Xem mẫu

BÁO CÁO THỰC ĐỊA
KHÓA ĐÀO TẠO NGẮN HẠN MỘT SỨC KHỎE GẮN VỚI
THỰC ĐỊA CHO
CÁN BỘ Y TẾ VÀ THÚ Y

TÊN ĐỀ TÀI:
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC BỆNH LIÊN CẦU LỢN VÀ PHỐI HỢP LIÊN NGÀNH
TRONG PHÒNG CHỐNG BỆNH LIÊN CẦU LỢN TẠI HẢI PHÒNG GIAI ĐOẠN
2010 - 2015
Người thực hiện: Nguyễn Thu Hạnh (Trung tâm YTDP Hải Phòng)
Phạm Xuân Trường (Cơ quan Thú y vùng II)
Lớp: Một sức khỏe gắn với thực địa cho cán bộ y tế và thú y
Khóa: I
Người hướng dẫn khoa học: Ts Lại Thị Lan Hương
Ts Phạm Đức Phúc

Hà Nội - 2016

EPIDEMIOLOGICAL CHARACTERISTICS OF CASES OF HUMAN
INFECTION WITH STREPTOCOCCUS SUIS AND REVIEW ON
INTERSECTORAL COLLABORATION IN STREPTOCOCCUS SUIS
PREVENTION AND CONTROL IN HAI PHONG CITY, 2010 – 2015
Phạm Đức Phúc, Lại Thị Lan Hương, Nguyen Thu Hanh, Phạm Xuân Trường
Hai Phong Preventive Medicine Center,
Regional Animal Health Ofice No. II
Summary
A descriptive cross sectional study of cases of human infection with
Streptococcus suis and a retrospective review of data on disease outbreaks in pigs from
2010 to 2015 in Hai Phong were conducted. Results show: 81 cases of human infection
with Streptococcus suis have been reported of which there were no fatal cases. All the
cases were tested positive with Streptococcus suis and received medical care at the Viet
Tiep hospital, Hai Phong. Allmost of the cases are above 30 years of age, among which
the 50-59 and 40-49 age groups are predominant (42% and 29,6%, respectively). There
is a statistically significant difference between males and females among cases (85,1 %
versus 14,9 %). Nearly half of the cases were related to pig-slaughtering and/or pig
trading/feeding (44,4%). More cases reported during the months from May through
October each year. Fourteen of fifteen districts recorded with human cases. Incidence
per 100,000 people was recorded to be higher in rural districts of Vinh Bao, An Duong
and Thuy Nguyen, compared to other districts of Hai Phong. Sixty-four point sixteen
percents (64,16 %) of cases had history of comsumption of raw or not well-prepared pigproducts within 7 days prior to onset date. No possible connections that were observed between
disease outbreaks in pigs and cases of human infection with Streptococcus suis during the study
period. There was an absence of collaboration between public health and animal health sectors
in disease surveillance, outbreak investigation and response and risk communication during the
period of time: 2010-2012. There is a need to enhance communication on food safety practice.
Close collaboration with two-way communication mechanism between department of
preventive medicine and department of animal health needs to be reinforced in disease
surveillance, outbreak investigation and response in humans as well as in animals.
Epidemiological research on possible correlation between disease outbreak in pigs and cases of
Hà Nội - 2016

human infection with Streptococcus suis is needed to better provide evidence for early warning
of and timely response to outbreak of diseases.

Hà Nội - 2016

TÓM TẮT
Nghiên cứu các trường hợp mắc liên cầu lợn và số liệu về dịch bệnh trên lợn tại
Hải Phòng giai đoạn 2010-2015 bằng phương pháp nghiên cứu dịch tễ học mô tả, kết
quả cho thấy: tổng số mắc là 81 trường hợp, không có tử vong, tất cả các trường hợp này đều
được chẩn đoán dương tính với Streptococcus suis và được điều trị tại bệnh viện Việt Tiệp,
Hải Phòng. Các ca bệnh tập trung nhiều nhất ở hai nhóm tuổi là 50-59 (42%) và 40-49
(29,6%). Tỷ lệ bệnh nhân nam cao hơn nữ (85,1 % với 14,9 %) và có ý nghĩa thống kê. Các ca
bệnh tập trung ở nhóm nghề nghiệp có liên quan đến lợn hay thịt lợn (44,4 %). Các ca bệnh ghi
nhận nhiều hơn vào các tháng từ tháng 5 đến tháng 10. Có 14 trên tổng số 15 quận/huyện ghi
nhận các trường hợp bệnh. Tỉ lệ mắc trên 100.000 dân ở Vĩnh Bảo, và An Dương và Thủy
Nguyên (là những huyện thuần nông) cao hơn so với các quận/ huyện khác của Hải Phòng.
64,16 % ca bệnh có tiền sử ăn các sản phẩm từ lợn sống và/hoặc chưa được chế biến kỹ trong
vòng 7 ngày trước khi khởi phát bệnh. Không thấy sự liên quan dịch tễ học giữa dịch bệnh trên
lợn và các trường hợp mắc liên cầu lợn trên người. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa y tế và
thú y trong hoạt động chia sẻ thông tin giám sát bệnh, trong công tác phối hợp điều tra và đáp
ứng phòng chống dịch trên người cũng như trên đàn lợn trong giai đoạn 2010 - 2012.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh liên cầu khuẩn lợn (LCL) do Streptococcus suis (Str.suis) gây nên. Bệnh
xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới và gây tổn thất lớn về kinh tế [1]. Bệnh liên cầu lợn có
thể lây cho người vì vậy nó được xếp vào nhóm những bệnh lây truyền từ động vật sang
người và là một trong 5 bệnh được ưu tiên phối hợp trong chương trình phòng chống
bệnh lây từ động vật sang người được quy định tại Thông tư 16/2013/TTLT-BYTBNNPTNT ngày 27/5/2013 của liên Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp & PTNT [5]. Vi khuẩn
Str. suis thường khu trú ở đường hô hấp trên của lợn khỏe mạnh, các hốc của hạch
amidan, sau đó xâm nhập vào hệ tuần hoàn và gây bệnh. Ở lợn đặc trưng lâm sàng của
bệnh là nhiễm trùng huyết, viêm màng não, viêm khớp và viêm phế quản phổi. Người có
thể mắc bệnh do Str. suis type 2 gây ra khi tiếp xúc trực tiếp với lợn/thịt lợn bệnh hoặc
ăn các thực phẩm từ lợn bệnh mà chưa được xử lý chín bằng nhiệt [4].
Tại Việt Nam bệnh có xu hướng ngày càng tăng các trường hợp người bị mắc liên
cầu lợn trong những năm gần đây Khi bị bệnh, người bệnh có triệu chứng sốt cao, đau
đầu, buồn nôn, nôn, ù tai, điếc, cứng gáy, rối loạn tri giác... xuất huyết đa dạng ở một số
nơi trên cơ thể. Một số trường hợp xuất hiện các triệu chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc
tiêu hóa: sốt, đi cầu nhiều lần, phân lỏng, cơ thể lạnh, run... trước khi có biểu hiện của
viêm màng não. [3].

Hà Nội - 2016

Những người bị bệnh nặng có thể tử vong do độc tố vi khuẩn gây sốc nhiễm
khuẩn, viêm nội tâm mạc, suy đa phủ tạng, nhiễm khuẩn huyết. Tỷ lệ tử vong có thể tới
7%. [3]
Bệnh liên cầu khuẩn lợn là bệnh nguy hiểm nếu không được phát hiện sớm, điều
trị kịp thời, bệnh diễn biến phức tạp, có thể chuyển biến rất nặng và nguy hiểm đến tính
mạng bệnh nhân, hay gặp nhất là gây viêm màng não, nhiễm khuẩn máu, viêm màng
trong tim. Một số trường hợp sau khi khỏi bệnh có di chứng lâu dài như điếc không hồi
phục, mất thăng bằng...
Cho đến hết năm 2010, bệnh liên cầu lợn ở người chưa phải là bệnh truyền nhiễm
thuộc diện bắt buộc phải báo cáo, do đó hệ thống giám sát thường chỉ ghi nhận được
những bệnh nhân điều trị tại các bệnh viện lớn. Tuy nhiên số lượng ca bệnh ghi nhận
được tại Hải Phòng trong các năm 2010 và các năm tiếp theo đều ở mức cao so với khu
vực miền Bắc [2]. Tất cả các ca bệnh đều chỉ được phát hiện khi bệnh nhân vào điều trị
tại bệnh viện Việt Tiệp, Hải Phòng. Trước năm 2013, khi phát hiện có ca bệnh trên
người, trung tâm Y tế dự phòng không có thông tin gì về tình hình dịch bệnh trên đàn
lợn tại thời điểm đó cũng như không có sự phối hợp giữa ngành y tế và thú y trong điều
tra, xử lý ổ dịch.
Để tìm hiểu rõ hơn về yếu tố dịch tễ của bệnh, từ đó đưa ra biện pháp phòng
chống hiệu quả, chúng tôi tiến hành nghiên cứu Đặc điểm dịch tễ học bệnh liên cầu lợn
và phối hợp liên ngành trong phòng, chống bệnh liên cầu tại Hải Phòng từ năm 20102015, với các mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh Liên cầu lợn ở người tại Hải
Phòng từ năm 2010-2015;
2. Mô tả tình hình dịch bệnh ở lợn tại Hải Phòng từ năm 2010-2015;
3. Mô tả sự phối hợp giữa ngành y tế và thú y trong công tác phòng chống dịch
LCL tại Hải phòng.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân mắc Liên cầu lợn tới điều trị tại bệnh viện
Việt Tiệp, Hải Phòng.từ năm 2010 đến năm 2015
2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu: Thành phố Hải Phòng, năm 2016
3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứ hồi cứu.
4. Thu thập thông tin
Hồi cứu bệnh án bệnh nhân mắc LCL năm 2010-2015 tại bệnh viện Việt Tiệp,
Hải Phòng.
Thu thập các số liệu về tình hình dịch bệnh ở lợn từ các báo cáo của Chi cục Thú
y Hải Phòng từ 2010-2015 và các số liệu lưu tại Cơ quan Thú y vùng II.
Hà Nội - 2016

nguon tai.lieu . vn