Xem mẫu

  1. Ministry of Agriculture & Rural Development Báo Cáo Tiến Độ Dự Án 023/06VIE MS6: BÁO CÁO SÁU THÁNG LẦN THỨ TƯ 11th July, 2009 1
  2. Mục lục 1. Thông tin về Viện _____________________________________________________ 3 2. Tóm tắt Dự án ________________________________________________________ 4 3. Tóm lược việc thực hiện ________________________________________________ 4 4. Giới thiệu & Nền tảng _________________________________________________ 6 5. Tiến độ cho đến nay ___________________________________________________ 8 5.1 Điểm nổi bật về thực thi ___________________________________________________ 8 5.2 Lợi ích cho tiểu nông_____________________________________________________ 29 5.3 Xây dựng nhân lực ______________________________________________________ 29 5.4 Truyền thông ___________________________________________________________ 29 5.5 Quản lý dự án___________________________________________________________ 30 6. Báo cáo về các vấn đề gặp phải__________________________________________ 30 6.1 Môi trường _____________________________________________________________ 30 6.2 Giới và xã hội ___________________________________________________________ 30 7. Các vấn đề về thực hiện và ổn định dự án _________________________________ 31 7.1 Các trở ngại cần nêu _____________________________________________________ 31 7.2 Giải pháp ______________________________________________________________ 31 7.3 Sự bền vững ____________________________________________________________ 31 8. Các bước chính sắp tới ________________________________________________ 31 9. Kết luận ____________________________________________________________ 32 10. Xác nhận chính thức ________________________________________________ 33 2
  3. 1. Thông tin về Viện 023/06VIE Tên dự án Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long Viện phía Việt Nam Ts.Cao văn Phụng Trưởng dự án phía Việt Nam Murdoch University Tổ chức của Úc Dr. Richard Bell Nhân sự người Úc Tháng tư 2007 Ngày bắt đầu Tháng hai 2010 Ngày kết thúc (theo văn bản) Tháng tám 2010 Ngày kết thúc (xin điều chỉnh) March 2008- November 2008 Báo cáo về khoảng thời gian Nhân viên cần liên hệ In Australia: Team Leader Richard Bell +61 8 93602370 Name: Telephone: Professor +61 8 93104997 Position: Fax: Organisation Murdoch University R.Bell@murdoch.edu.au Email: In Australia: Administrative contact Richard McCulloch +61 8 93607566 Name: Telephone: General Manager Position: Fax: Organisation Murdoch Link R.Mcculloch@murdoch.edu.au Email: Ở Việt Nam Cao văn Phụng +84 71 861452 Họ và tên: Telephone: Trưởng bộ môn Khoa học +84 71 861457 Chức vụ: Fax: Đất Viện lúa đồng bằng sông phungcv@yahoo.com.vn Cơ quan Email: Cửu Long caovanphung@hcm.vnn.vn 3
  4. 2. Tóm tắt dự án Nuôi cá ao hầm là ngành chính ở đồng bằng sông Cửu Long, nhưng nước thải và chất thải rắn xả ra từ ao nuôi cá gây ô nhiễm cho kênh rạch. Kết quả lấy mẫu nước cho thấy tác động đo đạc được của nước thải trên chất lượng dòng nước tối thiểu 100 mét ngược dòng và 500 mét xuôi dòng nước tại hai địa điểm nghiên cứu ở tỉnh An Giang. Trị số đo đạc được làm giảm chất lượng nước do gia tăng các thông số COD, NH4 và TSS. Điều kiện nước lũ mùa mưa làm giảm bớt tác động nhưng vẫn không ngăn chận được chất lượng nước vượt quá tiêu chuẩn TCVN 5942-1995 hoặc trị số cho phép nước thải ao nuôi cá thải theo thông tư số 02 của Bộ Thủy Sản. Thí nghiệm đồng ruộng về việc sử dụng chất thải rắn cho canh tác lúa được thực hiện vào mùa mưa năm 2007 và tiếp tục cho đến năm 2008 và 2009 tại Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. Vụ 4 trồng vào mùa khô năm 2009. Không có sự khác biệt nào về năng suất lúa ở tất cả các nghiệm thức trong mùa khô năm 2009. Ba vụ trước cũng cho kết quả tương tự. Nghĩa là có thể bớt 1/3rd đến 2/3rd lượng phân vô cơ ở mức khuyến cáo khi sử dụng chất thải rắn ở liều lượng 1-3 t/ha. Ba thí nghiệm (1 tại Viện lúa và 2 huyện Châu Phú & Phú Tân của tỉnh An Giang) nghiên cứu hiệu quả của việc giảm lượng phân bón hóa học trên năng suất lúa được tưới bằng nước thải ao nuôi cá. không có sự khác biệt nào về năng suất lúa tại cả 3 địa điểm CLRRI, Châu Phú và Phú Tân. Các kết quả này một lần nữa cho thấy rằng hàm lượng dinh Tóm chứt việcnthc thảihiện cá đủ để thay thế phần lớn đạm và có lẻ kể cả 3. dưỡng tắ a trong ướ ực ao nuôi lân và kali cần cho nhu cầu tăng trưởng của cây lúa, giúp cho nông dân trồng lúa tiết kiệm chi phí rất đáng kể. Nuôi cá ao hầm là ngành công nghiệp chính ở đồng bằng sông Cửu Long, nhưng nước thải và chất thải rắn xả ra từ ao nuôi cá gây ô nhiễm cho kênh rạch. Kết quả lấy mẫu nước cho thấy tác động đo đạc được của nước thải trên chất lượng dòng nước tối thiểu 100 mét ngược dòng và 500 mét xuôi dòng nước tại hai địa điểm nghiên cứu ở tỉnh An Giang. Trị số đo đạc được làm giảm chất lượng nước do gia tăng các thông số COD, NH4 và TSS. Điều kiện nước lũ mùa mưa làm giảm bớt tác động nhưng vẫn không ngăn chận được chất lượng nước vượt quá tiêu chuẩn TCVN 5942-1995 hoặc trị số cho phép nước thải ao nuôi cá thải theo thông tư số 02 của Bộ Thủy Sản. Thí nghiệm đồng ruộng về lợi ích của việc sử dụng chất thải rắn ao cá cho canh tác lúa được thực hiện trong mùa mưa 2007 ở khu thí nghiệm Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. Ba liều lượng chất thải là 1, 2 và 3 tấn/ha được dùng kết hợp với phân vô cơ ở liều lượng 1/3 và 2/3 mức khuyến cáo. Mức phân vô cơ 100 % liều lượng theo khuyến cáo (60N-40P2O5- 30K2O) dùng làm nghiệm thức đối chứng. Không có sự khác biệt về năng suất lúa ở tất cả các nghiệm thức. Điều này cho thấy rằng chất thải rắn ao nuôi cá có thể giúp cho nông dân tiết kiệm bằng cách giảm lượng phân bón áp dụng. Thí nghiệm được lập lại trong mùa khô năm 2008 và cũng cho kết quả tương tự. Nghĩa là có thể giảm được từ 1/3rd đến 2/3rd lượng phân vô cơ theo mức khuyến cáo khi sử dụng chát thải rắn ao nuôi cá ở mức 1-3 t/ha. Ba thí nghiệm (tại Viện lúa và hai huyện Châu Phú và Phú Tân) nghiên cứu hiệu quả của việc giảm lượng phân bón trên năng suất lúa tưới bằng nước thải ao nuôi cá. Không có sự 4
  5. khác biệt nào về năng suất ở tất cả các nghiệm thức tại 3 điểm thí nghiệm. Các kết quả này một lần nữa cho thấy rằng hàm lượng dinh dưỡng chứa trong nước thải ao nuôi cá đủ để thay thế phần lớn đạm và có lẻ kể cả lân và kali cần cho nhu cầu tăng trưởng của cây lúa, giúp cho nông dân trồng lúa tiết kiệm chi phí rất đáng kể. Sử dụng dòng vi khuẩn khử đạm P. stutzeri do Đại Học Cần Thơ cung cấp để chủng vào nuwsc thải ao cá được tiến hành khảo sát tại Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả cho thấy rằng nghiệm thức đối chứng hàm lượng NH4-N cũng giảm nhanh chóng như nghiệm thức có chủng bằng vi khuẩn P. stutzeri. Vì vậy, việc nghiên cứu này sẽ tạm ngưng. Thay vào đó việc sử dụng các vi khuẩn hiện có trên thị trường sẽ được tiến hành tại Viện lúa nhằm xác định hiệu quả của chúng trong việc làm giảm vi khuẩn gây bệnh hiện diện trong nước thải. Việc kết hợp biện pháp sinh học (lục bình và cá) và hóa học (ozone) để giảm nồng độ nitrate và mật độ tảo trong nước ao cá trước khi thải ra môi rường được thực hiện tại Bộ môn Thỷ sản của Đại Học Cần Thơ vào năm 2008. Ba nghiệm thức như sau 1. Đối chứng: không có lục bình và cá; 2. Cá rô phi và ; 3. Lục bình và cá rô Phi với 3 lần lập lại. Vi khuẩn trong nước thải ao cá Tra giảm đến 99 % sau khi xử lý bằng ozone trong 48 giờ trong bể đựng 4000 m3. Trong lúc xử lý bằng ozone nồng độ ammonium (TAN) giảm nhưng nitrate và phosphate gia tăng theo thời gian do sự oxid hóa của ozone. Nồng độ nitrate và phosphate giảm nhanh chóng khi có sự hiện diện của tảo và Lục Bình. Tuy nhiên, tảo trong nghiệm thức xử lý bằng cá rô Phi là cao do chất thải có lẻ do cá bài tiết ra. Trong khi đó ở nghiệm thức kết hợp của cá và Lục Bình thì nitrate và phosphate bị giảm một cách có ý nghĩa và tảo không thể phát triển được. Trong chừng mực nào đó thì cá rô Phi và Lục bình là nghiệm thức tốt nhất vì nó làm giảm nồng độ các chất dinh dưỡng và ngăn tảo phát triển. Kết hợp biện pháp hóa học (ozone) và sinh học (cá rô Phi và Lục Bình) nên được áp dụng để xử lý nước thải ao cá Tra để làm giảm hàm lượng đạm và lân cũng như mật số tảo trước khi thải ra môi trường. Hai thí nghiệm về sử dụng 3 loài thực vật thủy sinh (Lục Bình, rau Ngỗ và rau Dừa) và hai loại bèo (Bèo Tai Chuột và bèo Tai Tượng) được thiết lập tại Viện lúa đồng bằng sông Cưu long để xác định hiệu quả của chúng trong việc xử lý nước thải ao cá. Đối chứng chỉ có nước thải được dùng để so sánh trong cả hai thí nghiệm. Thí nghiệm đầu tiên mô phỏng điều kiện như ao lắng (nước tỉnh) và thí nghiệm thứ hai dùng hệ thống nước chảy liên tục. Trong hệ thống nước tỉnh, tất cả loài thực vật thủy sinh mọc nhanh và đạt trọng lượng tươi tối đa sau 30 ngày nhưng bèo cần 45 ngày để đạt trọng lượng tối đa trong cả hai thí nghiệm. pH của tất cả các nghiệm thức dao động từ 6.0-8.5 và EC của tất cả các nghiệm thức giảm có ý nghĩa từ 0.250 đến khoảng 0.100 mS/cm ngoại trừ nghiệm thức đối chứng. Ammonium, nitrite, nitrate, và tổng N và P ở tất cả các nghiệm thức giảm xuống dưới mức cho phép xả thải ra nguồn nước mặt (TCVN 5942-95). COD của tất cả các nghiệm thức cũng giảm nhưng còn cao hơn tiêu chuẩn cho phép. Trị số TSS của tất cả các nghiệm thức xử lý bằng thực vật htuyr sinh và bèo giảm xuống sau 15 ngày thí nghiệm nhưng gia tăng trở lại vượt quá trị số ban đầu do sự phân hủy của các bộ phận già bị chết ở trong bể. Tuy nhiên, nghiệm thức đối chứng có trị số TSS thấp hơn mức giới hạn. Trong thí nghiệm thứ hai, kết quả cũng tương tự như thí nghiệm 1 trong đó rau dừa dường như tốt nhất trong thí nghiệm này. Bèo tai chuột cũng cho thấy có hiệu quả trong việc làm giảm TSS nhưng Lục Bình và rau Ngỗ không hiệu quả trong hệ thống này. Như vậy ao lắng kết hợp với rau dừa có thể xử lý nước thải từ ao nuôi cá Tra hiệu quả, hơn thế nữa loài cây này cũng được dùng như rau cho người Việt Nam. AYAD Stephanie Birch tiếp tục nghiên cứu về nuôi trùn đất cho đến tháng Ba năm 2009. Nghiên cứu của cô về khảo sát việc nuôi trùn đất để xử lý chất thải rắn ao cá hay bùn đáy ao cá. Ba thí nghiệm được thực hiện để xác định loài trùn đất thích hợp cho xử lý làm phân trùn, loại vật liệu trộn vào bùn đáy ao và tỉ lệ phối trộn thích hợp giữa bùn đáy ao và chất độn và đánh giá phân trùn được tạo ra như loại phân hữu cơ. Trùn Quế là loài có khả năng sinh sản 5
  6. tốt nhất; Tuy nhiên kết quả cho thấy loài trùn Quế trưởng thành khi nuôi ghép cho kết quả tốt hơn. Hai loài trùn bản địa là trùn Cơm và trùn Quắn có tỉ lệ trùn trưởng thành sống cao nhưng sinh sản thấp. Rơm rạ được thấy là phân hủy rất chậm. Thí nghiệm 2 sử dụng trùn Quế (P. excavatus) để sản xuất phân trùn với các tỉ lệ khác nhau của bùn đáy ao, rơm rạ và ục Bình. Perionyx excavatus dường như sinh sản tăng theo tỉ lệ của bùn đáy ao được dùng, tuy nhiên, hổn hợp có chất độn cao sẽ làm cho phân trùn có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn. Phân trùn từ thí nghiệm 2 sau đó được dùng để trồng cải xà lách (Lactuca sativa var. capitata L.). Cải sinh trưởng tốt trong phân trùn nuôi thuần túy trên bùn đáy ao (không có chất độn) nhưng triệu chứng thiếu đạm xuất hiện trên tất cả các cây. Bùn đáy ao cá ở đồng bằng sông Cửu Long dường như thích hợp cho việc sử dụng để nuôi trùn Quế. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại chỉ mới là khởi đầu để xác định phương pháp thích hợp cho tiến trình này và cần có các nghiên cứu sâu xa hơn về các tỉ lệ phối trộn thích hợp và loài trùn đất trên qui mô vừa trước khi thử nghiệm trên diện rộng tại nông trại của nông dân. 4. Giới thiệu và Nền tảng Nuôi cá trong ao hầm là ngành công nghiệp chính ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, nước thải và chất thải rắn xả ra từ ao gây ô nhiễm kênh rạch làm hại cho chất lượng nước dùng cho sinh họat và đe dọa tương lai cho chính ngành công nghiệp nuôi cá. Rõ ràng và gấp rút cần phát triển chiến lược để giảm lượng chất thải xả ra từ ao nuôi cá để ngành công nghiệp nuôi cá ao hầm tiếp tục hổ trợ cho đa dạng nguồn thu nhập ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời tuân thủ theo tiêu chuẩn về chất lượng nước xả thải theo các qui định và luật lệ của Việt Nam (Bộ Thuỷ Sản 2006)1. Nước trong ao nuôi cá được thay thường xuyên thải ra một khối lượng lớn hoặc cần phải tái sử dụng. Hiện nước thải hầu như được thải trực tiếp vào hệ thống kênh rạch, nhưng việc này làm ô nhiễm nước vùng hạ lưu vì hầu hết các ao hầm đều nằm trên khu vực đầu nguồn. Để làm giảm ô nhiễm, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 nghiêm cấm việc xả thải trực tiếp nước thải vào kênh rạch. Người vi phạm sẽ bị phạt tiền hoặc bị đóng cửa cơ sở cho đến khi khắc phục được hậu quả. Thêm vào đó việc nạo vét ao hầm hàng năm và sên ao là cần thiết để kiểm sóat sự lây lan bệnh cho cá. Động thái này tạo ra chịnh (bùn lỏng) có chứa khỏang 35% chất rắn. Việc thải chịnh vào nguồn nước mặt cũng bị luật pháp ngăn cấm. Tuy nhiên dường như những người nuôi cá không chấp hành nghiêm luật lệ. Việc tuân thủ nghiêm nhặt luật lệ mà không có biện pháp xử lý có hiệu quả kinh tế và chiến lược tái sử dụng sẽ làm tê liệt ngành nuôi cá ao hầm. Điều cực kỳ quan trọng là phải tìm ra sách lược có hiệu quả cho người nuôi cá để họ xử lý nước và bùn đáy ao đạt theo tiêu chuẩn mà không tốn kém nhiều. Trong khi ai cũng nhận thấy sự ô nhiễm nguồn nước do chất thải từ ao nuôi cá là hiện hữu, nhưng dường như lại ít có chứng cứ được thu thập hoặc công bố về vấn đề này. Đặc biệt là dường như thiếu số liệu làm nền tảng để chứng minh cho sự suy giảm về chất lượng nước. Hơn thế nữa ít có quan trắc về chất lượng nước hiện tại ở các kênh vừa và nhỏ nơi mà vấn đề ô nhiễm là rất hiển nhiên. Vậy thì điều còn chưa rõ là thông số nào của nước không đáp ứng được tiêu chuẩn của Việt Nam, thường bao lâu xảy ra, xảy ra nơi nào và yếu tố rủi ro nào là chính. Từ nguyên tắc đầu tiên, dường như vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng nhất là vào mùa nắng khi nước thải ít được pha lỏang và rửa đi, và khi kênh mương nhỏ bị tắt dòng chảy do thực vật thủy sinh hoặc rào cản. Đồng bằng sông Cửu Long hiện sản xuất hơn 1 triệu tấn cá da trơn hàng năm hầu hết là cá nước ngọt. Hầu hết cá da trơn được xuất khẩu sang các nước Châu Mỹ, châu Âu, Nga và 1 Ministry of Fisheries (2006). Maximum concentration limits allowable for pollutants discharged to waterways. Regulation No. 02/2006. Issued March 2006. 6
  7. Nhật Bản... Cá xuất khẩu phải đáp ứng yêu cầu vệ sinh thực phẩm của các thị trường này. Sự thay đổi chính về khả năng của người sản xuất về kiểm sóat đầu vào của ao cá là nước lấy vào ao nuôi từ sông và kênh rạch.. Tuy nhiên do ảnh hưởng tích tụ của ao nuôi thâm canh, sự suy giảm về chất lượng nước sông và kênh rạch do xả thải làm hạn chế sức sản xuất và sự phát triển của nghề nuôi cá do vùng hạ lưu bị phát tán vi khuẩn gây bệnh và ký sinh trùng trong nước. Nó còn tác động xấu lên sức khỏe của các hộ dân dùng một lượng đáng kể nước tại chổ từ nguồn ô nhiễm này. Thách thức cho dự án là bảo vệ ngành công nghiệp nuôi cá vì đây là nguồn đa dạng cho nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng cách xử lý nước và chất thải rắn từ ao cá, đồng thời bảo vệ môi trường và dân cư sử dụng từ nguồn nước ô nhiễm. Kết quả dự kiến nhằm gia tăng tính cạnh tranh của những người nuôi cá ao hầm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thêm vào đó, kỹ thuật phải được phát triển sẽ cải thiện việc quản lý tài nguyên thiên nhiên bằng cách giảm ô nhiễm nguồn nước từ việc xả thải không kiểm sóat nưiớc thải ao nuôi và bùn đáy ao vào sông ngòi và kênh rạch. Mục tiêu tổng quát của dự án là cải thiện tính bền vững của sản xuất thủy sản nuôi trong ao hầm và chất lượng nước ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mục tiêu cụ thể là: • Phát triển chiến lược xử lý có hiệu quả nước và chất thải rắn từ ao cá trước khi lọai thải để làm giảm ô hiễm nước; • Phát triển chiến lược thu hồi và tái sử dụng tài nguyên nước thải và bùn từ ao cá bao gồm việc áp dụng trên đất và sử dụng mới cuối cùng; • Gia tăng tính ổn định thu nhập của hộ gia đình từ nghề nuôi cá bằng cách khuyến khích đa dạng hóa sản xuất và thị trường ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dự án này nhằm vào mục tiêu nuôi cá trong ao hầm, không phải các lọai nuôi trồng thỷ sản khác như nuôi trong lồng bè và nuôi tôm. Nuôi cá bè dần kém quan trọng do chi phí tăng cao và rủi ro khi sản xuất so với nuôi cá trong ao. Các nghiên cứu khác đã khảo sát nuôi tôm trên nước lợ (Be, 1997). Nuôi tôm cũng đang bị đe dọa do tác động môi trường. Như vậy có các bài học phải được học từ các dạng nuôi trồng thủy sản khác, đặc biệt cần phải nói đến vấn đề môi trường có thể tác động đến sự bền vững của ngành công nghiệp cho dù khi kinh tế nó rất thuận lợi. Nuôi cá trong so hầm được thực hiện bởi ba nhóm người ở vùng đồng bằng sông Cửu Long: nông dân trong hệ thống VAC tái chế chất thải lỏng và rắn từ ao cá; tiểu nông vừa có ruộng vừa có ao cá nhưng không tích hợp các thành phần này trong trang trại; người chuyên nuôi cá tận dụng hết đất họ có để làm ao cá. Hệ thống VAC đã thực hành tái chế nước thải và bùn đáy ao để thu hồi nguồn dưỡng chất. Bằng cách làm như thế mức độ ô nhiễm do nước thải có lẻ được giảm bớt. Tuy nhiên, dường như ít có minh chứng cho thấy lợi ích của hệ thống VAC cho chất lượng nước vùng hạ lưu. Dự án này sẽ đánh giá tác động của hệ thống VAC trên chất lượng nước kênh cuối nguồn và cần thiết xem xét việc cải tiến phương cách tái chế nước thải và bùn đáy ao để đạt tiêu chuẩn nước thải. Nhóm thứ hai nuôi cá bao gồm các tiểu nông sản xuất lúa, cây ăn trái và trồng rau họ có vài ao cá trong trang trại. Dự án này đặc biệt liên quan đến hai nhóm hộ sản xuất này vì họ có đử đất dùng cho việc xử lý chất thải lỏng và rắn bằng cách tái chế nhưng hiện tại đang thải nước và bùn đáy ra kênh rạch. Cả hai chất thải lỏng và rắn từ ao nuôi có chứa các bon và dưỡng chất có thể tái chế tại chổ để đẩy mạnh sản xuất lúa, rau màu và cây ăn trái, cũng như các sản phẩm mới cho các xí nghiệp chế biến nông sản qui mô nhỏ. Chất thải rắn có thể được xử lý bằng nhiều cách kể cả áp dụng trên đất, làm phân trùn, hoạt hóa bằng vi sinh để phân hủy và xử lý bằng ozone. Tuy nhiên cần có thí nghiệm để xác định tiềm năng của mỗi phương pháp để xử lý chất tharivaf 7
  8. cải thiện chất lượng nước, và thu thập chứng cớ về hiệu quả của về đạt theo tiêu chuẩn chất lượng nước đầu ra. Người chuyên nghiệp nuôi cá trong ao không có đất dư cho việc tái chế nước và chất thải rắn. Chất thải hiện được xả trực tiếp vào sông và kênh mương, đôi khi sau khi đã xử lý bằng chế phẩm sinh học. Các nghiên cứu sâu rộng hơn cần thiết để xác định tác động của các chế phẩm sinh học trên môi trường nước vùng hạ lưu. Thêm vào đó, cần khai thác cơ hội để thu xếp sự hợp tác của người chuyên nghiệp nuôi cá và nông dân để cho phép xả thải nước và chất thải rắn vào ruộng của họ. Tuy nhiên, phương cách thực hành tốt nhất việc này cần phải được phát triển, và một khi đã được thiết lập sẽ mở rộng cho nhóm sản xuất này. 5. Tiến độ cho đến nay Các kết quả thực hiện nổi bật Điều tra cơ bản: điều tra được tiến hành vào tháng 10-11 năm 2007 tại thành phố Cần Thơ và vào tháng Giêng và tháng Hai năm 2008 tại tỉnh An Giang. Tổng số có 240 bảng phỏng vấn cho các bên có liên quan (nông dân trồng lúa và nuôi cá được chọn phỏng vấn với số lượng bằng nhau) được thu thập tại 2 huyện cho mỗi tỉnh/TP (Bảng 1&2). Điều tra cơ bản đã kết thúc và báo cáo vào tháng 4 năm 2009. Một điều trar bổ sung được thực hiện trên hệ thống VAC ở vùng ven thành phố Cần Thơ tại hai huyện Phong Điền và Bình Thủy. Vườn cây ăn trái được trồng trên các liếp cạnh mương hoặc ao. Nhãn, vú sữa, sầu riêng, chôm chôm hoặc cam hay chanh là các loại cây ăn trái phổ biến ở vùng này. Vịt là gia cầm được nuôi nhiều nhất trong số các loài vật khác như gà hoặc heo. Các loài cá như cá rô phi, cá chép và cá tai tượng thường được nuôi trong mương vườn. Các loài cá này thường được nuôi với mật số thấp (
  9. Cá con đến 1 tháng 72 88 Cá 1-3 tháng 17 8 Cá trên 3 tháng tuổi 11 4 Hiệu quả của việc phòng trị Xuất huyết 92 82 Phù đầu 77 Tuột nhớt 100 Tất cả các ao nuôi cá Trê qua khảo sát đều thải trực tiếp nước thỉ ao hầm vào kênh rạch làm ô nhiễm các khu vực này đến mức không còn các loài cá tự nhiên có thể sống còn và giao thông thủy bị tắt nghẻn do bùn làm cạn lòng sông rạch. Mâu thuẩn giữa các hộ nuôi cá Trê và nhân dân quanh vùng là rất phổ biến và rất khó để thuyết phục họ hợp tác với nhau. Mặc dù chính quyền địa phương có qui định cấm xả thải trực tiếp nước ao hầm vào sông, rạch nhưng tình trạng này xem ra vượt ngoài tầm kiểm soát. Vì hầu hết các hộ nuôi cá không có ao lắng hoặc ruộng lúa để áp dụng chất thải trên đất và vì thế ô nhiễm nước ở các khu vực này rất nghiêm trọng. Bảng 2: Thông tin tổng quát về nuôi cá Trê Danh mục Binh Thuy Phong Dien Tiếp cận thông tin (%) 82 75 Hổ trợ kỹ thuật (%) 64 50 Thuê lao động (%) 12 8 Loại cá nuôi (%) Cá Trê (%) 86 92 Cá khác 14 8 Thời gian nuôi trung bình (tháng) 3.5-5 3.5-5 Từ cá bột đến cá giống 1.2 1.3 Từ cá giống đến cá thương phẩm 7.2 7.5 Kích sở ao nuôi (m2) 500-3000 1000-3000 Độ sâu ao nuôi (m) Cá giống 1.2 1.1 Cá thương phẩm 1.8 1.6 2 Mật độ thả/m 90-120 70-100 Hệ số biến chuyển thức ăn 3,5 3,6 Bảng 3: Chất lượng nước ao cá Trê Danh mục Binh Thuy Phong Dien BOD5 (200C) 120 104 TSS (mg/L) 312 258 DO (mg/L) 0.05 0.1 COD (mg/L) 128 117 Mặc dù cá Trê có thể sống trong nước ô nhiễm cao, nó vẫn bị nhiễm các bệnh do vi khuẩn nhưng tỉ lệ chết thì thấp hơn so với cá Tra. Thuốc dùng phòng trị bệnh cá Trê ít nhiều giống như thuốc dùng cho nuôi cá Tra (Bảng 4). 9
  10. Bảng 4: Hóa chất dùng phòng trị bệnh cho việc nuôi cá Trê. Danh mục Binh Thuy Phong Dien Sản phẩm sinh học: biozyme, US-zyme, 56 34 biomix (%) Xử lý nước (vệ sinh ao) 76 82 BKC, 32 24 Vikong 16 22 Copper sulfate, potassium permanganate 39 48 Chlorine, formol 7 110 Xử lý đáy ao (zeolite, vôi bột) 62 75 VAC cơ hội và thách thức: Hệ thống VAC chủ yếu nằm ở các nơi cao ven sông. Đây là vùng đất thịt có độ thấm rút cao thích hợp cho việc canh tác rau màu và cây ăn quả. Phân hóa học chủ yếu được dùng cho canh tác đó là lý do tại sao rất khó tìm người nông dân nào trong hệ thống này dùng phân hữu cơ mặc dù rơm rạ, bèo lục bình, phân heo và chất thải rắn từ các ao cá có sẳn. Điều tra trên hệ thống VAC cũng cho thấy rằng nông dân trồng rau không thích sử dụng phân trùn được sản xuất từ phân bò do học phải tốn thêm công để làm cỏ. Dù cho nông dân biết lợi ích của việc sử dụng phân hữu cơ trong canh tác rau màu và cây ăn quả nhưng họ không dùng rộng rải vì các lý do sau: - Tốn nhiều thời gian; - Chưa thấy rõ hiệu quả; - Hạn chế về nhân công nông nghiệp; - Chi phí vạn chuyển và rải phân cao; - Giá các sản phẩm hữu cơ được bán cùng giá với các sản phẩm hóa học khác; - Nông dân không biết tường tận cách ủ phân hữu cơ. Bên cạnh các trở ngại trên về sản xuất và áp dụng phân hữu cơ, nông dân chưa biết tác động xấu của việc đốt rơm rạ. Ở vùng canh tác lúa 3 vụ, nông dân thường đốt rơm rạ để dọn đồng ruộng thuận tiện cho việc làm đất sau khi thu hoạch vụ lúa Đông-Xuân. Khả năng hiện hữu cho dự án của chúng tôi là tăng cường kiến thức cho nông dân về bảo vệ môi trường qua các khóa huấn luyện về tái chế các phế phụ phẩm nông nghiệp để làm phân hữu cơ để làm giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Qua các khóa huấn luyện, nông dân sẽ hiểu vai trò của chất hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp bền vững. Mục tiêu này là hiện thực vì giá phân hóa học và thuốc sát trùng hiện nay đang tăng cao. Khả năng khác để thúc đẩy nông dân nuôi trùn đất và sản xuất phân trùn trong hệ thống VAC là trùn đất được dùng để nuôi các loài cá có giá trị và tôm càng.xanh. Nông dân áp dụng mô hình VAC có thể tận dụng các mương vườn để nuôi trồng thủy sản. Báo cáo về dịch bệnh do ô nhiễm nước: Khảo sát về bệnh tật do nguồn nước bị ô nhiễm đã kết thúc ở huyện Ô Môn và hốt Nốt của thành phố Cần Thơ và hai huyện Châu Phú và Phs Tân của tỉnh An Giang. Theo các số liệu thu thập được ở Trung Tâm Y Tế Dự Phòng của huyện Ô Môn và Thốt Nốt trong năm 2006 và 2007 cho thấy bệnh sốt xuất huyết tăng cao. Bệnh này bùng phát vào cuối năm 2008 chủ yếu ở các tỉnh phía nam; tình hình càng nghiêm trọng hơn ở hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp (Cục y Tế và Dự Phòng- Bộ Y Tế, 2008). Số liệu trong bảng 5&6 cho thấy bệnh tiêu chảy trong năm 2007 cao hơn năm 2006. 10
  11. Bệnh sốt xuất huyết, tiêu chảy và bệnh lỵ ở Phú Tân cao hơn ở Châu Phú và chúng có chiều hướng gia tăng. Có lẻ chúng có liên quan đến hệ thống đê bao khép kín ở huyện Phú Tân nơi các dòng kênh bị tắt nghẽn. Như đã báo cáo trong kết quả điều tra cơ bản, hầu hết nông dân ở tỉnh An Giang là 57% số hộ vẫn còn dùng nước kênh rạch cho sinh hoạt. Bảng 5: Ghi nhận dịch bệnh năm 2006 & 2007 tại huyện Ô Môn và Thốt Nốt. Dịch bệnh Ô Môn Thốt Nốt 2006 2007 2006 2007 Sốt xuất huyết 179 237 246 546 Sốt thương hàn 2 0 Tiêu chảy 159 220 3210 2822 Bệnh lỵ 0 1 138 31 Bảng 6: Ghi nhận dịch bệnh năm 2006 & 2007 tại huyện Phú Tân và Châu Phú. Dịch bệnh Phú Tân Châu Phú 2005 2006 2007 2005 2006 2007 Sốt xuất huyết 112 300 495 411 595 438 Sốt thương hàn 169 153 71 Tiêu chảy 752 957 1502 189 187 200 Bệnh lỵ 202 250 463 21 10 Chất lượng nước trong ao cá: Điều tra về bùn đáy ao cá được tiến hành vào năm 2007-2008 tại tỉnh An Giang. Mẫu được thu liên tục trong 5 tháng từ 12 ao nuôi (Bảng 7). Hai ao nuôi tại huyện Phú Tân và hai ao tại huyện Châu Phú dùng thức ăn viên trong khi các ao khác nuôi bằng thức ăn tự chế. Bùn đáy ao có chứa 4.5-5.5 % C, và 0.2-0.35 % N cho thấy tỉ số thích hợp cho sự phân hủy nhanh. pH của bùn đáy ao nuôi bằng thức ăn viên ổn định hơn trong suốt thời gian nuôi và pH của bùn đáy ao dùng thức ăn tự chế ở đợt htu mẫu đầu cao hơn ở các đợt khác. Lý do là nông dân thường dùng vôi trước khi thả cá nuôi. Ec và các bon hữu cơ trong bùn đáy ao nuôi bằng thức ăn viên thường thấp hơn của ao nuôi bằng thức ăn tự chế có lẻ do nông dân thường bỏ nhiều muois khi trộn thức ăn (Hình 1). TN của bùn đáy từ ao nuôi bằng thức ăn viên biến động từ 0.2-0.37% nhưng trên ao nuôi bằng thức ăn tự chế cao hơn có trị số là 0.27-0.42% (Hình. 2). Bùn đáy ao có hàm lượng N tương đối thấp hơn lân và kali (Bảng 7&8). Tuy nhiên có tỉ lệ đạm khoáng hóa cao dưới dạng NH4+ và NO3- trích bằng KCl. Thành phần của bùn đáy ao thu qua 4 tháng cũng giống như ở tháng thứ 5. Ngoài sự khác biệt về hàm lượng N và P trong bùn đáy ao thì hầu như không có sự khác biệt nào khác giữa bùn đáy nuôi bằng hai loại thức ăn này. 11
  12. Ec (mS/cm) 1.2 1 0.8 Pellet 0.6 self-made feed 0.4 0.2 0 4th 5th 3rd 2nd 1st Hình 1: Độ dẫn điện ở bùn đáy ao qua các đợt thu mẫu % 0.45 0.4 0.35 0.3 Pellet 0.25 0.2 Self made 0.15 0.1 0.05 0 2nd 1st 4th 5th 3rd Hình 2: Hàm lượng đạm qua các lần thu mẫu bùn đáy trên 2 loại ao nuôi. Bảng 7: Hàm lượng lân của bùn đáy ao qua các đợt thu mẫu Tổng P (%) Lân hữu dụng P (ppm) Đợt thu mẫu Thức ăn tự Thức ăn viên Thức ăn viên Thức ăn tự chế chế 0.307±0.195ab 0.325±0.336b 39.512±30.199ab Đợt 1 40.006±73.389 0.588±0.66a 0.977±0.505a 30.240±22.819bc Đợt 2 41.319±19.712 0.261±0.202b 0.472±0.377b 29.378±15.773bc Đợt 3 39.365±27.883 0.471±0.266ab 0.45±0.353b 48.083±19.434a Đợt 4 37.808±11.688 0.322±0.1650ab 0.519±0.336b 14.545±13.789c Đợt 5 43.520±24.502 Bảng 8: Hàm lượng kali trong bùn đáy ao qua các đợt thu mẫu 12
  13. Total K(%) Lân hữu dụng (mg/kg) Đợt thu Thức ăn tự mẫu Thức ăn viên Thức ăn viên Thức ăn tự chế chế 1.030±0.190b 1.081±0.166ab 168.582±90.717a 162.357±97.508a Đợt 1 0.981±0.075b 0.970±0.172c 215.074±93.997ab 244.556±225.893bc Đợt 2 1.048±0.159b 0.993±0.151bc 236.334±79.095b 275.380±75.329c Đợt 3 1.181±0.150ab 1.114±0.147a 159.950±66.909a 219.551±102.053ab Đợt 4 1.303±0.205a 1.138±0.216a 177.798±32.228ab 181.272±90.401abc Đợt 5 13
  14. Bảng 9. Thành phần bùn đáy ao cá qua điều tra tại 12 hộ ở An Giang vào năm 2007-2008 . Số liệu từ các ao giai đọan 4 và 5 tháng và tính trung bình từ 62 mẫu của thức ăn tự chế và 15 mẫu từ thức ăn viên cùng với độ lệch chuẩn. NH4+ NO3 -N Olsen P Exch K Cu Zn Ca Cd %C %N %P %K (mg/kg) (mg/kg) (mg/kg) % Fe % Mg % Mn (mg/kg) (mg/kg) (mg/kg) (mg/kg) 5 tháng Thức ăn viên 4.64 0.23 1.13 266 49.2 194 3.61 0.06 0.05 35.7 107 162 3.2 SE 0.47 0.02 0.05 37.6 5.24 9.6 0.41 0.00 0.01 1.37 6.5 67.3 0.26 Trung bình TC 4.98 0.32 1.13 276 48.1 216 3.90 0.06 0.05 34.6 111 134 3.1 SE 0.31 0.03 0.03 25.1 3.05 11.6 0.30 0.00 0.00 0.75 3.8 31.5 0.21 4 tháng Thức ăn viên 5.22 0.30 0.28 1.13 406 37.3 145 4.84 0.06 0.04 28.3 100 128 4.8 SE 0.58 0.03 0.08 0.03 24.1 3.37 19.4 0.55 0.00 0.00 1.63 5.1 64.0 0.43 Trung bình TC 5.73 0.34 0.39 1.13 410 46.8 152 5.35 0.07 0.04 28.2 100 126 5.5 SE 0.57 0.02 0.05 0.02 15.5 3.47 12.0 0.36 0.00 0.00 0.77 3.1 31.8 0.39 14
  15. Thu mẫu nước: Ba vùng nghiên cứu được chọn là Châu Phú và Phú Tân của tỉnh An Giang, huyện Thốt Nốt, huyện Phong Điền và Bình Thủy của thành Phố Cần Thơ nơi thực hiện mô hình VAC được chọn để nghiên cứu.. Chất thải lỏng trong mùa khô và mùa mưa (đặc biejt là trong mùa lũ) được quan sát tại cống xả, 100 mét ngược dòng và 100, 200, 300, 400 và 500 mét xuôi dòng chảy. pH nước trong kênh được đo ở chu kỳ 15 ngày/lần. Số liệu trong hình 1 cho thấy pH nước trước khi mở cống cao hơn một ít so với pH sau khi mở cống; tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa ở mức xác suất 5% trong cả hai mùa khô à mùa nắng. Trong mùa lũ, sự khác biệt của hai nhóm số liệu lại càng nhỏ hơn so với mùa khô bởi vì yếu tố pha loảng trong mùa lũ cao hơn. Nhìn chung pH trong nước kênh sau khi có xả thải vẫn còn trong mức iowsi hạn cho phép dùng cho sinh hoạt theo tiêu chuẩn (TCVN-5492-2005). 7.5 7.4 7.3 Before 7.2 pH After 7.1 7 6.9 -100 0 100 200 300 400 500 m Hình 1: pH nước kênh trước và sau khi mở cống xả thải nước ao cá. Về EC trong nước kênh , số liệu trong hình 2 chỉ cho thấy EC đo ở các thời điểm khác nhau sau khi mở cống cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các trị số trước khi mở cống. 350 300 Ec (uS/cm) 250 Before 200 150 After 100 50 0 -100 0 100 200 300 400 500 m Hình 2: Độ dẫn điện của nước kênh trước và sau khi mở cống xả nước ao cá. Cũng như pH, các trị số EC trong mùa lũ đo ở các thời ddierm khác nhau trước và sau khi mở cống xả không khác biệt nhau. Không như pH và EC, trị số COD rất khác biệt khi lấy mẫu trước và sau khi mở cống ngay cả trong mùa lũ. Thông thường thì trị số COD của nước thải ao cá vượt quá tiêu chuẩn cho phép dùng cho sinh họat ( dưới 10 mg/L) ngọai trừ khi mùa lũ (tháng Mười-tháng Giêng) nhưng chúng còn trong khỏang chấp nhận được cho nước thải ao cá xả ra môi trường nước mặt (35 mg/L
  16. 80 60 After COD 40 Before 20 0 0 100 200 300 400 500 Distance (m) Hình 3: COD (mg/L ) của nước kênh trước và sau khi mở cống xả thải nước ao cá. Nồng độ Ammonium cao ngay tại cửa cống và chúng suy giảm theo khỏang cách từ cửa cống xả (Hình. 4). Các trị số này thường cao hơn mức tiêu chuẩn của Việt Nam dùng cho nước sinh họat (ỉt hơn 0.5mg/L) theo tiêu chuẩn TCVN5492-2005 nhưng chúng vẫn còn ở trong mức giới hạn cho phép để thải ra nguồn nước mặt theo thông tư số 02 của Bộ Thủy Sản. Nồng độ ammonium cao làm cho phú dưỡng nguồn nước trong sông rạch nhỏ thường được thấy xung quanh khu vực nuôi cá ở đồng bằng sông Cửu Long. 0.0800 Ammonia (mg/L) 0.0600 After 0.0400 Before 0.0200 0.0000 0 100 200 300 400 500 Distance (m) Hình 4: Nồng độ ammonium trong nước kênh trước và sau khi mở cống xả nước thải ao nuôi cá. Trường hợp của nồng độ nitrite và nitrate qua các khỏang thời gian khác nhau và ở các điểm trước và sau khi mở cống xả thải, chúng thấp hơn tiêu chuẩn cho phép để sử dụng cho nước sinh họat ngay cả trong mùa khô khi mà hàm lượng nitrite và nitrate trong nước kênh cô đặc nhất. Tính trung bình TSS trong nước kênh sau khi mở cống xả nước thải (261± 64 mg/l) cao gấp 5 lần hơn thời điểm trước khi mở cống (54 ± 20 mg/l). Hình 5 cho thấy đa số trị số TSS trong nước kênh do có nước xả thải thường cao gấp 10-13 lần tiêu chuẩn TCVN 5942-1995 (cột A- TSS ít hơn 20 mg/l). Ngay cả mức cho phép xả thải nước ao cá vào nguồn nước mặt theo thông tư số 02 (thấp hơn 80 mg/L) nhưng các trị số đo đạc thường cao hơn nhiều. 16
  17. 300 250 TSS (mg/L) 200 After 150 Before 100 50 0 -100 0 100 200 300 400 500 Distance (m) Hình 5: Nồng độ tổng số chất rắn lơ lửng trong nước kênh trước và sau khi mở cống xả nước thải ao cá. . Nghiên cứu về chất lượng nước của hai lọai ao nuôi bằng thức ăn viên và thức ăn tự chế của nông dân từ tháng 12 năm 2007 đến tháng 7 năm 2009 ở ha huyện Phú Tân và Châu Phú của tỉnh An Giang. Kết quả cho thấy pH vẫn nằm trong khỏang cho phép (7.0-8.0) cho dù có khác biệt giữa ao nuôi bằng thức ăn viên và thức ăn tự chế. Tất cả các ao nuôi đều có độ đục cao hơn mức giới hạn., ao nuôi cá ở Phú Tân có trị số TSS thấp hơn ao cá tại Châu Phú bởi vì hầu hết các ao cá ở Phú Tân đều nằm cạnh sông lớn vì vậy nông dân có thể thay nước dễ dành hơn. Liên quan đến lọai thức ăn trên trị số TSS và BOD, kết quả cho thấy dùng thức ăn viên có trị số thấp hơn. Trị số COD tại cả hai địa điểm đều cao hơn mức cho phép về nước thải ao nuôi cá xả ra nguồn nước mặt.. TAN, nitrite, nitrate, phosphate, TN và TP đều gia tăng theo thời gian nuôi và các giá trị này không khác biệt nhiều ở hai địa điểm. Tuy nhiên, ao nuôi bằng thức ăn viên có TN và TP cao hơn ao nuôi bằng thức ăn tự chế do thức ăn viên có dưỡng chất cô đặc hơn (Bảng 10). Conc TAN (mg/l) 0.148 0.146 0.144 0.142 0.140 0.138 0.136 0.134 0.132 Phu Tan Chau Phu Phu Tan Chau Phu Hình 6: Nồng độ TAN trong nước ao cá tại hai huyện của tỉnh An Giang 17
  18. Bảng 10: So sánh chất lượng nước ao nuôi cá bằng hai lọai thức ăn. NO2- NO3- PO43- TN TAN TP BOD COD TSS NT (mg/l) (mg/l) (mg/l) (mg/l) (mg/l) (mg/l) (mg/l) (mg/l) (mg/l) Pellet 0,145 0,009 0,032 0,134 0,662 0,416 13,27 69,378 86,913 Self-made 0,138 0,035 0,077 0,104 0,569 0,318 17,96 73,275 90,738 CV 76,6 275,4 140,4 64,7 89,7 56,8 27,8 45,6 38,6 5%LSD 0,017 0,009 0,012 0,012 0,246 0,093 1,939 14,533 15,307 Thí nghiệm đồng ruộng về sử dụng bùn đáy ao cá cho canh tác lúa: Nghiên cứu trên đồng ruộng về hiệu qủa của bùn đáy ao cho canh tác lúa đã bắt đầu từ vụ mùa mưa năm 2007 tại khu thí nghiệm của Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. Ba liều lượng bùn đáy ao ở mức 1, 2, 3 tấn/ha được sử dụng kết hợp với phân vô cơ ở mức 1/3 và 2/3 liều lượng khuyến cáo. Mức phân vô cơ 100% theo liều lượng khuyến cao (60N- 40P2O5-30K2O) được dùng làm đối chứng. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về năng suất giữa các nghiệm thức. Điều này chứng tỏ rằng bùn đáy ao cá có thể giúp cho nông dân tiết kiệm chi phí do giảm được lượng phân vô cơ sử dụng. Thí nghiệm này được lập lại trong vụ Đông-Xuân 2007-2008 tại cùnmg địa điểm. Kết quả trong vụ mùa khô này cũng chứng tỏ rằng năng suất lúa được duy trì khi chỉ dùng 1/3 hoặc 2/3 lượng phân vô cơ khi kết hợp với 1 đến 3 tấn /ha bùn đáy ao cá. Kết quả của thí nghiệm lập lại trong vụ mùa mưa 2008 và mùa khô 2008-2009 để củng cố kết quả trên. Tất cả các nghiệm thức đều bằng với đối chứng (100% phân hóa học). Phân hữu cơ làm từ bùn đáy ao cá và rơm rạ có lợi cho tiểu nông vì họ không có nhiều tiền để mua phân vô cơ. Tái sử dụng nước thải tưới cho lúa: Kết quả thí nghiệm tại Châu Phú cho thấy năng suất lúa giữa các nghiệm thức không khác biệt khi phân tích thống kê. Tuy nhiên trong vụ mùa khô năm 2008 năng suất lúa ở các nghiệm thức T1 và T2 cao nhất có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức khác (T3, T4 và T5)(Bảng 8). Kết quả phân tích mẫu đất, thân và hạt khi thu họach cho thấy không có sự khác biệt gì về nồng độ N, P và K (kết quả không trình bày trong báo cáo). Kết quả tại bảng 9 cho thấy năng suất lúa ở các nghiệm thức T1 và T2 là cao nhất và chúng khác biệt có ý nghĩa với các nghiệm thúc khác. Điều này chứng tỏ rằng tưới lúa bằng nước thải ao cá có thể tiết kiệm được 1/3 lượng N, P và K theo khuyến cáo. Khi so sánh nghiệm thức T2 và nghiệm thức T4 cho thấy giảm lượng đạm thêm nữa làm giảm năng suất lúa. Nghiệm thức T3 cho năng suất thấp nhất bởi vì nghiệm thức này không có P mà trên dất phèn này sẽ làm giới hạn hiệu quả sử dụng phân đạm. Phân tích đa lượng và trung lượng tại điểm thí nghiệm Phú Thành (huyện Phú Tân) cho thấy lô có năng suất cao thì dinh dưỡng được hấp thu (kg/ha) cũng cao trong hạt và trong rơm ngọai trừ P trong rơm tại điểm Phú Thành 1 (không trình bày số liệu). Trong thí nghiệm tại Phú Thành 2, lượng dinh dưỡng hấp thu trong hạt cũng theo 18
  19. chiều hướng tương tự như trong thí nghiệm 1 nhưng riên Kali và Calcium hấp thu trong rơm không khác biệt nhau giữa các nghiệm thức (không trình bày số liệu). Bảng 8: Năng suất lúa (t/ha) tại huyện Châu Phú trong mùa mưa (WS) 2007 và mùa khô (DS) 2008. Số liệu trung bình của 3 lần lập lại. Tất cả lô được tưới bằng nước ao cá 5 lần trong mùa mưa và 10 lần trong mùa khô. Nghiệm thức (N-P-K kg/ha) WS2007 DS2008 T1 (90-26.2-49.8) 3.99 5.59 T2 (60-13.1-24.9) 4.38 5.58 T3 (30-00-24.9) 3.91 4.21 T4 (30-26.2-24.9) 3.96 4.32 T5 (00-13.1-60) 3.91 4.62 LSD5% NS 0.885 CV% 14.0 11.8 Bảng 9: Năng suất (t/ha) tại 2 điểm của Phú Tân (Phú Thành 1 và Phú Thành2)trong mùa khô 2008. Số liệu trung bình của 3 lần lập lại. Tất cả lô được tưới bằng nước ao cá 10 lần trong mùa khô. Nghiệm thức (N-P-K kg/ha) Phú Thành (1) Phú Thành (2) T1(90-26.2-49.8) 6.89 5.74 T2(60-13.1-24.9) 7.34 5.47 T3(30-00-24.9) 5.05 4.08 T4(30-26.2-24.9) 6.19 5.02 T5(30-13.1-24.9) 4.91 5.06 T6(00-13.1-49.8) 4.52 4.39 LSD5% 0.162 0.683 CV% 15.3 7.6 Một thí nghiệm đã được thiết lập tại Viện lúa để khẳng định lại lợi ích của việc dùng nước thải ao cá Tra để trồng lúa trong vụ Đông – Xuân 2009. Trong suốt vụ có bơm nước ao cá 4 lần, mỗi lần 50 mét khối nước trên diện tích 2.000 mét vuông. Một số chỉ tiêu về chất lượng nước ao cá được trình bày trong bảng 10 dưới đây. Bảng 10: Một số đặc tính hóa học của nước thải ao nuôi cá dùng cho thí nghiệm. PO43- NH4+ NO3- EC COD Số TT pH (mS/cm) (mg/l) (mg/L) (mg/L) (mg/L) 1 7.2 0.38 67.36 3.54 0.12 4.39 2 7.2 0.39 16.84 3.45 0.11 4.33 3 7.1 0.35 75.78 1.50 0.81 1.13 4 7.1 0.37 75.78 1.45 0.79 1.12 Năng suất lúa và thành phần năng suất được trình bày trong bảng 11. Nghiệm thức T1 tuy cho năng suất cao nhất nhưng không khác biệt với các nghiệm thức khác khi phân tích thống kê có lẻ do dưỡng chất trong nước thải khôgn cao lắm và không ổn định. Điều này do tình hình giá cá Tra không ổn định và có lúc nông dân giảm cho cá ăn để chờ giá tăng lên vì vậy hàm lượng dưỡng chất ở lần bơm nước thứ nhất và thứ hai không đáp ứng đủ cho cây lúa tăng trưởng. Nghiệm thức T1 tiếp nhận đầy đủ phân 19
  20. bón vô cơ ở liều lượng theo khuyến cáo nên có ưu thế hơn về số hạt chắc/bông và trọng lượng 1000 hạt. Bảng 11: Năng suất và thành phần năng suất của các nghiệm thức thí nghiệm tưới bằng nước ao cá tại Viện lúa vụ Đông – Xuân 2009 Treatment (N-P-K Panicle/sqm Filled TGW (g) Yield kg/ha) grain/pan (T/ha) T1 (80-17.46-49.81) 210.67 102 28.01 6.018 T2 (3/4 N&P of T1) 195.33 95 27.54 5.067 T3 (2/4 N&P of T1) 162.67 104 27.87 4.699 T4 (1/4 N&P of T1) 164.67 95 28.13 4.461 T5 (3/4 of T1) 190.00 90 27.72 4.770 T6 (2/4 of T1) 204.67 86 27.67 4.833 T7 (1/4 of T1) 206.67 93 27.73 5.369 T8 (80-17.46) 182.00 96 27.81 5.000 CV% ns ns ns ns Xử lý nước thải ao cá bằng vi sinh vật: Nghiên cứu hiệu quả của xử lý nước thải ao cá bằng chủng vi khuẩn P. stutzeri do Đại Học Cần Thơ cung cấp được tiến hành tại Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. Thí nghiệm bao gồm 6 nghiệm thức trong đó nước thải có (T1) và không có hấp tiệt trùng (T2) được dùng làm đối chứng. Nghiệm thức nước ao cá không có hấp tiệt trùng xử lý bằng vi sinh P. stutzeri (T3) được so sánh với nghiệm thức (T4) xử lý bằng lọai hóa chất thông dụng mà nông dân dùng để xử lý nước ao cá là BKC (Benzalkomium Chloride). Tương tự như vậy trên nước thải ao cá có hấp tiệt trùng được xử lý vi sinh (T5) và hóa học (T6). Kết quả cho thấy ở nghiệm thức đối chứng trên nước thải không có hấp tiệt trùng hàm lượng NH4-N cũng giảm nhanh sau 5 ngày thí nghiệm như các nghiệm thức có xử lý bằng hóa học hoặc vi sinh. Tuy nhiên hàm lượng ammonium hầu như không đổi trên lô đối chứng chỉ có nước thải ao cá được hấp tiệt trùng. HGàm lượng nỉtate hầu như không không giảm nhiều trên tất cả các nghiệm thức thí nghiệm. Như vậy nghiên cứu lòai vi sinh này tạm chấm dứt. Thay vào đó việc đánh giá các lòai vi sinh thương phẩm sẽ được Viện lúa tiến hành để xác định hiệu quả trong việc giảm vi khuẩn hiện diện trong nước thải ao cá và khử đạm. Một đánh giá về xử lý nước ao cá bằng 4 lọai chế phẩm vi sinh bán trên thị trường bao gồm VIME-BITECH, ZEOLITE PLUS, BITECH YUCCA and ZIMOVAC được thực hiện tại nhà lưới của Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. Thí nghiệm gồm 5 nghiệm thức (4 chế phẩm) và 1 đối chứng (nước thải ao cá) được bố trí theo thể thức hòan tòan ngẩu nhiên với 3 lần lập lại. Kết quả cho thấy tất cả các chế phẩm đều không hiệu quả trong việc làm giảm mật số vi khuẩn gây hại trong nước (E. coli, Samonella, coliform). Tổng đạm ammonium giảm chút ít nhưng không khác biệt nhau giữa các nghiệm thức kể cả so với lô đối chứng. Chế phẩm . Bitech Yucca và Zimovac giảm một cách có hiệu qua lượng TSS trong nước thải ao cá. Tuy nhien việc sử dụng các chế phẩm này sẽ làm tăng chi phí cho sản xuất cá da trơn. Phân trùn: Chất thải rắn từ ao cá được thu để ủ và nuôi trùn đất tại nhà lưới của Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long . AYAD Stephanie Birch nhận nghiên cứu về phân trùn vào năm 2008-09. Nghiên cứu của cô nhằm khảo sát việc việc nuôi trùn đất để xử lý chất thải rắn là bùn đáy ao cá. Ba thí nghiệm được thực hiện để xác định loài trùn đất 20
nguon tai.lieu . vn