vật ở 3 quần xã: rừng phục hồi tự nhiên (15 năm tuổi), rừng trồng Keo tai tượng (7 n ăm tuổi) và th ảm cây b ụi (3 – 4 năm tuổi) thuộ c 4 xóm của xã Xuân Sơn: Xóm Dù, xóm Lấp, xóm Lạng, xóm Cỏi n ằm trong vùng đệm của Vườn Quốc gia Xuân Sơn. 5
  6. Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Những nghiên cứu về hệ thực vật, thảm thực vật trên thế giới và ở Việt Nam 1.1.1. Những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới và ở Việt Nam Trên thế giới, tổng số loài thực vật hiện nay có nhiều biến động và chưa cụ th ể, tuỳ từng tác giả do chưa có sự nghiên cứu và điều tra đầy đủ. Các nh à thực vật học dự đoán số loài thực vật bậc cao hiện có trên thế giới vào khoảng 500.000 - 600.000 loài [28]. Năm 1965, Al. A. Phêđôrốp đã dự đoán trên th ế giới có khoảng: 300.000 loài thực vật hạt kín; 5.000 - 7.000 loài th ực vật hạt trần; 6.000 - 10.000 loài quyết thực vật; 14.000 - 18.000 loài rêu; 19.000 - 40.000 loài tảo; 15.000 - 20.000 loài địa y; 85.000 - 100.000 loài nấm và các loài thực vật bậc thấp khác [28]. Ở nước ta, trong thực vật chí đại cương Đông Dương và các tập bổ sung tiếp theo đã mô tả và ghi nh ận có khoảng 240 họ với khoảng 7.000 loài thực vật bậc cao có mạch [13]. Những năm gần đây, nhiều nhà thực vật dự đoán con số đó có th ể lên tới 10.000 đến 12.000 lo ài. Phan Nguyên Hồng (1970) nghiên cứu thành phần loài ven biển Bắc Việt Nam đã chia thảm thực vật Bắc Việt Nam th ành rừng ngập mặn, rừng gỗ bờ biển và th ảm thực vật trên bãi cát trống ở b ờ biển nước ta [28]. Hoàng Chung (1980) đ ã công bố thành ph ần loài thu được là 233 loài thuộc 54 họ và 44 bộ khi ông nghiên cứu đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam [6]. Ph ạm Hoàng Hộ (1991 – 1992) trong công trình “Cây cỏ Việt Nam” đã thống kê được số loài hiện có của hệ thực vật Việt Nam tới 10.500 loài đ ạt số lượng 12.000 loài theo dự đoán của nhiều nhà thực vật học [11]. Trên cơ sở những thông tin mới nhất và những căn cứ chắc ch ắn, Nguyễn Tiến Bân (1997) đã giới thiệu khái quát những đặc điểm cơ b ản của 265 họ và khoảng 2.300 chi thuộc ngành hạt kín ở nước ta [2]. 6
  7. Nguyễn Nghĩa Thìn (1999) trong khi tổng kết các công trình về khu hệ thực vật ở Việt Nam đ ã ghi nh ận có 2.393 lo ài thực vật bậc thấp và 11.373 loài thực vật bậc cao thuộc 2.524 chi, 378 họ [21]. 1.1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới và ở Việt Nam Trên thế giới, những nghiên cứu về kiểu thảm thực vật được tiến hành từ khá sớm. A.F.W.Schimper (1898) đã chia thảm thực vật vùng nhiệt đới thành những quần hệ khí hậu và quần hệ thổ nhưỡng [17]. Rubel (1935) đ ã lập một bảng phân loại được xem như kinh điển. Nhưng cách phân chia các đơn vị của ông không dựa trên một tiêu chu ẩn thống nhất và ông đ ã không chú ý đ ến tiêu chuẩn quan trọng trong cấu trúc quần lạc tức độ che n ền đất của tần g ưu thế sinh thái để phân chia các thảm thực vật [13]. H.G. Champion (1936) khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến Điện đã phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đ ới và núi cao [13]. J. Beard (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần hệ và lo ạt quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần hệ rừng xanh từng mùa; loạt quần hệ khô th ường xanh; loạt quần hệ miền núi; loạt quần h ệ ngập từng mùa và lo ạt quần hệ ngập quanh năm [28]. Maurand (1943) nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia thảm thực vật Đông Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và vùng trung gian. Đồng thời ông đ ã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó [28]. Segova (1957) lại chia thảm thực vật theo vành đai: Vành đai ven biển bùn lầy, vành đai núi thấp d ưới 800 – 1 .000 m và vành đai cao hơn [13]. Năm 1973, UNESCO đã công bố một khung phân loại thảm thực vật thế giới dựa trên nguyên tắc ngoại mạo và cấu trúc, chia thảm thực vật thế giới thành 5 lớp quần hệ (Lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng th ưa, lớp quần hệ cây bụi, lớp quần hệ cây bụi lùn, lớp quần hệ cây thảo) [35]. Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về thảm thực vật đ ến nay ch ưa nhiều. Chevalier (1918) là người đầu tiên đ ã đưa ra một bảng phân loại thảm thực vật rừng Bắc bộ Việt Nam (đây đư ợc xem là b ảng phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới Châu Á đầu tiên trên th ế giới). Theo bảng phân loại này, rừng ở Miền b ắc Việt Nam đ ược chia thành 10 kiểu [31]. 7
  8. Maurand (1943) nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia thảm thực vật Đông Dương làm 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và vùng trung gian, đồng thời ông đ ã kê ra 8 kiểu quần lạc trong các vùng [13]. Dương Hàm Hy (1956) đã đưa ra một bảng xếp loại mới về thảm thực vật rừng miền Bắc Việt Nam [31]. Nghiêm Xuân Tiếp (1960) cũng đưa ra một bảng phân loại những kiểu rừng Việt Nam dựa trên cơ sở tổng hợp bảng phân loại của Maurand (1943) và Dương Hàm Hy (1956) [31]. Trần Ngũ Phương (1970) đưa ra bảng phân loại rừng ở Miền bắc Việt Nam, chia thành 3 đai lớn theo độ cao: đai rừng nhiệt đới mưa mùa; đai rừng á nhiệt đới mưa mùa; đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao [20]. Thái Văn Trừng (1970) đã đưa ra 5 kiểu quần lạc lớn (quần lạc thân gỗ kín tán; quần lạc thân gỗ thưa; quần lạc thân cỏ kín rậm; quần lạc thân cỏ th ưa và những kiểu hoang mạc) và nguyên tắc đặt tên cho các thảm thực vật [31]. Phan Kế Lộc (1985) dựa trên bảng phân loại của UNESCO 1973, cũng đã xây dựng thang phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam th ành 5 lớp quần hệ, 15 dưới lớp, 32 nhóm qu ần hệ và 77 quần hệ khác nhau. Nguyễn Nghĩa Thìn (1994 - 1996) cũng đ ã áp dụng cách phân loại này trong những nghiên cứu của ông [28]. Vũ Tự Lập và nhiều tác giả khác (1995) dựa vào mối quan hệ giữa hình thái thực bì và khí hậu đ ã chia ra 15 d ạng thực b ì khác nhau: kiểu rừng rậm nhiệt đới thường xanh, kiểu rừng rậm nhiệt đ ới gió mùa rụng lá, kiểu rừng thưa nhiệt đới khô rụng lá,… [14]. Thái Văn Trừng (1998) khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới Việt Nam đ ã kết hợp 2 hệ thống phân loại (hệ thống phân loại lấy đặc điểm cấu trúc ngoại m ạo làm tiêu chu ẩn và h ệ thống phân loại thực vật dựa trên yếu tố hệ thực vật làm tiêu chuẩn) để phân chia thảm thực vật Việt Nam thành 5 kiểu thảm (5 nhóm quần hệ) với 14 kiểu quần hệ (14 quần hệ) [28]. Lê Ngọc Công (2004) cũng dựa theo khung phân loại của UNESCO (1973) đ ã phân chia thảm thực vật của tỉnh Thái Nguyên thành 4 lớp quần hệ: rừng rậm; rừng thưa; trảng cây bụi và trảng cỏ. Ở đây, những trạng thái thứ sinh (được h ình 8
  9. thành do tác động của con người như: khai thác gỗ, củi, chặt đốt rừng làm nương rẫy…) bao gồm: trảng cỏ; trảng cây bụi và rừng thưa [8]. Nhìn chung, những nghiên cứu về thảm thực vật của các tác giả hầu hết chỉ tập trung nghiên cứu ở một vùng cụ thể và phần lớn các tác giả đều d ựa vào khung phân lo ại của UNESCO (1973) trong nghiên cứu của mình. Những nghiên cứu về hệ thực vật trên th ế giới và ở Việt Nam: hầu hết các tác giả đều mới chỉ đưa ra con số dự đoán về hệ thực vật ở một châu lục, một quốc gia, hoặc một khu vực cụ thể. Những số liệu này chưa được nghiên cứu và đ iều tra đầy đủ. Vì vậy, số loài thực vật hiện có chắc chắn còn dao động và cao h ơn nhiều. 1 .2. Những nghiên cứu về thành phần loài, thành phần dạng sống 1.2.1. Những nghiên cứu về thành phần loài Những nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nghiên cứu đư ợc tiến h ành từ lâu trên thế giới. Ở Liên Xô (cũ) có nhiều công trình nghiên cứu của Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933), Creepva (1978)… Nói chung theo các tác giả thì m ỗi vùng sinh thái sẽ hình thành thảm thực vật đặc trưng, sự khác biệt của thảm n ày so với thảm khác biểu thị bởi thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc và động thái của nó. Vì vậy, việc n ghiên cứu th ành phần lo ài, thành ph ần dạng sống là chỉ tiêu quan trọng trong phân loại loại hình th ảm thực vật [28]. Longchun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nh ận xét: khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 lo ài; bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi và 167 loài [27]. Ở Việt Nam, Phan Kế Lộc (1970) đã xác định hệ thực vật miền bắc Việt Nam có 5.609 loài thuộc 1.660 chi và 240 họ [28]. Thái Văn Trừng (1970) thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7 .004 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1.850 chi, 289 họ [31]. Hoàng Chung (1980) khi nghiên cứu đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam đ ã công bố thành ph ần loài thu được gồm 233 loài thuộc 54 họ và 44 bộ [6]. 9
  10. Ph ạm Hoàng Hộ (1991 – 1993) trong “Cây c ỏ Việt Nam” đã thống kê số loài hiện có của hệ thực vật là 10.500 loài [11]. Phan Nguyên Hồng (1991) lập danh mụ c cùng với một số chỉ tiêu khác (dạng sống, môi trường, khu phân bố) của 75 lo ài thuộc 2 nhóm loài cây ngập m ặn điển h ình và cây gia nh ập vào rừng ngập mặn [28]. Đỗ Tất Lợi (1995) khi nghiên cứu các lo ài cây thuốc đ ã công bố 798 lo ài thuộc 164 họ có ở hầu h ết các tỉnh nước ta [15]. Lê Ngọc Công và Hoàng Chung (1995) nghiên cứu thành ph ần loài, dạng sống của sa van bụi và đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123 lo ài thuộc 47 họ khác nhau [13]. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đ ã thống kê thành phần loài của Vườn quốc gia Tam Đảo có khoảng 2.000 lo ài th ực vật, trong đó có 904 cây có ích thuộc 478 chi, 213 họ thuộc 3 ngành: Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín. Các loài này được xếp thành 8 nhóm có giá trị khác nhau. Năm 1998, khi nghiên cứu về họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) ở Việt Nam, ông thu được 156 loài trong tổng số 425 loài của họ Thầu dầu ở Việt Nam chia làm 7 nhóm theo cách sử dụng [23]. Lê Ngọc Công (1998) khi nghiên cứu tác dụng cải tạo môi trường của một số mô hình rừng trồng ở một số tỉnh miền núi đã công bố thành phần lo ài gồm 211 loài thuộc 64 họ [13]. Thái Văn Trừng (1998) khi nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam đã có nhận xét về tổ thành loài thực vật của tầng cây bụi nh ư sau: trong các trạng thái thảm khác nhau của rừng nhiệt đới Việt Nam, tổ thành loài của tầng cây bụi chủ yếu có sự đóng góp của các chi Psychotria , Prismatomeris, Pavetta (họ Cà phê – Rubiaceae); chi Tabermontana (họ Trúc đ ào – Apocynaceae); chi Ardisia, Maesa (họ Đơn nem – Myrsinaceae) [28]. Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) khi tổng kết các công trình nghiên cứu về khu h ệ thực vật ở Việt Nam đã ghi nhận có 2.393 loài thực vật bậc thấp và 1.373 loài thực vật bậc cao thuộc 2 .524 chi, 378 họ [24], [25]. Lê Trọng Cúc, Phạm Hồng Ban (2000) nghiên cứu sự biến động thành phần loài thực vật sau nương rẫy ở huyện Con Cuông, Nghệ An nhận xét rằng: do ảnh hưởng của canh tác n ương rẫy nên thành phần lo ài và số lượng cây gỗ trên một đ ơn vị diện tích có xu hư ớng giảm dần, đơn giản hoá để tái ổn định [9]. 10
  11. Ph ạm Hồng Ban (2000) nghiên cứu tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng sau nương rẫy ở vùng Tây Nam Nghệ An. Tác giả đã xác định thành phần loài, m ật độ cá thể và phổ dạng sống của thảm thực vật phục hồi sau nư ơng rẫy theo thời gian bỏ hoá. Theo tác giả, hệ thực vật sau nương rẫy ở vùng đệm Pù Mát (Nghệ An) khá đa d ạng về th ành ph ần loài, gồm 586 loài thuộc 344 chi, 105 họ thực vật bậc cao có mạch [1]. Đặng Kim Vui (2002), nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng sau nươn g rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên cho thấy 1 - 2 tuổi có 76 loài thuộc 36 họ, 3 - 5 tuổ i có 65 loài thuộc 34 họ, 5 - 10 tuổi có 56 loài thuộc 36 họ, 11 - 15 tuổi có 57 loài thuộc 31 họ [28]. Lê Ngọc Công (2004) nghiên cứu hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã thống kê các loài thực vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ, 468 chi, 654 loài chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây gỗ quý như: Lim, Dẻ, Trai, Nghiến…[8]. Vũ Thị Liên (2005) khi nghiên cứu một số kiểu thảm thực vật ở Sơn La đ ã thu được 452 lo ài thuộc 326 chi và 153 họ [28]. Thái Văn Thụy, Nguyễn Phúc Nguyên (2005) nghiên cứu về thảm thực vật Vườn quốc gia Ba Vì đã xác định ở đây có 11 kiểu quần xã th ực vật khác nhau. Trong quần xã cây b ụi thứ sinh th ường xanh, lá rộng th ành ph ần chủ yếu là cây gỗ dạng bụi cao từ 2 - 5m [29]. 1.2.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống Dạng sống của thực vật là sự biểu hiện về hình thái, cấu trúc cơ thể thực vật thích nghi với điều kiện môi trường sống. Nó liên quan chặt chẽ với các nhân tố sinh thái của mỗi vùng, nên đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Schow (1823) đã nghiên cứu về sự phân bố của thực vật và cho rằng: cách mọc được hiểu là đặc điểm phân bố của các loài trong quần xã [13]. I. K. Patsoxki (1915) chia th ảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường xanh; thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên m ặt đất trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có thời k ỳ sinh trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm. G. N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp cây nhiều năm và lớp cây hàng n ăm [13]. 11
  12. Cho đến nay, khi phân tích bản chất sinh thái của mỗi hệ thực vật, nhất là h ệ thực vật của các vùng ôn đới, ngư ời ta vẫn dùng hệ thống của Raunkiaer (1934) [4], [7] để sắp xếp các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một trong các dạng sống đó. Cơ sở phân chia dạng sống của ông là sự khác nhau về khả năng thích n ghi của thực vật qua thời gian bất lợi trong năm. Từ tổ hợp các dấu hiệu thích n ghi, Raunkiaer chỉ chọn một dấu hiệu là vị trí của chồi nằm ở đâu trên m ặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm. Raunkiaer đ ã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản: 1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất 2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất 3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có ch ồi nửa ẩn 4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn 5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm Ông đ ã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác nhau trên trái đất (SB): SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo tính khoa học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa trên những đặc điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo, phương thức sống của thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu tố môi trường tạo nên. Thuộc về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của thực vật, đặc điểm qua đông, sinh sản… Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thân thảo đã được lập ra lần đầu tiên b ởi Canon (1911), sau đó hàng loạt bảng đ ã được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm phần dưới đất đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu thị mức độ khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm của cây. Vì thế việc sử dụng phần dư ới đất để làm tiêu chuẩn phân chia dạng sống sẽ giúp cho ta đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc trưng của môi trường [7]. Braun – Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính liên tục hay đơn độc của lo ài đ ã chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt; mọc thành d ải nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc th ành khóm lớn [6]. 12
  13. Một số công trình nghiên cứu về dạng sống ở Việt Nam như: Do ãn Ngọc Chất (1969) nghiên cứu dạng sống của một số loài thực vật thuộc họ Hoà thảo. Hoàng Chung (1980) thống kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng cỏ Bắc Việt Nam, đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và b ảng phân loại kiểu đồng cỏ sa van, thảo nguyên [6]. Thái Văn Trừng (1978) cũng áp dụng nguyên tắc của Raunkiaer khi phân chia dạng sống của hệ thực vật ở Việt Nam [31]. Lê Trần Chấn (1990) khi nghiên cứu hệ thực vật Lâm Sơn - tỉnh Hoà Bình cũng phân chia hệ thực vật thành 5 nhóm dạng sống chính theo phương pháp của Raunkiaer. Tuy nhiên tác giả đ ã dùng thêm ký hiệu để chi tiết hoá một số dạng sống (a: ký sinh; b: bì sinh; c: dây leo; d: cây chồi trên thân thảo). Tác giả không xếp phương thức sống ký sinh, b ì sinh vào dạng sống cơ bản mà ch ỉ coi đây là những dạng phụ [4]. Hoàng Chung (2006) khi nghiên cứu thực vật trong đồng cỏ vùng núi bắc Việt Nam, đã phân chia 8 kiểu dạng sống chính là: kiểu cây gỗ, kiểu cây bụi, kiểu cây bụi thân bò, kiểu cây bụi nhỏ, kiểu cây bụi nhỏ bò, kiểu nửa bụi, kiểu thực vật có khả năng tạo chồi mới từ rễ, kiểu cây thảo có hệ rễ cái sống lâu năm [7]. Phan Nguyên Hồng (1991) khi nghiên cứu hình thái thảm thực vật rừng ngập mặn Việt Nam đã chia thành 7 dạng sống cơ bản: cây gỗ (G), cây bụi (B), cây thân thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp hoặc dạng cây bụi (G/B), ký sinh (K), bì sinh (B) [28]. Đặng Kim Vui (2002) nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau nương rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã phân chia d ạng sống thực vật dựa vào hình thái cây: cây gỗ, cây bụi, cây leo và cây cỏ, đồng thời ông đã xác đ ịnh được có 17 kiểu dạng sống, trong đó có 5 kiểu dạng cây bụi (cây bụi; cây bụi thân bò; cây bụi nhỏ; cây bụi nhỏ thân bò; cây n ửa bụi) [28]. Lê Ngọc Công (2004) khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng bằng khoanh nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên đã phân chia thực vật thành các nhóm dạng sống sau: cây gỗ; cây bụi; cây cỏ và dây leo [8]. Nhìn chung, những nghiên cứu về th ành ph ần loài của các tác giả trên th ế giới và ở Việt Nam đ ều tập trung nghiên cứu, đánh giá thành ph ần loài ở một vùng và khu vực cụ thể, phản ánh hệ thực vật đặc trưng trong mối tương quan với 13
  14. điều kiện địa hình và khí hậu. Tuy vậy, số lượng các công trình nghiên cứu còn chưa nhiều, cần có những nghiên cứu cụ th ể hơn, rộng rãi hơn nhằm mục đích có th ể đánh giá chính xác th ành phần loài thực vật đặc trưng của một khu vực hoặc một quốc gia. Về thành phần dạng sống: khi nghiên cứu hệ thực vật ở một khu vực cụ thể, các tác giả đều phân chia và sắp xếp các lo ài th ực vật th ành các nhóm dựa vào các tiêu chu ẩn cụ thể tuỳ từng tác giả. 1 .3. Những nghiên cứu về trồng rừng trên thế giới và ở Việt Nam Trên thế giới, trồng rừng xuất hiện và phát triển mạnh từ cuối thế kỉ XIX – đ ầu thế kỉ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhu cầu gỗ tăng lên ở các nư ớc đ ang phát triển, vì vậy m à trồng rừng ngày càng được chú hơn ý hơn. Ở các nước XHCN cũ nh ư Liên Xô, Tiệp Khắc, CHDC Đức, những nghiên cứu về trồng rừng đã phổ biến rộng rãi và đ ược thực hiện ngay sau chiên tranh kết thúc. Ở Tây Âu như Italia, Pháp đã tiến h ành trồng bạch dương cao sản trong phạm vi lớn và đạt được 1/3 nhu cầu của công nghiệp giấy sợi, mặc dù vậy vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về trồng rừng. A.Miyawaki (1944) đ ã nêu kh ẩu hiệu: “Cây bản địa trên đất bản địa” và ông đ ã thực hiện nhiều dự án phục hồi rừng bằng biện pháp trồng rừng [8]. Tansley (1944) cho rằng trồng rừng là giải pháp rút ngắn quá trình diễn thế th ảm thực vật. Nhưng Beard (1947) lại phản đối việc trồng rừng và cho đó là: “Bệnh sởi trồng rừng đã mắc phải do thiếu sinh tố sinh thái học.” [13]. Ở nước ta ngay từ những năm 60 của thế kỉ XX, Đảng và Nhà nước ta đ ã quan tâm đến vấn đề trồng rừng. Đã có nhiều chương trình trồng rừng được thực h iện nh ư PAM, chương trình 327, dự án 661 với 5 triệu ha rừng đến năm 2010,…[13]. Phùng Ngọc Lan (1991) đã nêu nhược điểm của trồng rừng thuần loài là thường hay xảy ra cháy và d ịch bệnh. Theo tác giả nên chọn mô hình trồng rừng hỗn loài và mô hình nông lâm kết hợp [13]. Lâm Phúc Cố (1994) cho rằng: Những nơi đất khó có kh ả năng tái sinh tự nhiên thì trồng rừng là một biện pháp kĩ thuật lâm sinh cần thiết và nên chọn phương thức trồng rừng hỗn giao nhiều lo ài [13]. 14
  15. Nguyễn Tiến Bân (1997) cho rằng cần phải phục hồi lại các hệ sinh thái rừng nhiệt đới bằng các loại cây bản địa để duy trì nguồn gen, tạo ra hệ sinh thái rừng hỗn loài bền vững [2]. Như vậy, các biện pháp trồng rừng là cần thiết, nhưng các tác giả lưu ý là n ên chọn cây trồng và trồng theo mô hình hỗn loài m ới đem lại hiệu quả thiết thực. 1 .4. Những nghiên cứu về phục hồi rừng tự nhiên Phục hồi rừng tự nhiên là quá trình diễn thế thứ sinh phục hồi thảm thực vật. Vì vậy, các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung tìm hiểu các quy luật của quá trình tái sinh và quá trình diễn thế. Những kết quả thu đ ược là cơ sở khoa học để xác đ ịnh các giải pháp lâm sinh trong việc xúc tiến tái sinh phục hồi rừng. P.W.Richards (1964) đ ã nhận định rằng: tất cả các quần xã thực vật sinh ra từ rừng mưa nhiệt đới qua quá trình diễn thế thứ sinh như rừng thứ sinh, thảm cây bụi, thảm cỏ nếu được bảo vệ không chặt phá, đốt lửa thì sau một thời gian qua các giai đoạn trung gian chúng có thể phục hồi thành rừng cao đỉnh [13]. Ở nước ta, vấn đề tái sinh phục hồi rừng được đặt ra từ những năm 50 của thế kỷ XX và lúc đó gọi bằng thuật ngữ: “Khoanh núi nuôi rừng”. Đến giữa những năm 80 thì chuyển hướng theo thuật ngữ mới là: “Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh phục hồi rừng”. Khoanh nuôi phục hồi rừng là quá trình lợi dụng triệt để khả năng tái sinh và diễn thế tự nhiên với sự can thiệp hợp lý của con người để thúc đẩy quá trình tái tạo rừng trong một thời gian xác đ ịnh theo mục đích xác định. Theo Trần Đình Lý (1995) các đối tượng khoanh nuôi phục hồi rừng là: Đất đ ã m ất rừng do bị khai thác cạn kiệt, nương rẫy bị bỏ hoá, còn tính chất của đất rừng, trảng cây bụi xen cây gỗ, còn tầng đất mặt dày trên 30cm. Tác giả cũng xác đ ịnh hết thời gian khoanh nuôi, rừng phải có ít nhất 500 cây mục đích/ha, có chiều cao trung b ình 3m và độ tàn che 0,3 [16]. Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, khoanh nuôi, phục hồi rừng là giải pháp tăng nhanh độ che phủ ở nước ta. Nh ờ có những chính sách đúng đắn đó chúng ta đã thành công bước đầu là qua 2 năm đầu của dự án 5 triệu ha rừng (1999 – 2000) thì 10 tỉnh Bắc Bộ đã khoanh nuôi tái sinh được 0,5 triệu ha rừng [13]. 15
  16. 1.5. Những nghiên cứu về thảm thực vật và đa dạng thực vật ở khu vực nghiên cứu Có thể nói các công trình nghiên cứu về thảm thực vật và đa dạng thực vật ở xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ còn rất ít. Xuân Sơn là một trong 4 xã (Xuân Sơn, Đồng Sơn, Xuân Đài và Kim Thượng) nằm trong Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn với tổng diện tích tự nhiên là 15.000 ha (được th ành lập năm 1986). Đến năm 2002 chính thức được chuyển thành Vườn Quốc gia Xuân Sơn. Để đánh giá đầy đủ về giá trị nguồn tài nguyên sinh vật và hệ sinh thái ở Vườn Quốc gia Xuân Sơn làm cơ sở cho công tác quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học, các cơ quan chức năng tiến h ành nghiên cứu hệ động, thực vật ở đây. Năm 1990, Chi cục kiểm lâm Vĩnh Phúc phối hợp với phân viện Điều tra Quy hoạch rừng Tây Bắc đã tiến hành điều tra nghiên cứu khả thi thành lập khu b ảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn [12]. Năm 1992, Viện điều tra quy hoạch rừng đã thống kê được 314 loài thực vật b ậc cao có mạch [35]. Điều tra sơ bộ tài nguyên đ ộng vật và th ực vật khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn năm 1998, do chi cục kiểm lâm Phú Thọ, Phân viện điều tra quy hoạch rừng Tây Bắc, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật và khoa Sinh - Đại học sư phạm Hà Nội thực hiện; đặc biệt giai đoạn 2000 – 2001, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã tiến hành điều tra, đ ánh giá hiện trạng tài nguyên sinh vật tại khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn cho thấy, về thực vật ngành Hạt trần gặp 5 họ với 6 lo ài trong đó có 3 loài quý hiếm đư ợc ghi trong Sách đỏ Việt Nam (1996). Những cây cho gỗ trong ngành Hạt kín bước đầu đ ã thống kê được 130 loài, trong đó có những cây gỗ quý nh ư Táu m ật (Vatica tonkinensis A. Chev.), Trai (Garcinia fagraeoides A. Chev.), Sến mật (Madhuca pasquieri H. Lec),…[12]. Tháng 10 năm 2002, Trung tâm Tài nguyên Môi trường thuộc Viện Điều tra Quy hoạch rừng phối hợp với Ban quản lý VQG Xuân Sơn và Chi cục Kiểm lâm Phú Thọ tiếp tục tổ chức khảo sát đa dạng sinh vật ở khu vực n ày và thu được kết quả: thống kê được 726 lo ài th ực vật bậc cao có mạch thuộc 475 chi và 134 họ [12]. 16
  17. Năm 2008, trong cuốn “Đa d ạng sinh học và b ảo tồn nguồn gen sinh vật tại Vườn Quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ”, PGS.TS. Trần Minh Hợi và cộng sự đ ã xác định được 1.217 lo ài trong 180 họ, 680 chi. Trong đó có 40 loài đã được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, phát hiện thêm một số loài mới bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam. Đồng thời cũng thống kê và nghiên cứu một số nhóm cây tài nguyên quan trọng của VQG: tài nguyên cây cho gỗ (202 lo ài); tài n guyên cây làm thuốc (665 loài); tài nguyên cây có hoa, làm cảnh và bóng mát (90 loài); tài ngu yên cây rau và cây có quả ăn được (123 loài),… [12]. 17
  18. Chương 2. Đ IỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU 2 .1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới Xã Xuân Sơn nằm ở phía Tây Nam của huyện Tân Sơn, cách trung tâm huyện 40 km đ ường trải nhựa, đèo dốc. Xã Xuân Sơn có ranh giới như sau: + Phía Đông giáp xã Xuân Đài (huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ). + Phía Tây giáp huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La) và huyện Đà Bắc (tỉnh Hòa Bình). + Phía Tây Bắc giáp xã Đồng Sơn, Lai Đồng, và Tân Sơn (huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ). + Phía Nam giáp xã Kim Thượng (huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ) [33]. Hình 2.1. Bản đồ vị trí địa lí xã Xuân Sơn - KVNC 18
  19. 2.1.2. Địa hình và thổ nhưỡng 2 .1.2.1. Địa h ình địa mạo Huyện Tân Sơn chủ yếu là đất rừng tự nhiên, núi cao, riêng vùng lõi và vùng đệm (phòng hộ) của Vườn Quốc gia Xuân Sơn chiếm trên 15.000 ha, nằm trong m ột vùng đồi núi thấp và trung bình thuộc lưu vực sông Bứa, n ơi kết thúc của dãy Hoàng Liên Sơn. Vùng đồi núi thấp này tỏa rộng từ hữu ngạn sông Hồng sang đ ến tả ngạn sông Đà, bao gồm cả huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sông Bứa và các chi lưu của nó tỏa nhiều nhánh ra gần như khắp vùng. Nhìn toàn cảnh các d ãy đồi núi chỉ cao chừng 600 - 700 m, hình dáng khá mềm mại vì chúng được cấu tạo từ các lo ại đá phiến biến chất quen thuộc, cao nhất là đỉnh Voi (1.386 m), tiếp đ ến là núi Ten (1.244 m), núi Cẩn (1.144 m) [18]. Hình 2.2: Địa hình khu vực nghiên cứu Các thung lũng trong vùng mở rộng và uốn lượn khá phức tạp. Nh ìn chung đ ịa h ình trong khu vực có những kiểu chính như sau: - Kiểu địa h ình núi trung bình: Hình thành trên đ á phiến biến chất, có độ cao từ 700 - 1.386 m; chiếm tỷ lệ 10,4% diện tích tự nhiên. Kiểu n ày phân bố chủ yếu ở phía Tây và Tây Nam Vườn Quốc gia, bao gồm phần lớn hệ đá vôi Xuân Sơn và các dãy núi đ ất xen kẽ. Tác dụng xâm thực mạnh, độ dốc lớn (trung b ình 30o), mức độ chia cắt phức tạp, là đầu nguồn của hệ sông suối đổ ra sông Bứa. 19
  20. - Kiểu địa hình núi thấp: Được hình thành trên các đá trầm tích lục nguyên uốn nếp, tác dụng xâm thực, bóc mòn. Thuộc địa hình này là các núi có độ cao từ 300 - 700m, phân b ố chủ yếu từ Nam, Tây Nam đến phía Bắc khu vực. Núi ở đây có hình dạng mềm mại, đỉnh tròn, sườn thoải, độ dốc trung bình chỉ 20 o, có những thung lũng mở rộng hơn vùng núi ở phía Tây Bắc. - Kiểu đồi: Có độ cao dư ới 300m, phân bố chủ yếu về phía Đông khu vực. Có h ình d ạng đồi lượn sóng mềm mại, được cấu tạo từ các loại đá trầm tích và b iến chất hạt mịn. Hiện nay đã được trồng ch è Xanh, chè Shan. - Thung lũng và bồn địa: Phân bố chủ yếu ở các xã Đồng Sơn, Xuân Đài và Kim Thượng. Đây là các thung lũng sông suối mở rộng, địa h ình bằng phẳng, độ dốc rất thoải, trong đó có trầm tích phù sa rất thuận lợi cho canh tác nông nghiệp. Thung lũng lớn nhất là Mường Tằn (trên 400 ha ruộng nước). Xã Xuân Sơn có duy nh ất núi Ten cao 1.244m so với mặt nước biển, còn lại là các dãy núi thấp và vùng đồi. Có nhiều suối nhỏ chảy giữa các núi thấp [18]. 2 .1.2.2. Khí hậu- thủy văn * Khí hậu: Xuân Sơn tuy n ằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới, nhưng xa đường xích đ ạo nên có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh. - Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung b ình n ăm biến động từ 22oC – 23oC, tương đương với tổng nhiệt năng từ 8.300oC – 8 .500oC (nằm trong vành đai nhiệt đới). Mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 n ăm sau, ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ trong các tháng này thường xuống dưới 20 oC, nhiệt độ trung b ình tháng th ấp nhất là tháng 1. Mùa nóng, do ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam nên thời tiết luôn nóng ẩm, m ưa nhiều. Nhiệt độ trung bình trên 25oC, nóng nhất là vào tháng 6 và tháng 7 (28oC). Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối lên tới 40,7 oC vào tháng 6 [18]. - Chế độ m ưa: Lượng mưa đạt mức trung bình từ 1.660 mm ở Xuân Sơn đến 1 .826 mm ở Minh Đài. Tập trung gần 90% vào mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10 h àng năm), hai tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8 và tháng 9 hàng năm. Mùa khô h ạn từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lượng m ưa chỉ chiếm trên 10% tổng lượng mưa hàng năm, nhưng hạn hán ít xảy ra vì có m ưa phùn (mỗi năm có trên 20 ngày), hạn chế sự khô hạn trong mùa khô. Tháng 12 và tháng 1 là những 20
nguon tai.lieu . vn