Xem mẫu
- Báo cáo giữa kì môn Khoa học Trái đất
Tìm hiểu về biển và lục địa
Sinh viên: Hoàng Sơn Bách
MSSV: 09093747
- Chương I: Biển
Biển nói chung là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các đại dương, hoặc là các hồ
lớn chứa nước mặn mà không có đường thông ra đại dương một cách tự nhiên như biển
Caspi, biển Chết. Thuật ngữ này đôi khi cũng được sử dụng với một số hồ nước ngọt khép
kín hoặc có đường thông tự nhiên ra biển cả như biển Galilee ở Israel là một hồ nước ngọt
nhỏ không có đường thông tự nhiên ra đại dương hay biển Hồ ở Campuchia. Thuật ngữ này
được sử dụng trong đời sống thông thường như một từ đồng nghĩa với đại dương, như trong
các câu biển nhiệt đới hay đi ra bờ biển, hoặc cụm từ nước biển là chỉ một cách rõ nét tới các
vùng nước của đại dương nói chung.
Thành phần
Nước biển chứa các chất muối, khí ( oxi, nito, cacbon ...) và chất hữu cơ có nguồn gốc từ
động vật, thực vật
Trung bình mỗi kg nước biển chứa 35 g muối khoáng trong đó 77,8% là muối natri clorua tức
muối ăn được
Độ muối
Độ muối trung bình của nước biển toàn thế giới là 3,5 %
Biển Đỏ độ muối là 4,3 %
Dọc Xích đạo độ muối là 3,45 %
Vùng chí tuyến độ muối 3,68 %
Gần hai cực độ muối là 3,4 %
Biển Ban-tich độ muối là 0,35 %
Nhiệt độ
Nhiệt độ nước biển thay đổi . Có nhiều nguyên nhân :
Khi càng xuống sâu xuống đáy biển nhiệt độ giảm, càng sâu càng lạnh
•
Tùy theo mùa trong năm, mùa hè nhiệt độ cao, mùa đông biển lạnh
•
Từ vĩ độ thấp lên vĩ độ cao ( từ Xích đạo về cực )
•
- Ảnh hưởng các dòng biển nóng và lạnh
•
Vai trò
Biển là nguồn cung cấp hơi nước để tạo ra mưa cho khí quyển . Có mưa mà duy trì sự sống
cho các sinh vật trên đất liền
Biển là kho báu cho ngành hải sản, ngành sản xuất muối, du lịch biển . Hiện nay biển có
160000 loài động vật và 10000 loài thực vật
Biển còn chứa vô số có mỏ dầu ở dưới đáy đại dương . Trữ lượng dầu mỏ 21 tỉ tấn, khí tự
nhiên 14 nghìn tỉ m3
Rất nhiều mỏ nằm ở dưới đát đại dương đã được con người khai thác từ lâu như sắt , lưu
huỳnh , đồng , phốt pho ...
Ngoài ra biển chứa một lượng lớn các nguồi tài nguyên hóa học với trên 70 nguyên tố hóa học
khác nhau : Natri , Clo , Kali , Nito ... Không chỉ có biển mà thủy triều là nguồn năng lượng vô
tận của nhiều quốc gia trên thế giới . Nhà máy thủy triều đầu tiên ở cửa sông Răng-xơ ( Pháp
) năm 1967 công suất là 240000 kW . Nhiệt độ của nước biển chệnh lệch rất lớn tạo ra 1
nguồn thủy nhiệt điện vô cùng to lớn ; dựa vào nguyên lí đó mà người ta xây dựng những nhà
máy thủy nhiệt . NHà máy thủy nhiệt đầu tiên đang hoạt động ở A-bit-gian ( Cốt Đi-voa ) với
công suất 14000 kW
Vận tải đường biển xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng trong buôn bán quốc tế, là chiếm
lược của nền kinh tế của mỗi quốc gia . Vận tải biển chiếm 3/4 khối lượng hàng hóa trao
đổi trên thế giới
Danh sách một số biển theo đại dương
Thái Bình Dương
Biển Arafura Biển Biển Biển
• • • •
Biển Banda Nhật
Ceram Tasman
•
Biển Bering Biển Bản Biển
• • •
Biển Bismarck Biển
Coral Visayas
• •
Biển Bột Hải Biển nội địa Đông Hải
• • •
Biển Bohol (còn được gọi là biển Đông Seto Hoàng
• •
Biển Biển Hải
Mindanao) • •
Biển Camotes Vịnh
Flores Okhotsk
• •
Biển Biển Alaska
• •
Vịnh Bắc
Biển Celebes Halmah Philippi •
•
Bộ .
era nes
Biển Biển Vịnh
• • •
Java Savu California
- Biển Biển (còn
• •
được gọi
Koro Sibuyan
Biển là biển
•
Biển Solomo Cortés)
•
Vịnh
n
Molucc •
Carpentar
a
Biển ia
•
Vịnh Hạ
Sulu •
Long.
Vịnh Thái
•
Lan
Đại Tây Dương
Biển Adriatic Biển Biển Na Vịnh
• • • •
Biển Aegea Crete Uy Campec
•
Biển Azov Biển Biển he
• • •
Biển Alboran Vịnh
Đen Sargass
• •
Biển Argentine Biển o Chesape
• •
Biển Baltic Biển
Hebride ake
• •
Biển Bắc Vịnh
s Thrace
• •
Biển Bothnia Biển Biển Fundy
• • •
Biển Caribe Vịnh
Ionia Tyrrhen
• •
Biển us Guinea
•
Biển Vịnh
Biển Celtic Ireland • •
•
Biển Wadden Mexico
•
Địa Vịnh
Labrado • •
Phần
r Trung
Biển Hải Lan
•
Eo biển Vịnh
Ligure • •
Biển Davis Sidra
•
Eo biển Vịnh
Manche • •
Biển Đan Saint
•
Mạch
Marmar Lawrenc
Vịnh
a e
•
Biscay
Biển Vịnh
• •
Vịnh
Mirtoon Venezue
•
Bothnia la
Ấn Độ Dương
Biển Andaman Biển Vịnh Vịnh
• • • •
Biển Ả Rập Timor Oman Bengal
•
- Biển Đỏ Vịnh Vịnh Ba Eo biển
• • • •
Tư
Aden Mozamb
ique
Bắc Băng Dương
Biển Barents Biển Biển Eo biển
• • • •
Biển Beaufort Đông Laptev Kara
•
Biển Bering Biển Vịnh
Siberi
• • •
Biển Lincoln Amunds
•
Biển
Biển Chukchi Greenla en
•
•
Vịnh
nd Pechora •
Biển Baffin
•
Vịnh
Biển
Hoàng •
•
tử Trắng Hudson
Gustav
Vịnh
Adolf •
James
Biển
•
Kara
Nam Đại Dương
Biển Amundsen Vịnh Biển Eo biển
• • • •
Biển Bellingshausen Đại Úc Scotia Bass
•
Biển Vịnh
• •
Biển Davis Vịnh
Mawson Spencer
• •
Saint
Biển Biển Vincent
• •
Ross Weddell
Tuy theo 1 số tài liệu, biển và đại dương là 2 khái niệm khác nhau, nhưng đại đa số các nhà
nghiên cứu đồng ý rằng 2 khái niệm này là 1.
Đại dương là một vùng lớn chứa nước mặn tạo thành thành phần cơ bản của thủy quyển.
Khoảng 71% diện tích bề mặt Trái Đất (khoảng 361 triệu kilômét vuông) được các đại
dương che phủ, một khối nước liên tục theo tập quán được chia thành một vài đại dương chủ
chốt và một số các biển nhỏ. Trên một nửa diện tích khu vực này có độ sâu trên 3.000 mét
(9.800 ft). Độ mặn trung bình của đại dương là khoảng 35 phần ngàn (ppt) (3,5%) và gần như
mọi loại nước biển có độ mặn dao động trong khoảng từ 30 (ở vùng cận cực) tới 38 ppt
- (vùng nhiệt đới/cận nhiệt đới). Nhiệt độ nước bề mặt ở ngoài khơi là 29 °C (84 °F) ở vùng
ven xích đạo xuống đến 0 °C (32 °F) ở các vùng địa cực.
•
Tổng quan
Mặc dù nói chung được công nhận như là các đại dương 'tách biệt', nhưng các vùng nước
mặn này tạo thành một khối nước nối liền với nhau trên toàn cầu, thường được gọi chung là
Đại dương thế giới hay đại dương toàn cầu. Khái niệm về đại dương toàn cầu như là một
khối nước liên tục với sự trao đổi tương đối tự do giữa các bộ phận của nó có tầm quan
trọng nền tảng cho hải dương học. Các phần đại dương chính được định nghĩa một phần dựa
vào các châu lục, các quần đảo khác nhau cùng các tiêu chí khác: các phần này là (theo trật tự
giảm dần của diện tích) Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương
(đôi khi được phân chia và tạo thành phần phía nam của Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và
Ấn Độ Dương) và Bắc Băng Dương (đôi khi được coi là một biển của Đại Tây Dương). Thái
Bình Dương và Đại Tây Dương cũng có thể phân chia tiếp bởi đường xích đạo thành các
phần Bắc và Nam. Các khu vực nhỏ hơn của đại dương được gọi là các biển, vịnh hay một
số các tên gọi khác. Cũng tồn tại một số khối nước mặn nhỏ hơn trong đất liền và không nối
với Đại dương thế giới, như biển Aral, Great Salt Lake (Hồ Muối Lớn) – mặc dù chúng có
thể coi như là các 'biển', nhưng thực ra chúng là các hồ nước mặn. Có 5 đại dương trên thế
giới, trong đó Thái Bình Dương là lớn nhất và sâu nhất, thứ hai về diện tích và độ sâu là Đại
Tây Dương, tiếp theo là Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương còn nhỏ và nông nhất là Bắc Băng
Dương.
Nước đại dương luôn luôn chuyển động do tác động của thuỷ triều, gây ra bởi lực hấp dẫn
của Mặt Trăng và Mặt Trời đối với Trái Đất, sóng và hải lưu do tác dụng của gió. Các dòng
bù trừ phát sinh do sự thiếu hụt của nước. Chẳng hạn nước của Địa Trung Hải bị bốc hơi rất
mạnh, ít sông suối đổ vào, do đó nước có độ mặn cao và có tỉ trọng lớn. Nước ở dưới sâu
chảy từ Địa Trung Hải ra Đại Tây Dương tạo ra sự thiếu hụt, vì thế một hải lưu bề mặt lại
chảy từ Đại Tây Dương vào Địa Trung Hải để bù vào chỗ thiếu hụt đó.
Do độ che phủ bề mặt Trái Đất tới 71% nên các đại dương có ảnh hưởng lớn tới sinh quyển.
Sự bốc hơi nước của các đại dương quyết định phần lớn lượng giáng thủy mà Trái Đất nhận
được, nhiệt độ nước của các đại dương cũng quyết định phần lớn khí hậu và kiểu gió trên
Trái Đất. Sự sống trong lòng đại dương có lịch sử tiến hóa diễn ra khoảng 3 tỷ năm trước khi
có sự di chuyển của động, thực vật lên trên đất liền. Lượng sự sống và khoảng cách tính từ
bờ biển (yếu tố vô sinh) ảnh hưởng tới sự phân bố chính của quần xã sinh vật biển. Các sinh
vật như tảo, rong, rêu sinh sống trong khu vực giáp giới thủy triều (nơi đất liền gặp biển) sẽ
cố định chúng vào đá vì thế chúng không bị rửa trôi bởi thủy triều. Đại dương cũng là nơi sinh
sống của nhiều loài và có thể phân chia thành vài đới (vùng, tầng) như vùng biển khơi, vùng
đáy, vùng chiếu sáng, vùng thiếu sáng v.v.[6]
Về mặt địa chất, đại dương là nơi mà lớp vỏ đại dương được nước che phủ. Lớp vỏ đại
dương dày trung bình khoảng 4,5 km, bao gồm một lớp trầm tích mỏng che phủ trên lớp
bazan núi lửa mỏng đã đông cứng. Lớp bazan này che phủ lớp peridotit thuộc mặt ngoài của
- lớp phủ Trái Đất tại những nơi không có châu lục nào. Xét theo quan điểm này thì ngày nay có
3 “đại dương”: Đại dương thế giới, biển Caspi và biển Đen, trong đó 2 “đại dương” sau
được hình thành do va chạm của mảng Cimmeria với Laurasia. Địa Trung Hải có thể coi là
một “đại dương” gần như riêng biệt, nối thông với Đại dương thế giới qua eo biển Gibraltar
và trên thực tế đã vài lần trong vài triệu năm trước chuyển động của châu Phi đã đóng kín eo
biển này hoàn toàn. Biển Đen thông với Địa Trung Hải qua Bosporus, nhưng là do tác động
của một kênh tự nhiên cắt qua lớp đá lục địa vào khoảng 7.000 năm trước, chứ không phải
một mảng của đáy biển như eo biển Gibraltar.
Tính chất vật lý
Diện tích của Đại dương thế giới là khoảng 361 triệu kilômét vuông (139 triệu dặm vuông),
dung tích của nó khoảng 1,3 tỷ kilômét khối (310 triệu dặm khối), và độ sâu trung bình
khoảng 3.790 mét (12.430 ft).[ Gần một nửa nước của đại dương thế giới nằm sâu dưới
3.000 m (9.800 ft). Sự mở rộng khổng lồ của đại dương sâu (những gì dưới độ sâu 200m) che
phủ khoảng 66% bề mặt Trái Đất. Nó không bao gồm các biển không nối với Đại dương thế
giới, chẳng hạn như biển Caspi.
Tổng khối lượng của thủy quyển khoảng 1,4 × 1021 kilôgam, chiếm khoảng 0,023% khối
lượng Trái Đất. Dưới 2% là nước ngọt; phần còn lại là nước mặn, chủ yếu trong các đại
dương.
Màu sắc
Một sai lầm phổ biến cho rằng nước biển có màu xanh lam chủ yếu là do bầu trời có màu
xanh lam. Trên thực tế, nước có màu xanh lam rất nhạt chỉ khi được nhìn thấy với một thể
tích lớn. Trong khi sự phản chiếu bầu trời có đóng góp vào biểu hiện màu xanh lam của bề
mặt đại dương, nhưng nó không phải là nguyên nhân chính. Nguyên nhân chủ yếu là sự hấp
thụ của các hạt nhân các phân tử nước đối với các photon màu đỏ từ ánh sáng chiếu tới, ví dụ
đã biết duy nhất về màu sắc trong tự nhiên tạo ra từ động lực học dao động chứ không phải
động lực học điện tử.
Phát sáng
Nhiều thủy thủ và các nhà hàng hải chuyên nghiệp thông báo rằng đại dương thường bức xạ
ánh sáng nhìn thấy hay phát quang, có thể trải dài hàng dặm vào ban đêm. Năm 2005, các nhà
khoa học đã thông báo điều này lần đầu tiên, chứng cứ bằng hình ảnh cũng đã thu được đối
với sự phát sáng này. Nó có thể là do phát quang sinh học.
Thám hiểm
- Bản đồ các đặc trưng chính dưới đáy biển. (1995, NOAA)
Đi lại trên bề mặt đại dương bằng tàu thuyền đã diễn ra từ thời tiền sử, nhưng chỉ ngày nay
thì việc đi lại ngầm dưới mặt nước biển một cách rộng khắp mới có thể trở thành hiện thực.
Điểm sâu nhất trong đại dương nằm ở phía nam rãnh Mariana trong Thái Bình Dương, gần
quần đảo Bắc Mariana. Nó có độ sâu tối đa là 10.923 m (35.838 ft). Nó được khảo sát chi tiết
lần đầu tiên năm 1951 bởi tàu "Challenger II" của hải quân Anh và điểm sâu nhất này được
đặt tên theo tên tàu này là "Challenger Deep". Năm 1960, tàu thăm dò biển sâu Trieste đã xuống
thành công tới đáy của rãnh, được điều khiển bởi một thủy thủ đoàn gồm 2 người.
Phần lớn đáy các đại dương vẫn chưa được thám hiểm và lập bản đồ. Hình ảnh toàn cầu của
nhiều đặc trưng ngầm lớn hơn 10 km (6 dặm) được tạo ra năm 1995 dựa trên các méo mó
hấp dẫn của bề mặt biển cận kề.
Các khu vực/tầng
- Các bộ phận chính của đại dương
Đại dương được chia ra thành nhiều khu vực hay tầng, phụ thuộc vào các điều kiện vật lý và
sinh học của các khu vực này. Vùng biển khơi bao gồm mọi khu vực chứa nước của biển cả
(không bao gồm phần đáy biển) và nó có thể phân chia tiếp thành các khu vực con theo độ sâu
và độ chiếu sáng. Vùng chiếu sáng che phủ đại dương từ bề mặt tới độ sâu 200 m. Đây là khu
vực trong đó sự quang hợp diễn ra phổ biến nhất và vì thế chứa sự đa dạng sinh học lớn nhất
trong lòng đại dương. Do thực vật chỉ có thể sinh tồn với quá trình quang hợp nên bất kỳ sự
sống nào tìm thấy dưới độ sâu này hoặc phải dựa trên các vật chất trôi nổi chìm xuống từ
phía trên (xem tuyết biển) hoặc tìm các nguồn chủ lực khác; điều này thường xuất hiện dưới
dạng miệng phun thủy nhiệt trong khu vực gọi là vùng thiếu sáng (tất cả các độ sâu nằm
dưới mức 200 m). Phần biển khơi của vùng chiếu sáng được gọi là vùng biển khơi mặt
(epipelagic). Phần biển khơi của vùng thiếu sáng có thể chia tiếp thành các vùng nối tiếp nhau
theo chiều thẳng đứng. Vùng biển khơi trung (mesopelagic) là tầng trên cùng, với ranh giới
thấp nhất tại lớp dị nhiệt là 12 °C, trong đó tại khu vực nhiệt đới nói chung nó nằm ở độ sâu
giữa 700 với 1.000 m. Dưới tầng này là vùng biển khơi sâu (bathypelagic) nằm giữa 10 °C và
4 °C, hay độ sâu giữa khoảng 700-1.000 m với 2.000-4.000 m. Nằm dọc theo phần trên của
vùng bình nguyên sâu thẳm là vùng biển khơi sâu thẳm (abyssalpelagic) với ranh giới dưới
của nó nằm ở độ sâu khoảng 6.000 m. Vùng cuối cùng nằm tại các rãnh đại dương và được
gọi chung là vùng biển khơi tăm tối (hadalpelagic). Nó nằm giữa độ sâu từ 6.000 m tới 10.000
m và là vùng sâu nhất của đại dương.
Cùng với các vùng biển khơi thiếu sáng còn có các vùng đáy thiếu sáng, chúng tương ứng với
ba vùng biển khơi sâu nhất. Vùng đáy sâu che phủ sườn dốc lục địa và kéo dài xuống độ sâu
khoảng 4.000 m. Vùng đáy sâu thẳm che phủ các bình nguyên sâu thẳm ở độ sâu 4.000 – 6.000
m. Cuối cùng là vùng đáy tăm tối tương ứng với vùng biển khơi tăm tối, tìm thấy ở các rãnh
đại dương. Vùng biển khơi cũng có thể chia ra thành hai vùng con, là vùng ven bờ (neritic) và
vùng đại dương. Vùng neritic bao gồm khối nước nằm ngay trên các thềm lục địa, trong khi
vùng đại dương bao gồm toàn bộ vùng nước biển cả còn lại.
Ngược lại, vùng duyên hải bao phủ khu vực nằm giữa các mức thủy triều cao và thấp nhất,
nó là khu vực chuyển tiếp giữa các điều kiện đại dương và đất liền. Nó cũng có thể gọi là
vùng liên thủy triều do nó là khu vực trong đó mức thủy triều có ảnh hưởng mạnh tới các
điều kiện của khu vực.
Ảnh hưởng khí hậu
Một trong những dạng thời tiết gây ấn tượng nhất diễn ra trên các đại dương là các xoáy
thuận nhiệt đới, bao gồm bão và áp thấp nhiệt đới. Các hải lưu có ảnh hưởng lớn tới khí hậu
Trái Đất bằng cách chuyển dịch các luồng không khí nóng hay lạnh cũng như giáng thủy tới
các vùng ven biển, nơi chúng có thể được đưa vào đất liền nhờ gió. Hải lưu vòng Nam Cực
xoay quanh châu lục này, có ảnh hưởng tới khí hậu khu vực và nối liền các hải lưu trong các
đại dương khác.
Đại dương cổ
- Hình thành đại dương
Trôi dạt lục địa đã tái định hình thể cho các đại dương của Trái Đất, kết hợp và chia cắt các
đại dương cổ để tạo ra các đại dương như hiện nay. Các đại dương cổ có:
Đại dương sông Bridge, đại dương nằm giữa quần đảo Insular cổ đại và Bắc Mỹ.
•
Đại dương Iapetus, đại dương ở Nam bán cầu nằm giữa Baltica và Avalonia.
•
Panthalassa, đại dương toàn cầu rộng lớn mênh mông, bao quanh siêu lục địa Pangaea.
•
Đại dương Rheic
•
Đại dương núi Slide, đại dương nằm giữa quần đảo Intermontane cổ đại và Bắc Mỹ.
•
Đại dương Tethys, đại dương nằm giữa các lục địa cổ Gondwana và Laurasia.
•
Đại dương Khanty, đại dương nằm giữa Baltica và Siberia.
•
Mirovia, đại dương bao quanh siêu lục địa Rodinia.
•
Đại dương Paleo-Tethys, đại dương nằm giữa Gondwana và địa hình Hunic.
•
Đại dương Proto-Tethys,
•
Đại dương Pan-Africa, đại dương bao quanh siêu lục địa Pannotia.
•
Superocean, đại dương bao quanh siêu lục địa toàn cầu.
•
Đại dương Ural, đại dương nằm giữa Siberia và Baltica.
•
- Chương II: Lục địa
Lục địa là một mảng đất liền nằm trên bề mặt lớp vỏ của Trái Đất, bị nước bao quanh. Lục
địa chiếm tổng diện tích khoảng hơn 148,647 triệu km² hay khoảng 29% diện tích bề mặt
Trái Đất (510.065.600 km²). Trong địa chính trị, lục địa nói chung hay được chia ra làm 6 châu
lục, xếp theo thứ tự từ lớn tới nhỏ về diện tích như sau: châu Á, châu Mỹ, châu Phi, châu
Nam Cực, châu Âu và châu Đại Dương.
•
Phân biệt
Tuy nhiên, hiện nay có một sự lộn xộn trong cách hiểu và dùng từ giữa lục địa và đại lục hay
giữa lục địa với châu lục. Đại lục và lục địa đều là các khái niệm của địa lý tự nhiên, đại lục
là mảng đất liền lớn trong khi lục địa là mảng đất liền nhưng không chỉ rõ là có quy mô về
diện tích lớn hay nhỏ. Ví dụ, các đảo như Greenland với diện tích khoảng 2.166.086 km² hay
Madagascar với diện tích khoảng 587.040 km² là các lục địa khi xét về mặt địa lý tự nhiên,
nhưng không thể coi là đại lục. Châu lục là khái niệm của địa chính trị và nó mang ý nghĩa
chính trị, lịch sử nhiều hơn. Một châu lục là tổ hợp lớn về đất đai, trên đó có nhiều quốc gia
với các phần diện tích thuộc cả đại lục lẫn các đảo xung quanh (nếu có).
Đặc trưng địa chất
Đặc trưng của lục địa là có cấu trúc vỏ lục địa (quyển sial) với bề dày 20 - 70 km và có giới
hạn dưới là ranh giới Moho. Lớp vỏ lục địa chủ yếu chứa các loại đá nhẹ như granit với tỷ
trọng trung bình khoảng 2,7-2,8 g/cm³. Kiến tạo mảng là tiến trình địa chất chính trong việc
gây ra chuyển động, va chạm và phân chia của các khối lục địa.
Châu lục
Châu lục hay châu là một khái niệm của địa chính trị. Nó là tổ hợp lớn về đất đai, trên đó có
nhiều quốc gia với các phần diện tích thuộc cả đại lục lẫn các đảo xung quanh (nếu có).
Phân biệt
Tuy nhiên, hiện nay có một sự lộn xộn trong cách hiểu và dùng từ giữa lục địa và đại lục với
châu lục. Đại lục và lục địa đều là các khái niệm của địa lý tự nhiên, đại lục là mảng đất
- liền lớn trong khi lục địa là mảng đất liền nhưng không chỉ rõ là có quy mô về diện tích lớn
hay nhỏ. Ví dụ, các đảo như Greenland với diện tích khoảng 2.166.086 km² hay Madagascar
với diện tích khoảng 587.040 km² là các lục địa khi xét về mặt địa lý tự nhiên, nhưng không
thể coi là đại lục. Các đảo đó cũng không bao giờ được coi là châu lục. Châu lục là khái niệm
của địa chính trị và nó mang ý nghĩa chính trị, lịch sử nhiều hơn như định nghĩa trong bài.
Số lượng các châu lục
Có nhiều cách phân chia các châu lục khác nhau:
Các kiểu phân chia
Bản dồ màu chỉ ra các châu lục. Các màu gần giống nhau thể hiện các khu vực có thể gộp lại hay phân chia ra.
Bắc Châu Đại
Châu Nam Châu Châu Châu
7 châu lục
Nam Mỹ
Mỹ Cực Dương
Phi Âu Á
Bắc Châu Nam Châu
6 châu lục
Nam Mỹ Đại lục Á Âu Châu Úc
Mỹ Cực Phi
Châu Đại
Châu Châu Châu
5 châu lục
Châu Mỹ
Dương
Phi Âu Á
Diện tích và dân số
Phần trăm dân
Dân số ước
số
Diện tích (km²)
Tên tính
trên tổng dân số
2002
thế giới
Đại lục Phi-Á
84.360.000 5.400.000.000 86%
Âu
Đại lục Á-Âu 53.990.000 4.510.000.000 72%
Châu Á 43.810.000 3.800.000.000 60%
Châu Mỹ 42.330.000 886.000.000 14%
Châu Phi 30.370.000 890.000.000 14%
Bắc Mỹ 24.490.000 515.000.000 8%
Nam Mỹ 17.840.000 371.000.000 6%
Châu Nam Cực 13.720.000 1.000 0,00002%
Châu Âu 10.180.000 710.000.000 11%
Châu Đại 9.010.000 33.552.994 0,6%
- Dương
Úc-New Guinea 8.500.000 30.000.000 0.5%
Lục địa Úc 7.600.000 21.000.000 0.3%
Tổng diện tích toàn bộ các châu lục là 148.647.000 km², chiếm khoảng 29,1% diện tích bề
mặt Trái Đất
1 số quốc gia nằm gọn trong những hòn đảo, được gọi là đảo quốc
10 đảo lớn nhất thế giới
Diện
Quốc gia
Tên tích
km²
2.130.80
Greenland , quốc gia Greenland
0
Indonesia và Papua New Guinea
New Guinea 785.753
748.168 Brunei , Indonesia và Malaysia
Borneo
Madagascar 587.713 Madagascar
Đảo Baffin 507.451 Canada
Sumatra 443.066 Indonesia
Honshu 225.800 Nhật Bản
Đảo Anh 218.595 Anh
Đảo Victoria 217.291 Canada
Đảo
196.236 Canada
Ellesmere
nguon tai.lieu . vn