Xem mẫu
- MỤC LỤC
Lời mở đầu.................................................................................................... 1
Chương I. Lý luận chung về thị trường bản chất chức năng và vai tr ò
của thị trường ............................................................................................... 2
1. Bản chất c ủa thị trườ ng .............................................................................. 2
2. Chức năng của thị trườ ng ........................................................................... 2
3. Vai trò c ủa thị trườ ng ................................................................................. 4
Chương II. Cơ cấu, chức năng và đặc điểm của thị trường thuỷ sản ........ 6
I. Cơ cấu, chức năng c ủa thị trườ ng thuỷ sản .................................................. 6
II. Đặc điểm c ủa thị trườ ng thuỷ sản............................................................... 7
1. Độ cận biên thị trườ ng và giá cả sản phẩm thuỷ sản ................................... 8
2. Sự hình thành giá cả theo thời vụ ............................................................... 9
3. Tính độc quyền c ủa thị trườ ng thuỷ sản .................................................... 10
4. Thị trườ ng sản phẩm trong nước còn mang tính nhỏ, lẻ ............................ 11
Chương III. Thị trường sản phẩm thuỷ sản thực trạng và tiềm năng .... 12
I. Thị trườ ng nội địa ..................................................................................... 12
1. Cung - cầu và giá của các sản phẩm thuỷ sản trong nước ......................... 12
2. Những yếu tố ảnh hưở ng tới thị trườ ng thuỷ sản nội địa ........................... 18
3. Những tiề m năng c ủa thị trườ ng thuỷ sản nội địa ..................................... 19
II. Thị trườ ng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam ........................................... 20
1. Thị trườ ng các nước Châu Á .................................................................... 20
2. Thị trườ ng EU .......................................................................................... 21
3. Thị trườ ng M ỹ .......................................................................................... 22
III. Một số nhận xét và đánh giá về thực trạng và tiềm năng ........................ 24
1. Khai thác hải sản ...................................................................................... 24
2. Chế biến và dự trữ .................................................................................... 26
3. Tiêu thụ sản phẩm .................................................................................... 26
Kết luận....................................................................................................... 28
Tài liệu tham khảo ..................................................................................... 29
- LỜI MỞ ĐẦU
Thuỷ sản là một ngành sản xuất quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, sản phẩ m thuỷ sản là một mặt hàng vô cùng thân thuộc không chỉ đối
với ngườ i dân Việt Nam mà còn là một phần tất yếu trong mỗi bữa ăn c ủa
ngườ i dân các nước khác trên thế giới. Chính vì vậy mà việc làm thế nào
để phát triển ngành thuỷ sản không chỉ là công việc của những nhà nghiên
cứu kinh tế mà còn là mối quan tâm chung của cả cộng đồng.
Ngườ i ta nói rằng, thị trườ ng đầ u ra c ủa sản phẩm chính là bộ mặt, là
thước đo đánh giá trình độ phát triển c ủa ngành hàng nói riêng và c ủa toàn
bộ nền kinh tế nói chung. Vậy, để đánh giá đúng vị trí c ủa ngành thuỷ sản
trong nền kinh tế quốc dân, ta phải tìm hiểu và phân tích thật tỉ mỉ về thị
trườ ng đầ u ra cho sản phẩm c ủa nó.
Ở Việt Nam, tuy ngành thuỷ sản xuất hiện từ rất sớm nhưng việc
phân phối sản phẩm tới tận tay ngườ i tiêu dùng còn nhiều bất cập. Không
phải bất cứ ngườ i dân nào c ũng được dùng những sản phẩm thuỷ sản tươi,
ngon, bổ, phù hợp với túi tiền c ủa mình, trong khi đó ngườ i sản xuất, đôi
khi lại không tiêu thụ được sản phẩm mình là m ra, để nó bị hư hỏng một
cách rất lãng phí. Giải pháp hiệu quả c ủa vấn đề này, đó là làm thế nào để
khai thác và mở rộng thị trườ ng tiêu thụ một cách hợp lý nhất từ đó đưa ra
những biện pháp phù hợp giúp ngành thuỷ sản phát triển góp phần nâng
cao tiềm lực kinh tế của cả nước.
Đó cũng là lý do vì sao em chọn cho mình đề tài c ủa Đề án chuyên
ngành là:"Thị trường đ ầu ra cho sản phẩm thuỷ sản - thực trạng và tiềm
năng"
Kết cấu đề tài gồm ba chương.
Chương I : Lý luận chung về thị trườ ng.
Chương II : Cơ cấu chức năng và đặc điểm c ủa thị trườ ng thuỷ sản.
Chương III: Thị trườ ng sản phẩm thuỷ sản – thực trạng và tiềm năng.
- CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG BẢN CHẤT,
CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG.
1- Bản chất c ủa thị trường.
Về bản chất thị trườ ng là lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó ngườ i
bán và ngườ i mua có thể trao đổi sản phẩ m, dịch vụ cho nhau tuân theo các
quy luật kinh tế hàng hóa.
Như vậy, ta có thể hiểu thị trườ ng được biểu hiện trên ba nét lớn
sau:
- Thị trườ ng là lĩnh vực trao đổi được tổ chức theo quy luật kinh tế
hàng hoá như: quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh....
- Thị trườ ng là sự trao đổi ngang giá và tự do đối với sản phẩm là m ra;
gắn sản xuất với tiêu dùng, buộc sản xuất phải phục tùng nhu cầu tiêu
dùng.
- Một thị trườ ng cân đối thì giá cả của nó phải phản ánh chí phí sản
xuất xã hội trung bình, do đó buộc ngườ i sản xuất phải giả m chi phí, tiết
kiệ m nguồn lực, nâng cao năng suất và chất lượ ng sản phẩm.
2- Chức năng c ủa thị trường.
a- Cơ cấu của thị trường.
Cơ cấu tổ chức c ủa thị trườ ng gồm các nhóm chủ thể kinh tế với
chức năng riêng biệt c ủa nó trong hệ thống thị trườ ng.
Các nhóm chủ thể kinh tế này có quan hệ với nhau thông qua dây
chuyền Marketinh sau:
Ngườ i sản xuất - Ngườ i bán buôn - Người chế biến - Ngườ i bán lẻ -
Ngườ i tiêu dùng.
Mỗi mắt xích hay mỗi nhó m chủ thể trong dây chuyền Marketinh
trên có một chức năng riêng biệt trong hệ thống thị trườ ng:
+ Ngườ i sản xuất: Ngườ i sản xuất bao gồm các doanh nghiệp, công ty
sản xuất, hợp tác xã, hộ gia đình, trang trại có chức năng tạo ra sản phẩm
- trên cơ sở sử dụng các yếu tố đầu vào c ủa sản xuất, tạo ra giá trị mới bổ
sung vào giá trị c ũ được chuyển từ các yếu tố đầu vào.
+ Người bán buôn: Người bán buôn gồm các doanh nghiệp thương
mại, hợp tác xã thương mại, hộ gia đình có chức năng đưa sản phẩ m từ
ngườ i sản xuất đế n ngườ i chế biến và do phải thu gom, bảo quản, sơ
chế...nên tạo thêm giá trị mới bổ sung vào sản phẩm là m tăng giá trị sản
phẩ m.
+ Ngườ i chế biến: Ngườ i chế biến c ũng bao gồm các doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ gia đình có chức năng chế biến sản phẩm từ dạng thô sang
sản phẩm có tính công nghiệp làm chất lượng sản phẩ m tăng thê m và tăng
khả năng cạnh tranh c ủa sản phẩm. Do phải chi phí cho chế biến làm cho
giá trị sản phẩm tăng thêm.
+ Ngườ i bán lẻ: Ngườ i bán lẻ bao gồm các doanh nghiệp, đơn vị tập
thể, tư nhân có chức năng đưa sản phẩ m từ nơi chế biến đế n ngườ i tiêu
dùng cuối cùng. Do phải chi phí cho hoạt động thương mại do đó là m cho
giá trị sản phẩm tăng thêm.
+ Ngườ i tiêu dùng: Ngườ i tiêu dùng là tất cả các thành viên trong xã
hội có chức năng hoàn trả toàn bộ chi phí từ khâu sản xuất đế n khâu dịch
vụ cuối cùng c ủa quá trình sản xuất và tiêu dùng.
· Qua cơ cấu trên, ngườ i ta có thể phân loại thị trườ ng thành: thị
trườ ng các yếu tố đầu vào hay còn gọi là thị trườ ng tư liệu sản xuất và thị
trườ ng sản phẩm hay còn gọi là thị trườ ng hàng tiêu dùng.
b- Chức năng của thị trường.
Bản chất c ủa thị trườ ng còn thể hiện ở những chức năng c ủa nó.Với
tính cách là một phạm trù kinh tế, thị trườ ng có các chức năng cơ bản sau:
Ø Chức năng thừa nhận.
Mọi yếu tố đầ u vào và đầ u ra c ủa sản xuất hàng hoá đề u thực
hiện được việc bán, tức là chuyển quyền sở hữu nó với những giá nhất
định, thông qua một loạt thảo thuận về giá cả, chất lượ ng, số lượ ng,
phương thức giao hàng, nhận hàng...trên thị trườ ng.Chức năng thừa nhận
của thị trườ ng thể hiện ở chỗ ngườ i mua chấp nhận mua hàng hoá, dịch vụ
- của ngườ i bán và do vậy hàng hoá đã bán được. Thực hiện chức năng này
nghĩa là thừa nhận các hoạt động sản xuất hàng hoá và mua bán chúng theo
yêu cầu các quy luật c ủa kinh tế thị trườ ng.
Ø Chức năng thực hiện.
Hoạt động mua và bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm nhất c ủa thị
trườ ng. Trong nền kinh tế thị trườ ng phát triển, mọi yếu tố đầ u vào cho sản
xuất và đầ u ra sản phẩm chủ yếu đề u được tiền tệ hoá thì hoạt động mua và
bán là cơ sở quan trọng quyết định các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ
thể kinh tế. Chức năng thực hiện c ủa thị trườ ng thể hiện ở chỗ, thị trườ ng
thực hiện hành vi trao đổi , thực hiện cân bằng cung cầu từng loại sản
phẩ m hàng hoá, hình thành giá cả và thực hiện giá trị c ủa các sản phẩ m
hàng hoá.
Ø Chức năng điều tiết kích thích.
Nhu cầu thị trườ ng là mục đích đáp ứng của mọi quá trình hoạt động
sản xuất – kinh doanh. Thị trườ ng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy các chủ thể kinh tế. Đây chính là cơ sơ khách quan để thực hiện chức
năng điều tiết kích thích c ủa thị trườ ng. Thực hiện chức năng này, thị
trườ ng có vai trò quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng hợp lý các
nguồn lực khan hiếm c ủa đất nước cho quá trình sản xuất kinh doanh sản
phẩ m.
Ø Chức năng thông tin.
Có nhiều kênh thông tin kinh tế, trong đó thông tin thị trườ ng là rất
quan trọng. Chức năng thông tin thị trườ ng bao gồm: Tổng cung, tổng cầu
hàng hoá, dịch vụ, cơ cấu cung cầu các loại sản phẩm hàng hoá trên thị
trườ ng, chất lượ ng, giá cả hàng hoá, thậm chí cả thị hiếu, cách thức, phong
tục tiêu dùng c ủa ngườ i dân...Những thông tin thị trườ ng chính xác là cơ sở
quan trọng cho việc ra các quyết định.
Các chức năng trên c ủa thị trườ ng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
làm cho thị trườ ng thể hiện đầ y đủ vai trò bản chất c ủa mình. Chức năng
thừa nhận là quan trọng nhất, có tính quyết định. Chừng nào chức năng này
được thực hiện thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng. Nếu chức
- năng thừa nhận đã được thực hiện mà các chức năng khác không thể hiện
ra thì chắc chắn đã có những yếu tố phi kinh tế nào đó can thiệp vào thị
trườ ng làm cho nó biến dạng đi.
3- Vai trò c ủa thị trường.
Thị trườ ng có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển
nền kinh tế thị trườ ng . Thị trườ ng là lĩnh vực trao đổi hàng hoá và dịch vụ
thông qua các quy luật c ủa kinh tế hàng hoá, do đó nó là điều kiện cần và
buộc phải có để kết thúc một chu trình sản xuất kinh doanh, thực hiện lợi
nhuận cho nhà đầ u tư. Thông qua thị trườ ng, tất cả các chủ thể kinh tế đề u
có thể tự do mua những gì mình cần, bán những gì khách hàng muốn c ũng
như mình có thể đáp ứng, nhằ m thu lợi nhuận. Giá cả thị trườ ng được xác
định bởi sự cân bằng cung – cầu, do đó bí quyết để thành công trong kinh
doanh là phải làm sao chiế m được lòng tin c ủa khách hàng, mở rộng thị
trườ ng, thị phần cho sản phẩ m c ủa mình. Ngoài vai trò thực hiện lợi nhuận
cho ngườ i kinh doanh, thị trườ ng còn có vai trò trong việc phân bổ những
nguồn lực khan hiế m đề u cho các ngành, các lĩnh vực và các chủ thể kinh
tế thông qua giá cả thị trườ ng.
Qua những vai trò trên, hơn ai hết những ngườ i là m kinh tế và
những ngườ i nghiên c ứu kinh tế phải đánh giá đúng tầm quan trọng c ủa thị
trườ ng, từ đó có những giải pháp để tìm kiếm và phát triển thị trườ ng cho
sản phẩm c ủa mình một cách phù hợp. Nắm được bí quyết để tiêu thụ tốt,
nhiều sản phẩm trên thị trườ ng là một trong những thành công lớn mà bất
cứ ngườ i làm kinh tế nào c ũng mong đạt được. Nhưng để đạt được thành
công đó không phải là vấn đề đơn giản, mà là cả một quá trình nghiên cứu,
tìm tòi c ũng như chấp nhận mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh do chính thị
trườ ng mang lại.
Việt Nam, từ khi xác định phát triển nền kinh tế theo hướ ng kinh tế thị
trườ ng lấy việc tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật làm nền tảng,
đã đưa nền kinh tế nước ta tiến được một bước tiến đáng kể so với cơ chế
kế hoạch hóa tập trung trước đây. Trong nền kinh tế thị trườ ng định hướ ng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tất cả các thành viên trong xã hội có đủ điều
- kiện kinh doanh theo luật doanh nghiệp Việt Nam đề u được kinh doanh các
mặt hàng mà nhà nước không cấm. Các thông tin thị trườ ng luôn là những
thông tin mở, nắm bắt nó một cách nhanh chóng, nhạy cả m sẽ đem lại
những thành công lớn cho ngườ i là m kinh tế, qua đó góp phần quan trọng
trong việc thúc đẩ y nền kinh tế phát triển, rút ngắn khoảng cách với các
nước công nghiệp hiện đạ i trên thế giới.
CHƯƠNG II
CƠ CẤU, CHỨC NĂNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ
TRƯ ỜNG THUỶ SẢN
I- CƠ CẤU, CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN.
Cũng giống như cơ cấu c ủa thị trườ ng, cơ cấu c ủa thị trườ ng thuỷ
sản gồm các nhóm chủ thể kinh tế với những chức năng nhất định có mối
liên hệ với nhau thông qua hệ thống dây chuyền Marketinh:
Ngườ i sản xuất - Ngườ i bán buôn - Người chế biến - Ngườ i bán lẻ -
Ngườ i tiêu dùng.
Mỗi mắt xích hay mỗi nhóm chủ thể kinh tế trong hệ thống dây
chuyền Marketinh trên có một chức năng riêng trong hệ thống chức năng
chung c ủa thị trườ ng:
· Ngườ i sản xuất.
Ngườ i sản xuất sản phẩm thuỷ sản là những ngườ i làm công việc đánh
bắt cá, tôm, hải sản các loại từ môi trườ ng nội đồng, biển khơi và cả nhóm
ngườ i nuôi trồng hải sản để kinh doanh. Ngườ i sản xuất thuỷ sản có thể là
những doanh nghiệp lớn với những hạm tầu khai thác cá ở ngoài biển khơi,
có thể là trang trại gia đình nuôi trồng thuỷ sản và c ũng có thể là những hộ
gia đình cá thể đánh bắt và nuôi trồng thủy sản nhỏ lẻ...Những ngườ i này
có chức năng cung cấp sản phẩm thuỷ, hải sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu...
· Ngườ i bán buôn.
- Ngườ i bán buôn sản phẩm thuỷ sản có thể là các doanh nghiệp
thương mại, các hộ gia đình và các chủ thể nhỏ lẻ..Những ngườ i này đả m
nhiệ m công việc thu gom sản phẩ m thuỷ sản từ các ngư trườ ng hoặc các
đơn vị kinh doanh nhỏ lẻ trong cả nước để cung cấp trực tiếp cho các đơn
vị chế biến hoặc những ngườ i bản lẻ ở các chợ hàng.
· Ngườ i chế biến.
Ngườ i chế biến thuỷ sản bao gồm các doanh nghiệp, các đơn vị tập
thể, các hộ gia đình cá thể. Họ thực hiện công việc mua gom sản phẩ m
thuỷ sản sơ chế từ những ngườ i bán buôn, sau đó đem chế biến sản phẩ m
thuỷ sản này thành những sản phẩm có tính công nghiệp phục vụ cho nhu
cầu ngày càng cao và đa dạng c ủa con người,
· Ngườ i bán lẻ.
Ngườ i bán lẻ ở đây gồm các đơn vị tập thể, hộ gia đình cá thể có
nhiệ m vụ cung cấp hàng tiêu dùng thuỷ sản từ những đơn vị chế biến hoặc
các đại lý tới tay ngườ i tiêu dùng cuối cùng.
· Ngườ i tiêu dùng.
Ngườ i tiêu dùng là tất cả các thành viên trong xã hội có nhu cầu tiêu
dùng sản phẩ m thuỷ sản. Họ có trách nhiệm thanh toán tất cả các chi phí từ
khi khai thác, chế biến, lưu thông hay nói khác đi là từ khâu sản xuất tới
lúc tiêu dùng.
Các quá trình trên được diễn ra liên tiếp để đả m bảo quá trình sản
xuất được khép kín, đồng vốn được quay vòng nhanh đem lại hiệu quả
kinh doanh cho ngườ i sản xuất thuỷ sản. Qua mỗi một mắt xích, sản phẩm
thuỷ sản lại được tăng thêm giá trị cho đế n khi tới tay ngườ i tiêu dùng cuối
cùng nó trở thành một sản phẩ m hoàn hảo, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu
của ngườ i tiêu dùng. Mỗi một nhóm chủ thể kinh tế trong dây chuyền
Marketinh trên, tuy có chức năng khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ
mật thiết, gắn bó với nhau, sản phẩm c ủa mắt xích này là nguyên liệu đầ u
vào c ủa mắt xích tiếp theo. Vì vậy, tất cả các quá trình lưu thông hàng hoá
qua các mắt xích trong dây chuyền Marketinh có diễn ra thông suốt thì mới
đả m bảo cho thị trườ ng sản phẩ m thuỷ sản được ổn định và phát triển,
- II- ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN.
Do đặc điểm c ủa sản xuất, chế biến và tiêu dùng hàng thuỷ sản, thị
trườ ng đầ u ra cho sản phẩm thuỷ sản là một thị trườ ng đa cấp. Việc tìm
hiểu, phân tích thị trườ ng sản phẩ m đầ u ra cho thuỷ sản là phân tích trạng
thái cân bằng ở mỗi cấp thị trườ ng.
Mỗi một loại sản phẩm thuỷ sản ( sản phẩ m tươi, sản phẩm chế
biến, sản phẩ m khô...) đáp ứng đòi hỏi c ủa thị trườ ng về tất cả các mặt như:
thời gian, không gian, chất lượ ng, giá cả, số lượ ng...Do vậy, chủ thể kinh tế
tham gia trên dây chuyền marketinh cần bỏ ra những chi phí nhất định để
đáp ứng những đòi hỏi nói trên c ủa thị trường. Những chi phí này sẽ được
phản ánh vào giá cả. Khi thị trườ ng chấp nhận giá, gồm giá sản phẩm thuỷ
sản thô cộng với chi phí chế biến, chi phí marketinh thì chênh lệch giữa giá
đó với giá ở cấp thị trườ ng trước đó được gọi là độ cận biên thị trườ ng.Từ
những lý luận trên, để thấy được trạng thái cân bằng c ủa mỗi cấp thị
trườ ng, ta đi tìm hiểu về độ cận biên thị trường qua giá cả của sản phẩm.
1- Độ cận biên thị trường và giá cả sản phẩm thuỷ sản.
Độ cận biên thị trườ ng sản phẩm thuỷ sản là một khái niệm thể hiện
giá trị dôi ra ở mỗi mắt xích nào đó trên dây chuyền marketinh sản phẩm.
Chẳng hạn, ngườ i ta xem xét độ cận biên giá bán lẻ và giá bán buôn hoặc
độ cận biên giữa giá bán buôn và giá bán lẻ . Như vậy là ngườ i ta có thể
xem xét độ cận biên thị trườ ng sản phẩm thuỷ sản giữa bất kỳ hai cấp thị
trườ ng nào đã định giá.
Chúng ta tiếp cận ở phía ngườ i tiêu dùng thủy sản từ hai khía cạnh
của quá trình.
Thứ nhất là với trình độ phát triển hiện nay c ủa nền kinh tế nói
chung và c ủa ngành thuỷ sản nói riêng, ngườ i tiêu dùng các lượ ng sản
phẩ m thuỷ sản chế biến chưa nhiều, nhưng ở nông thôn ngườ i nông dân s ử
dụng sản phẩ m thuỷ sản thô do mình tự đánh bắt hoặc nuôi trồng lấy nhiều
hơn, còn ở thành phố thì ngườ i tiêu dùng các sản phẩ m đã qua chế biến với
số lượ ng lớn hơn. Điều đó chỉ ra rằng những ngườ i tiêu dùng khác nhau có
- những nhu cầu khác nhau về qui cách, mức chất lượ ng và dịch vụ cung cấp
hàng hoá khác nhau.
Thứ hai là xét về lâu dài, khi thu nhập và mức sống tăng lên cùng
với s ự phát triển cao hơn c ủa nền kinh tế, nhu cầu c ủa ngườ i tiêu dùng ở cả
thành thị và nông thôn đề u tăng lên đối với các dịch vụ làm tăng giá trị của
sản phẩm thuỷ sản. Kết quả là trong cơ cấu giá mua hàng thuỷ sản c ủa
ngườ i tiêu dùng, phần trả cho cho các dịch vụ có chiều hướ ng tăng lên, còn
trả cho sản phẩ m thô, sơ chế có chiều hướ ng giả m xuống. Cùng với sự phát
triển kinh tế, độ cận biên thị trườ ng sẽ tăng lên. Độ cận biên thị trườ ng
giữa giá bán lẻ và giá tại các cơ sơ đánh bắt ( ngư trườ ng, trang trại nuôi
cá, hộ gia đình...) là sự chênh lệch giữa giá bán lẻ cuối cùng cho ngườ i tiêu
dùng cuối cùng và giá mà ngườ i sản xuất thuỷ sản nhận được khi bán sản
phẩ m thuỷ sản sơ chế.
Có thể coi nhu cầu ở cấp thị trườ ng bán lẻ bao gồm hai phần: Nhu
cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến và nhu cầu đối với một
loạt các dịch vụ. Nhu cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến gọi
là nhu cầu phái sinh, xuất phát từ nhu cầu ban đầ u ở cấp bán lẻ có kết hợp
cả sản phẩ m thuỷ sản thô và dịch vụ. Đườ ng cầu này được tạo ra khi đem
mỗi điểm trên đườ ng cầu ban đầ u trừ đi giá trị về các dịch vụ. Tương tự
như vậy, đườ ng cung phái sinh c ũng được tạo ra khi đem các giá trị trên
đườ ng cung ban đầ u cộng với các giá trị về các dịch vụ mà ngườ i tiêu dùng
yêu cầu đối với ngườ i sản xuất. Giao điể m c ủa các đườ ng cung và cầu này
sẽ tạo nên giá cả của sản phẩm thuỷ sản trên thị trườ ng.
Khi ngườ i tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho độ thoả dụng mà hệ thống
thị trườ ng tạo ra về thời gian, không gian, hình thức sản phẩm...thì ở đây
độ cận biên thị trườ ng phản ánh mức chuẩn bị đầ y đủ thoả dụng đó cho
ngườ i tiêu dùng. M ức độ và các loại chi phí cho s ự “ chuẩn bị “ này hoàn
toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trườ ng
Muốn phân tích đầ y đủ và cụ thể ta phải đi xét hai trườ ng hợp cụ thể
đó là:
- Trườ ng hợp độ cận biên thị trườ ng không thay đổi ( trong thời gian
ngắn) và trườ ng hợp độ cận biên thị trườ ng thay đổi ( xét trong khoảng thời
gian dài).
2- Sự hình thành giá cả theo thời vụ.
Ngành nông nghiệp nói chung và thuỷ sản nói riêng là một ngành sản
xuất vật chất có nhiều đặc điểm riêng, trong đó tình thời vụ khá cao là nét
đặc trưng nhất. Tình thời vụ c ủa sản xuất thuỷ sản thể hiện rõ ở sự biến
động c ủa giá cả thị trườ ng theo thời vụ, đặ c biệt là tính không ổn định c ủa
giá cả thị trườ ng đầ u ra. ở đây, việc phân tích thị trườ ng đầ u ra cho sản
phẩ m thuỷ sản tập trung vào sự hình thành giá cả thị trườ ng theo thời gian.
Do đặc của ngành thuỷ sản, việc sản xuất kinh doanh phải dựa trên
các qui luật sinh học động thực vật thuỷ sinh nên tính mùa vụ c ủa ngành
thuỷ sản là khá cao. Vào đúng mùa vụ, ngườ i sản xuất cung ứng sản phẩm
theo nhu cầu c ủa ngườ i tiêu dùng và do đó giá cả được hình thành dựa trên
quan hệ cung cầu. Nhưng vào lúc trái vụ, trong khi nhu cầu của ngườ i tiêu
dùng là không thay đổi thì ngườ i sản xuất lại không có sản phẩ m để bán
hoặc do chi phí để dự trữ sản phẩm thuỷ s ản là quá lớn làm cho giá cả của
sản phẩm trên thị trườ ng tăng lên, và ta dễ dàng nhận thấy là mức tăng lên
của giá phải lớn hơn chi phí mà ngườ i cung ứng bỏ ra để dự trữ sản phẩm(
ở đây ta phải hiểu là sản phẩm thuỷ sản rất khó dự trữ vì đặc tính mau
ươn, chóng hỏng c ủa nó..)
Qua những phân tích trên ta thấy rằng tính mùa vụ trong sản xuất
thuỷ sản đã là m cho giá cả c ủa sản phẩm thuỷ sản thay đổi rất lớn theo thời
gian. Ngườ i sản xuất, cung ứng sản phẩ m cần nắ m rõ đặc điể m này để có
chiến lược kinh doanh phù hợp sao cho mức lợi nhuận từ hoạt động đầ u tư
của mình là lớn nhất.
3- Tính độc quyền c ủa thị trường thuỷ sản.
Trên thị trườ ng thuỷ sản ta thấy thườ ng chỉ tồn tại dạng độc quyền
nhất thời. Tính chất độc quyền này do trình độ sản xuất c ủa ngành thuỷ sản
chưa cao mang lại,thêm vào đó ngành thuỷ sản lại là ngành sản xuất phân
- tán ở nhiều vùng trên cả nước dẫn tới tình trạng độc quyền nhất thời là
không tránh khỏi.
Ta hiểu, độc quyền nhất thời trên thị trườ ng thuỷ sản như sau: Với
một hệ thống các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố ở khắp nơi trên cả nước,
trong khi đó trình độ phát triển c ủa nền kinh tế nói chung và c ủa ngành
thuỷ sản nói riêng cón thấp dẫn tới trang thiết bị vận chuyển, cơ sở chế
biến c òn thiếu thốn lạc hậu, cả một vùng rộng lớn sản xuất và đánh bắt mới
có một cơ sở mua gom, chế biến. Điều này dẫn tới sự độc quyền trong mua
gom sản phẩm và phân phối các sản phẩ m chế biến c ủa các cơ sơ nói trên.
Tuy nhiên, đây chỉ là tình trạng độc quyền nhất thời, khi trình độ phát triển
của nền kinh tế cao hơn, sự trang bị cho ngành thuỷ sản hiện đạ i hơn, trình
độ sản xuất, đánh bắt c ũng như chế biến c ủa ngành thuỷ sản ở mức độ hiện
đại hơn, các cơ sở mua gom được xây dựng nhiều hơn thì tình trạng độc
quyền này sẽ mất đi và như vậy việc ép giá của ngườ i mua với ngườ i sản
xuất, nuôi trồng sẽ không còn nữa, tiến tới một thị trườ ng cạnh tranh hoàn
hoả cho sản phẩm thuỷ sản c ủa Việt Nam.
4- Thị trường sản phẩm trong nước c òn mang tính nhỏ, lẻ.
Với vị thế c ủa hệ thống bờ biển và sông ngòi, ao hồ c ủa Việt Nam
dẫn tới các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố rộng khắp trên cả nước. Trình
độ phát triển c ủa ngành thuỷ sản chưa cao làm cho hệ thống thị trườ ng sản
phẩ m thuỷ sản c ũng phân bố rộng khắp trên cả nước với tính chất là nhỏ và
lẻ. Ở trong nước, sản phẩm thuỷ sản được bán chủ yếu tại các chợ ở các địa
phương với quy mô không lớn. Các khu chế biến cung ứng sản phẩ m thuỷ
sản lớn chưa được hình thành hoặc đang manh nha, không đáng kể. Do
vậy, hình thành nên một mạng lướ i hệ thống thị trườ ng nhỏ và lẻ phân bố
rộng trên các vùng trong cả nước.
- CHƯƠNG III
THỊ TRƯ ỜNG SẢN PHẨM THUỶ SẢN
THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG
I- THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA.
1- Cung - cầu và giá c ủa các sản phẩm thuỷ sản trong nước.
Trong một vài năm gần đây, ngành thuỷ sản Việt Nam phát triển rất
mạnh vươn lên là một ngành lớn trong hệ thống kinh tế c ủa cả nước. Năm
2000,tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản đạt 1.4 tỷ USD chiế m tỷ trọng gần 10%
kim ngạch xuất khẩu c ủa cả nước. Đế n năm 2003,ngành thuỷ sản quyết
tâm đạt chỉ tiêu 2.3 tỷ USD đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc
gia hàng đầ u về xuất khẩu thuỷ sản. Tuy vậy, có một thực trạng đặt ra là
ngành thuỷ sản đã quá chú trọng tới xuất khẩu, trong khi đó theo nghiên
cứu của nhó m chuyên gia c ủa FAO tiến hành tại Việt Nam từ cuối 2001
đến nay, thông qua 85 cuộc phỏng vấn và 2000 cuộc điều tra mẫu với các
đối tượ ng ngườ i tiêu dùng khác nhau ở 12 tỉnh, thành c ủa cả ba miền thì
có tới 70% lượ ng thuỷ sản hàng năm đượ c tiêu thụ tại thị trườ ng nội địa.
Như vậy, có thể khẳng định thị trườ ng trong nước cho sản phẩm thuỷ sản
là rất lớn, cần được chú trọng phát triển.
Vì là nghiên c ứu nhấn mạnh vào thị trườ ng trong nước nên ngườ i ta
đặc biệt quan tâm đế n các vấn đề vốn dĩ c òn yếu ké m c ủa Việt Nam như
cách tiếp cận thị trườ ng ở ngay tại vùng nuôi, cảng cá c ũng như nhu cầu và
tiêu thụ các sản phẩ m thuỷ sản ở cấp độ ngườ i tiêu dùng liên quan đế n các
hoạt động c ủa ngườ i bán sỉ, lẻ và các cơ sở chế biến. Tính đế n nă m 2002,
tổng số dân cả nước khoảng 80 triệu(17 triệu hộ gia đình), trong đó có
khoảng 62.315 triệu ngườ i ( chiếm 77%) đang sống ở vùng nông thôn, cho
thấy phần lớn ngườ i tiêu dùng trong nướ c hiện đang sống ở vùng nông
thôn. Về mặt dân tộc, tôn giáo không thấy có rào cản hoặc hạn chế nào đối
với ngườ i tiêu thụ thuỷ sản vì phần lớn dân cư thuộc dân tộc Kinh và theo
- đạo Phật hoặc các tôn giáo khác. Tất cả những khía cạnh này tạo ra cơ sở
có lợi cho tiêu thụ thuỷ sản trong ngườ i tiêu dùng nội địa dựa vào nghề
nghiệp và thu nhập c ủa ngườ i dân, đặc biệt là phải ưu tiên cho chiến lược
phát triển thị trườ ng vào ngườ i tiêu dùng ở đô thị và đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của họ.
Xét về hành vi tiêu thụ thuỷ sản c ủa ngườ i tiêu dùng dựa vào thói
quen ăn uống thì hộ gia đình được coi là đơn vị tiêu dùng cơ bản, hầu hết
các thành viên trong gia đình ăn tại nhà(95% thành viên có mặt trong bữa
tối) do đó thườ ng thấy hành vi tiêu thụ thuỷ sản trong mô hình tiêu thụ hộ
gia đình. Ngoài ra có tới 34.4% số ngườ i ăn ở các hàng ăn bình dân. Từ
đấy cho thấy rằng, sản phẩm thuỷ sản được chấp nhận rộng rãi trong ngườ i
tiêu dùng. Có tới 79.7% số ngườ i rất thích ăn cá và không có sự khác biệt
về vùng, miền nơi họ đang sống, chỉ có một số rất ít nói rằng họ không
thích.
Vậy mô hình tiêu thụ thuỷ sản nào là phù hợp với ngườ i tiêu dùng
trong nước? Về tần suất mua hàng, trong một gia đình ngườ i phụ nữ
thườ ng đả m trách vai trò này ( 83.8%). Cứ hai ngày ngườ i ta đi mua thuỷ
sản một lần, mỗi lần mua khoảng chừng 1kg, ở thành thị ngườ i tiêu dùng
sẵn sàng bỏ trung bình 20 ngàn đồng/lần còn ở khu vực cận đô thị và nông
thôn các con số tương ứng là 15 và 10 ngàn đồng/lần. Nói tó m lại, hiện nay
mức tiêu dùng thuỷ sản đủ lớn trong các hộ gia đình, tuy nhiên có hạn chế
là đa số thuỷ sản tiêu dùng có trọng lượ ng dướ i 1 kg.
Nhu cầu tiêu dùng hàng thuỷ sản trong nước là lớn như vậy, song phần
lớn là chưa được đáp ứng hoặc đáp ứng không đầ y đủ, nếu biết khai thác
tiề m năng về thị trườ ng trong nước sẽ còn lớn hơn rất nhiều. Ở nông thôn,
ngoài sản phẩm thuỷ sản do ngườ i nông dân tự đánh bắt được qua hệ thống
sông ngòi , ao hồ tự nhiên thì nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản ngon c ũng khá
lớn nhất là trong điều kiện hiện nay, do việc đánh bắt bừa bãi, không khoa
học đã làm cho lượ ng cá, tôm ở các dòng sông lâ m vào tình trạng cạn kiệt.
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đớ i, á nhiệt đới, ở các tỉnh phía Bắc pha
trộn tính ôn đớ i. Đặc điể m này tạo cho ngành thuỷ sản một số thuận lợi đó
- là: sự phong phú về giống loài sản phẩ m dẫn tới sự đa dạng trong các mặt
hàng thuỷ sản đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế và xuất khẩu; việc nuôi
trồng thuỷ sản diễn ra quanh năm làm cho thị trườ ng thuỷ sản luôn phong
phú.
Một số loại sản phẩ m thuỷ sản nội đồng được ưa chuộng trên thị
trườ ng như:
- Đối với vùng nông thôn: cá mè, cá chép, cá bống, cá trắm cỏ, trắm
đen,trê, rô phi, tôm đồng, trôi ấn độ....
- Đối với vùng thành phố và đô thị thì những sản phẩm được tiêu dùng
chủ yếu là: Cá ba sa, trê lai, trắm cỏ, tôm rảo, chim trắng, chim hồng, cá
nục, cá đối, mực, cua, ram.....
Để thấy được sự đa dạng c ủa thị trườ ng thuỷ sản trong nước ta tìm hiểu
một vài thị trườ ng cá chủ yếu ở các, vùng, miền trong cả nước:
a- Thị trường miền Bắc
Ở miền Bắc, thị trườ ng cá chủ yếu là ở các chợ, đối với vùng nông
thôn thì chợ cá có quy mô nhỏ, vừa. Sản phẩ m chủ yếu là các loài cá nội
đồng, tôm, sản phẩm biển không nhiều. M ột vài con số thống kê cho thấy
thị trườ ng tôm ở miền Bắc ( gồm 8 tỉnh như: Quảng Ninh, Hải Phòng,
Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) trong mấy năm gần
đây phát triển khá nhanh:
Năm 1998 nuôi tôm trên diện tích 6153 ha cho 838 tấn, năm 1999:
9155 ha cho 1612 tấn, nă m 2000: 14305 ha cho 3090 tấn. Đế n năm 2002
trở lại đây, mô hình nuôi tô m công nghiệp( thâm canh), bán thâm canh với
năng suất cao đã phát triển ở các tỉnh Quảng Ninh, Thái Bình,...đã làm cho
thị trườ ng tô m được mở rộng và phong phú hơn. Khối lượ ng tô m cung cấp
cho nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước tăng nhanh đáng kể: năm 2002,
sản lượ ng tôm sú c ủa 8 tỉnh miền Bắc đã đạt 12805 tấn cao gấp 3 lần sản
lượ ng tôm năm 2000 với đà phát triển trên, năm nay Bộ Thuỷ sản dự kiến
sẽ phấn đấ u tổ chức nuôi đạt sản lượ ng 15000 tấn và kết quả này sẽ được
tổng kết vào cuối năm nay.
- Riêng đối với sản phẩm cá ba sa, sau thất bại tại thị trườ ng M ỹ Agifish
đã quyết định mở rộng, tìm kiếm thị trườ ng ở ngoài Bắc cho sản phẩ m này
và đã chọn Công ty TNHH Thái Bình An Giang-một đối tác có bề dày về
tiêu thụ sản hàng thuỷ sản là m tổng đạ i lý phân phối độc quyền cá ba sa tại
khu vực phía Bắc. Thành lập từ tháng 12/2002 (trụ sở tại 345 phố Vọng-Hà
Nội), đến nay Thái Bình An Giang đã có 42 đại lý phân phối sản phẩ m từ
Nghệ An, Thanh Hoá đế n Quảng Ninh, Lạng Sơn,... Các mặt hàng mang
thương hiệu Agifish rất đa dạng và phong phú, với danh mục dài hơn 50
món, gồm 4 nhóm sản phẩm chính: khai vị, là m sẵn, khô, sơ chế như lạp
xưở ng cá ba sa, bánh phồng, khô cá, chà bông, kho tộ, ốc biêu nhồi ba sa
hoành thánh, cải cuộn ba sa... Các bà mẹ biết đế n bởi nó có giá trị dinh
dưỡng rất cao đặc biệt là thành phần DHA, ô mêga3 giúp tăng c ườ ng trí
não, chống lão hoá. Đa số khách hàng đề u cho rằng, các món ăn cá ba sa
của Agifish đa dạng hấp dẫn, tiện dụng cho nhu cầu ngườ i tiêu dùng trong
thời đạ i công nghiệp.
Những sản phẩm được ngườ i tiêu dùng Hà Nội mua nhiều nhất là cá
kho tộ, philê đông lạnh, chả quế, canh chua ba sa.
Khảo sát thực tế ở một số đại lý phân phối tại Hà Nội cho thấy tình
hình kinh doanh c ủa công ty nói chung tại các đạ i lý nói riêng là rất khả
quan. Doanh thu tại một số đạ i lý là 25-30 triệu đồng/tháng, siêu thị 45
triệu đồng/tháng. Đa số ngườ i dân Hà Nội đã bắt đầu quen với tên tuổi loại
thực phẩm này. Trước đây, Thanh Trì là địa bàn thườ ng xuyên trung
chuyển cá tươi cho ngườ i dân trong thành phố, cá nhiều, giá lại rẻ nhưng
khi sản phẩm c ủa Agifish xuất hiện trên thị trườ ng, ngườ i dân nơi đây đã
và thườ ng xuyên dùng cá ba sa cho bữa ăn hàng ngày. Hiện nay, Thái Bình
An Giang đã có một số mạng lướ i phát triển thị trườ ng vững mạnh tại một
số tỉnh, tạo tiền đề để thương hiệu Agifish thâ m nhập đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ trong mọi thành phần dân cư. Mở rộng thị trườ ng, mở rộng mạng lướ i
kinh doanh, đặc biệt tại một số tỉnh, nhằ m đưa sản phẩm cá ba sa đến được
với mọi ngườ i dân một cách nhanh, hiệu quả, chất lượ ng và chiếm thị phần
- ngày càng lớn trên thị trườ ng nội địa là tham vọng c ủa Thái Bình An Giang
nói riêng và của ngườ i sản xuất thuỷ sản nói chung.
b- Thị trường miền Trung.
Đối với miền Trung, do điều kiện địa lý tạo nên cho vùng một lợi thế
lớn để phát triển thuỷ sản dẫn tới các thị trườ ng thuỷ sản rất đa dạng.
Việc đánh bắt hải sản ngoài biển khơi phát triển hơn các vùng khác. Các
chợ cá miền trung thườ ng sôi động và mang nhiều nét riêng. Trước hết, đó
chủ yếu là những chợ bán buôn, là nơi trung chuyển sản phẩm đánh bắt,
nuôi trồng từ những ngư dân qua tay các chủ nậu vựa, ngườ i mua buôn.
Phải qua một vài bàn tay nữa sản phẩm mới đế n được với tay ngườ i tiêu
dùng. Thứ hai, các chợ này đề u hoạt động từ nửa đê m đế n sáng. Ví dụ như
tại cảng cá Thuận Phước-cảng cá lớn nhất của Đà Nẵng- là một trong
những cảng cá được xây dựng trong dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá
mới đưa vào sử dụng.
Cập cảng Thuận Phước ngoài tàu thuyền bản địa còn là nơi tập trung
nguồn nguyên liệu từ các nơi khác đế n cung cấp cho thị trườ ng trong nước
và xuất khẩu. Thời gian hoạt động chính c ủa cảng từ 2 giờ đế n 11 giờ, cao
điể m từ 3 đế n 7 giờ. Tuỳ thuộc vào lượ ng cá đưa về từng ngày, trung bình
có 1000-2000 ngườ i tham gia vào các hoạt động buôn bán ở đây. Cảng có
Ban quản lý và những đơn vị phục vụ như: đội bảo vệ, đội thu phí, đội vệ
sinh môi trườ ng, tổ dịch vụ điện nước, văn phòng giao dịch. Ngoài ra còn
tổ giữ hàng, ngườ i gánh thuê, tổ cho thuê bạt thuê cân, đội xuồng vậ n
chuyển nhỏ. Nghĩa là moị nhu cầu dịch vụ đều được đáp ứng.
Các chủ nậu có vai trò rất quan trọng. Họ là những ngườ i cung ứng nhu
yếu phẩm, nhiên liệu cho tầu cá, đồng thời cũng là ngườ i tiếp nhận hàng từ
các tàu thuyền cập cảng giao cho ngườ i buôn, chịu trách nhiệ m thu tiền
giao cho các chủ thuyền. Họ thườ ng là ngườ i địa phương, có nhiều kinh
nghiệm, manh mối trong là m ăn, gồm khoảng 20 đế n 30 ngườ i. Ngườ i
buôn được phân làm hai loại, những ngườ i buôn với số lượ ng lớn tập trung
để xuất khẩu và những ngườ i mua với lượng nhỏ hơn để tiêu thụ tại địa
phương. Quang cảnh c ủa chợ cá Thuận Phước càng về sáng càng sôi động.
- Tại miền Trung, tuy nghề thuỷ sản phát triển từ khá sớm, rất đông các
hộ tham gia làm thuỷ sản nhưng ngoài cảng Thuận Phước c ủa Đà Nẵng là
khá lớn thì các chợ cá khác chỉ vừa và nhỏ như cảng cá Cù Lao-Nha Trang.
Tại đây, lượ ng hàng nhập rất thưa thớt, một vài năm gần đây tàu không đưa
cá về cảng nữa do diện tích cảng chật hẹp, không có đủ các cơ sở dịch vụ
hậu cần và những tư thương tại đây mua sản phẩm với giá không cao. Hiện
nay, Nha Trang đang bắt tay vào để xây dựng một cảng mới-cảng Hòn Rớ
với hy vọng thị trườ ng sản phẩm thuỷ sản ở đây phát triển hơn. Giá cá và
hàng thuỷ sản khác thườ ng xuyên giao động nhưng ở mức độ không lớn.
Tuỳ theo lượ ng hàng về bến hay nhu cầu tiêu thụ mà sản phẩm có giá khác
nhau, nhưng được chia làm hai nhó m rõ rệt: nhóm sản phẩm cao cấp có giá
trị rất cao chỉ dành cho xuất khẩu và một s ố ít được đưa vào các nhà hàng,
chẳng hạn như cá mú 70000 đồng/kg, ngừ đại dương 72000 đồng/kg, mực
ống 70000 đồng/kg...nhóm c òn lại có giá trị phải chăng, phù hợp với tiêu
thụ nội địa như cá dũa 7000 đồng/kg, cá thu 22000 đồng/kg.
c- Thị trường miền Nam.
Thị trườ ng miền Nam, đây là một thị trườ ng hết s ức đa dạng và phong
phú, có thể nói là thị trườ ng rộng và lớn nhất trong cả nước. Với lợi thế tự
nhiên nhiều ao hồ, cộng với một hệ thống sông ngòi dày đặc, miền Nam là
một nơi lý tưở ng để nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển. Trước đây, trong
những nă m tháng chiến tranh, khi mà nền kinh tế nước nhà còn nghèo nàn,
lạc hậu, ngườ i dân đồng bằng Nam bộ đã coi nghề đánh bắt cá là nghề nuôi
sống họ qua những năm tháng đói khổ. Giờ đây, khi đất nước đang trên đà
phát triển, ngườ i dân đồng bằng sông Cửu Long đã biết tận dụng những lợi
thế do thiên nhiên ưu đã i để phát triển nghề cá một cách khá thành công,
điều đó được minh chứng qua s ự sôi động của thị trườ ng thuỷ sản. Các sản
phẩ m thuỷ sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng và phong
phú bao gồm tất cả các loại cá, tôm nội đồng và hải sản biển như: cá trê lai,
cá quả, cá rô phi, cá tra, cá ba sa, tô m nội đồng và tô m biển, đặc biệt ở
đồng bằng sông Cửu Long có nghề nuôi cá lồng, bè rất phát triển cung cấp
rất nhiều sản phẩm thuỷ sản cho thị trườ ng trong nước và nước ngoài.
- Một số thị trườ ng sản phẩm thuỷ sản lớn c ủa khu vực phía Nam là: Bạc
Liêu, An Giang, TP Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Bà R ịa- Vũng Tàu....
Ở Bạc Liêu, với diện tích nuôi trồng thuỷ sản lên tới 38000 ha, bờ biển
dài 56 km, diện tích các ngư trườ ng rộng hàng chục ngàn km2...Bạc Liêu
là một trong những vùng biển có trữ lượ ng hải sản lớn nhất c ủa cả nước,
cung cấp cho thị trườ ng một lượ ng lớn sản phẩm hải sản các loại, đặc biệt
là trong đó có các loại tôm chiếm đế n 20% tổng sản lượ ng khai thác c ủa
vùng. Trong hai nă m qua ngành thuỷ sản Bạc Liêu đã có tốc độ tăng
trưở ng về năng lực sản xuất, sản lượ ng và giá trị kim ngạch xuất khẩu
(khoảng 30%/năm)
Đối với ngành thuỷ sản c ủa Bà R ịa-Vũng Tàu, sản lượ ng hải sản đánh
bắt đạt51.845 tấn, sản lượ ng nuôi trồng thực hiện được 735 tấn. Nói chung,
ngành thuỷ sản c ủa nơi đây khá phát triển, đặc biệt là ngành nuôi trồng,
đánh bắt, chế biến xuất khẩu và công tác dịch vụ hậu cần...
Trong năm qua, tuy ngành thuỷ sản c ủa đồng bằng sông C ửu Long có
nhiều biến động, nhưng nói chung thị trườ ng c ủa nó vẫn rất sôi động và thu
hút đối với nhà đầ u tư ngành thuỷ sản, và có thể khẳng định rằng đây vẫn
là một thị trườ ng hấp dẫn, mang lại lợi nhuận cao cho những ngườ i đầ u tư
vào lĩnh vực thuỷ sản, trở thành một thành viên trong kênh phân phối c ủa
san phẩm thuỷ sản.
2- Những yếu tố ảnh hưởng tới thị trường thuỷ sản nội địa.
- Thứ nhất: Bên cạnh những thuận lợi mà thiên nhiên đã ưu đã i, ban
tặng cho nước ta những điều kiện tuyệt vời để phát triển ngành sản xuất
thuỷ sản, thì đồng thời c ũng chính những yếu tố tự nhiên đã làm cho ngành
thuỷ sản nước ta gặp không ít những rủi ro do hạn hán, bão, lụt gây nên.
Tất cả những điều đó là m cho ngành sản xuất thuỷ sản luôn ở thế bấp bênh
dẫn tới thị trườ ng sản phẩm thuỷ sản luôn biến động bất thườ ng, giá cả
hàng thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên này. Khi thời tiết
thuận lợi, ngườ i sản xuất nuôi trồng, đánh bắt được nhiều làm cho lượ ng
hàng thuỷ sản cung cấp trên thị trườ ng nhiều hơn, giá cả rẻ hơn. Ngược lại,
lúc mất mùa do thiên tai gây nên, lượ ng cung sản phẩ m trên thị trườ ng ít
- hơn đẩ y giá hàng hoá cao lên. Và những biến động do thiên tai gây nên này
là khó tránh khỏi đồng thời c ũng khó biết trước được. Đây là một trong
những nguyên nhân khách quan dẫn tới s ự biến động c ủa thị trườ ng sản
phẩ m thuỷ sản.
- Thứ hai: Do điều kiện phát triển kinh tế của nước ta chưa cao, trình
độ phát triển c ủa ngành thuỷ sản còn ở mức lạc hậu so với thế giới dẫn tới
thị trườ ng c ủa sản phẩm thuỷ sản chưa phát triển ở trình độ cao. Những sản
phẩ m thuỷ sản khi đánh bắt, nuôi trồng với số lượ ng nhiều nhưng khâu bảo
quản, chế biến còn chưa đáp ứng được một cách thoả đáng làm cho hàng
thuỷ sản nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và
khó tính c ủa ngườ i tiêu dùng trong c ũng như ngoài nước. Tình trạng công
nghệ bảo quản, chế biến, thu gom còn thấp dẫn tới nhiều sản phẩm thuỷ
sản sau khi đánh bắt bị hỏng, ôi làm lãng phí một lượ ng đáng kể, và đây là
một nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưở ng trực tiếp tới sự phát triển c ủa
thị trườ ng thuỷ sản trong nước.
-Thứ ba: Do những biến động về kinh tế trong khu vực và trên thế giới
làm cho sản phẩ m thuỷ sản Việt Nam trên thị trườ ng thế giới khó tiêu thụ
và điều này c ũng ảnh hưở ng trực tiếp tới s ự biến động c ủa thị trườ ng thuỷ
sản trong nước. Sản phẩm hàng hoá không xuất khẩu được dẫn tới lượ ng
tạm trữ trong nước c ũng như lượ ng hàng cung cấp cho thị trườ ng trong
nước tăng lên, giá sản phẩm rẻ, gây nên những biến động không nhỏ trên
thị trườ ng.
- Thứ tư: Một vài nă m gần đây, để tạo điều kiện cho ngành sản xuất
thuỷ sản Nhà nước ta đã cho phép ngành thuỷ sản tự tìm kiếm thị trườ ng
trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm đồng thời tự trang trải kinh phí
để phát triển do đó đã là m cho thị trườ ng s ản phẩm c ủa thuỷ sản được mở
rộng và có những bước phát triển đáng kể.
Đó là một vài nguyên nhân chính ảnh hưở ng trực tiếp tới sự biến động
và phát triển c ủa thị trườ ng thuỷ sản nội địa của nước ta.
3- Những tiềm năng c ủa thị trường thuỷ sản nội địa.
nguon tai.lieu . vn