Xem mẫu

  1. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH ĐỊA LÝ VẬN TẢI THỦY Chuyên đề BÃO NHIỆT ĐỚI GVHD: Nguyễn Văn Hinh Nhóm 4 Nguyễn Văn Doanh- 0754010083-KT07B Võ Ngọc Minh Quân- 0954030055- QL09 Phạm Hữu Đại- 0954030012- QL09 -1-
  2. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH Nội dung A. Những khái niệm cơ bản về bão nhiệt đới B. Các yếu tố khí tượng hải văn trong khu vực bão C. Sự di chuyển của bão D. Ảnh hưởng của bão tới cảng, tàu thuyền, hàng hóa… E. Nhận biết và dự báo bão trên biển F. Phòng chống bão cho tàu thuyền G. Kết luận -2-
  3. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH A. Những khái niệm cơ bản về bão nhiệt đới 1.Bão nhiệt đới 1.1 Xoáy thuận nhiệt đới Xoáy thuận chia làm hai loại về vị trí địa lý, cấu trúc và khối khí là: xoáy thuận ngoại nhiệt đới (xoáy thuận) và xoáy thuận nhiệt đới. Xoáy thuận nhiệt đới là một hệ thống khí áp thấp ở vùng nhiệt đới. Áp suất khí quyển (khí áp) trong xoáy thuận nhiệt đới thấp hơn rất nhiều so với xung quanh. Vùng có khí áp nhỏ nhất được gọi là vùng trung tâm. Ở Bắc Bán cầu xoáy thuận nhiệt đới có hoàn lưu gió xoáy vào tâm theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, ngược lại ở Nam Bán Cầu gió xoáy vào tâm xoáy thuận nhiệt đới theo hướng thuận chiều kim đồng hồ.  Xoáy thuận nhiệt đới là xoáy thuận được cấu tạo bởi khối khí nóng ẩm 1.2 Bão nhiệt đới Bão (typhoon) là tên gọi chung những xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) trên Tây Bắc Thái Bình Dương khi tốc độ gió cực đại (Vmax) ở gần tâm duy trì liên tục từ 64 hải lý (gió cấp 12 ở nước ta) trở lên (hải lý: knot - kt, bằng 1,853 km/h). Ở khu vực khác nhau bão được gọi bằng thuật ngữ khác nhau, như ở Đại Tây Dương, đông bắc Thái Bình Dương và đông nam Thái Bình Dương (phía đông 160oĐông) gọi bão là "hurricane", Trung Quốc dịch là "cụ phong" là gió bão. Tổ chức khí tượng thế giới (WMO: World Meteorological Organization) quy định phân loại xoáy thuận nhiệt đới thành: 1/ Áp thấp nhiệt đới (Tropical depression): là xoáy thuận nhiệt đới với hoàn lưu mặt đất giới hạn bởi một hay một số đường đẳng áp khép kín và tốc độ gió lớn nhất ở gần vùng trung tâm từ 10,8 – 17,2m/s (cấp 6 - cấp 7). 2/ Bão nhiệt đới (Tropical storm): là xoáy thuận nhiệt đới với các đường đẳng áp khép kín và tốc độ gió lớn nhất ở vùng gần trung tâm từ 17,2 – 24,4m/s (c ấp 8 - cấp 9). 3/ Bão mạnh (Severe Tropical storm): là xoáy thuận nhiệt đới với tốc độ gió lớn nhất gần trung tâm từ 24,5 – 32,6m/s (cấp 10- cấp 11). -3-
  4. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH 4/ Bão rất mạnh (Typhoon/Hurricane): là xoáy thuận nhiệt đới với tốc độ gió lớn nhất vùng gần trung tâm từ 32,7m/s trở lên. Những cơn bão quá mạnh người ta gọi là "siêu bão" (supertyphoon). 1.2 Quy luật hình thành bão 1.2.1 Điều kiện hình thành bão Bão thường hình thành tập trung ở những vùng nhất định, gọi là "ổ bão". Bão được hình thành ở 6 ổ bão gồm: Vịnh Bengal và biển Ả Rập; tây bắc Thái Bình Dương; đông bắc Thái Bình Dương; tây bắc Đại Tây Dương; tây nam Ấn Độ Dương và vùng biển bắc Úc. Trong đó tây bắc Thái Bình Dương là ổ có nhiều bão nhất (chiếm 38% số bão trên toàn cầu). Khu vực hay xảy ra bão trên thế giới và số bão trung bình hàng năm Bão là một xoáy thuận nhiệt đới được cấu trúc bởi khối khí nóng ẩm với dòng thăng rất mạnh xung quanh mắt bão, tạo hệ thống mây, mưa xoáy vào vùng trung tâm bão. Năng lượng bão là ẩn nhiệt ngưng kết của lượng hơi nước khổng lồ bốc hơi từ mặt biển, ngoài ra bão hình thành đòi hỏi không khí có tầng kết bất ổn định đảm bảo cho sự hình thành đối lưu sâu và dông. Bão chỉ có thể hình thành khi có đủ 3 điều kiện: Nhiệt, ẩm và động lực để tạo xoáy. Nhà khí tượng Erik Palmen đã tìm ra rằng bão chỉ có thể hình thành trên biển trong dải vĩ độ 5 - 20ovĩ hai bên xích đạo, nơi có nhiệt độ cao (từ 26 – 27oC trở lên) và lực Coriolis đủ lớn để tạo xoáy, tạo điều kiện thuận lợi cho bão hình thành. Sở dĩ bão không thể hình thành trong giải 0 – 5 ovĩ về hai phía của xích đạo vì ở đó lực coriolis quá nhỏ, không đủ để tạo xoáy. -4-
  5. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH Palmen (1956) đưa ra 3 điều kiện cơ bản cho sự hình thành bão: 1. Khu vực đại dưong có diện tích đủ lớn với nhiệt độ mặt biển cao (từ 26 – 27oC) bảo đảm nước bốc hơi mạnh cung cấp năng lượng ngưng kết lớn cho hệ thống bão.Điều này dễ đạt được ở những vùng biển gần xích đạo. 2. Lực Coriolis có giá trị đủ lớn tạo xoáy thuận. Bão thường hình thành trong giới hạn bởi vĩ độ 5 – 20o hai bên xích đạo. 3. Phải tạo ra được những dòng không khí xoáy, vậy nhất thiết phải có sự giao thoa của hai khối không khí có nhiệt độ không khí chênh lệch đáng kể tạo điều kiện cho đối lưu phát triển. Riehl bổ sung thêm 2 điều kiện: 4. Ở trên cao, trường khí áp phải phân kỳ để đảm bảo giải tỏa khối lượng không khí hội tụ ở mặt đất và duy trì bão. 5. Ở mặt đất phải có nhiễu động áp thấp ban đầu. 80% các cơn bão có liên quan đến dải hội tụ nhiệt đới. Dải hội tụ nhiệt đới ít họat động thì bão cũng ít. 1.3 Cấu trúc nằm ngang của bão Bão nhiệt đới có cấu trúc đối xứng cả về phương nằm ngang và phương thằng đứng. Khoảng cách từ tâm bão dến đường đẳng áp khép kín cuối cùng được gọi là bán kính bão. Khoảng cách từ tâm bão tới vùng mà ở đó có tốc độ gió đạt cấp 6 gọi là bán kính xoáy của bão. Khoảng không gian theo phương nằm ngang của bão ở giai đoạn phát triển nhất có thể chia làm 4 vùng sau: mắt bão (the eye), thành mắt bão (the eyewall), dải mây (rainbands) và lớp mây ti dày đặc phía trên (the Dense Cirrus Overcast) -5-
  6. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH Mô hình cấu trúc bão 1.3.1 Mắt bão Mắt bão là khu vực có khí áp nhỏ nhất trong bão, gần như lặng gió, quang mây, và có nhiệt độ cao hơn vùng xung quanh (do sự đốt nóng dòng không khí thăng lên), mắt bão có đường kính trung bình khoảng 18-30km. Thông thường chỉ có những cơn bão mạnh trưởng thành mới hình thành mắt bão rõ nét.Ở tầng thấp khoảng 200m nhiệt Hình ảnh mắt bão nhìn từ vệ tinh độ không khí trong mắt bão cao hơn xung quanh khoảng 6 -15 C, độ ẩm không khí trong vùng mắt bão rất thấp, gió trong mắt bão rất thấp thường nhỏ hơn 5m/s.Thời gian đi qua của mắt bão có khi kéo dài tới 2h sau đó mạnh lên như lúc ban đầu chỉ có hướng gió ngược với ban đầu. Trong không gian ba chiều, bão là một cột xoáy khổng lồ, ở tầng thấp (khoảng 0 – 3km) không khí nóng ẩm chuyển động xoắn trôn ốc ngược chiều kim đồng hồ (ở Bắc Bán Cầu) hội tụ vào tâm, chuyển động thẳng đứng lên trên trong thành mắt bão và toả ra ngoài ở trên đỉnh theo chiều ngựơc lại. Ở chính giữa trung tâm của cơn bão không khí chuyển động giáng xuống, tạo nên vùng quang mây ở mắt bão. Có thể mô phỏng sơ bộ cấu trúc các trường khí tượng trong bão như sau: -6-
  7. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH - Tham gia chuyển động xoay trong bão là một khối không khí khổng lồ có phạm vi ngang khoảng 200 – 1000km, phạm vi thẳng đứng lên đến lớp đỉnh tầng đối lưu (10 – 12km).Giá trị khí áp nhỏ nhất tại tâm bão và tăng dần ra phía rìa bão. Càng vào gần tâm, cường độ gió bão càng mạnh, khu vực tốc độ gió mạnh nhất cách tâm bão khoảng vài chục km. Vào vùng mắt bão gió đột ngột yếu hẳn, tốc độ gió gần bằng không. Khi qua khỏi vùng mắt bão gió lại đột ngột mạnh lên nhưng có hướng ngược lại, đây chính là tính chất ảnh hưởng nguy hiểm nhất của bão. Nếu nhìn từ trên cao xuống (ảnh mây bão chụp từ vệ tinh) mây bão có dạng gần tròn, hình xoáy trôn ốc ngược chiều kim đồng hồ (ở Bắc Bán Cầu): Cấu trúc mây bão chủ yếu là hệ thống mây đối lưu, dòng thăng tập trung ở dải mây này, tốc độ dòng thăng trong bão rất lớn và có thể lên cao đến 10km, tạo thành cột không khí chuyển động xoáy rất mạnh và hình thành khối mây bão khổng lồ. Đến một độ cao nào đó dòng không khí thổi ngang từ thành mắt bão ra xung quanh tạo nên những màn mây mỏng toả ra rất xa ngoài vùng bão. Xung quanh mắt bão có mây bão dạng thành gần như thẳng đứng làm thành hình vành khăn (Thành mắt bão). Bão Katrina Do ở mắt bão có chuyển động giáng, -7-
  8. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH nhiệt độ không khí trong mắt bão lớn hơn xung quanh rất nhiều, vì thế người ta nói bão có lõi nóng. 1.3.2 Vùng gió bão và mưa cực đại Bề rộng vùng này thì thường từ 55-150km. Ở đây ta thấy sự thay đổi rất lớn c ủa áp suất, gió lớn và mưa rào dữ dội.Tốc độ gió nhiều khi đạt 50-60m/s.Tốc độ gió giảm dần khi đi từ giáp tâm ra phía ngoài. Vùng này có thể phân chia như sau: Vùng giáp với mắt bão có bề rộng khoảng 30-40km có gió lớn và mưa rào dữ dội. Vùng kế tiếp vung giáp mắt bão (bề rộng khoảng 100km ) tốc độ gió và l ượng mưa giảm hơn vùng trong một chút. Đặc trưng của khu vực này là tồn tại dòng thăng của không khí với tốc độ khoảng 0.15m/s. Lượng mưa trung bình khoảng 12-15m/s, tuy nhiên thì lượng mưa phân bố không đều. 1.3.3 Vùng gió xoáy cấp 6, cấp 7 và vùng ngoài bào Càng xa tâm bão thì lượng mưa và sức gió giảm dần, phía ngoài bão tốc độ gió của bão giảm tới cấp 4-5, chủ yếu là mưa rào nhẹ 1.4 Cấu trúc thẳng đứng của bão Ngày nay theo khảo sát của các nhà khoa học người ta đã khẳng đ ịnh chắc chắn rằng: Bão có thể phân bố đến độ cao 15-18km. 1.5 Thời gian “sống” của bão Thời gian tồn tại trung bình của bão khỏang 7 – 8 ngày đêm tính từ thời điểm hình thành cho đến khi đổ bộ vào bờ hoặc tan rã trên biển. Tuy nhiên, có một số cơn bão chỉ tồn tại vài giờ, và cũng có những cơn bão tồn tại trên 15 ngày hoặc lâu hơn nữa. Theo Riehl (1979) có thể chia quá trình hình thành và phát triển của bão thành 4 giai đọan: 1.5.1 Giai đoạn hình thành -8-
  9. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH Bão Katrina 25/8/2005 lúc mới hình thành Bão xuất hiện trực tiếp từ mặt biển với sự hình thành của những cụm mây tích lớn. Phần lớn bão hình thành từ một nhiễu động là áp thấp có tr ước trong trường áp nhiệt đới (tuy nhiên không phải nhiễu động nào trên dải hội tụ nhiệt đới cũng phát triển thành bão). Quá trình khơi sâu của áp thấp thường diễn ra chậm chừng vài giờ, đủ để gió tản mạn trong khu vực rộng lớn có thể sắp xếp lại, tạo thành các dòng khí xóay hội tụ đưa không khí nóng ẩm vào tâm. Trong giai đoạn hình thành (giai đọan áp thấp nhiệt đới), gió có cường độ bão chỉ thấy ở mực thấp. Và khi gió đạt tốc độ gió cực đại tại vùng trung tâm vượt quá 17,2m/s, áp thấp nhiệt đới trở thành bão. 1.5.2 Giai đoạn trẻ (giai đoạn trưởng thành ) Thường từ áp thấp nhiệt đới phát triển thành bão phải mất vài ngày, nhưng có khi chỉ 12h áp thấp nhiệt đới đã thành bão. Trong giai đoạn này áp suất gi ảm mạnh nhanh chóng tốc độ gió tăng lên đáng kể, phạm vi gió mạnh mở rộng bán kính khoảng 40-50km, mây dày đặc, cường độ mưa tăng lên. Giai đoạn này bão phát triển đến độ cao 5-9 km, cấu trúc bão lúc này cân đối nhất. -9-
  10. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH Không phải tất cả các Xoáy Thuận Nhiệt Đới đạt tốc độ gió cấp bão trong giai đọan hình thành đều phát triển thành bão, nhiều xoáy thuận tan đi sau 24h. Một số khác di chuyển trên một quãng đường dài như là một ấp thấp nhiệt đới. Nếu có sự tăng cường thì khí áp thấp nhất giảm nhanh xuống dưới 1000mb. Gió có cường độ bão hình thành một dải bao quanh trung tâm xoáy. Mô hình mây biến đổi từ dải đường tố sang dạng dải xoáy về phía trung tâm. Khối mây trung tâm càng trở nên có dạng tròn hơn, mắt bão càng rõ nét hơn. 1.5.3 Giai đoạn chín muồi Bão Katrina 12:16 trưa 29/8/2005 Đặc điểm của giai đoạn này là khí áp ở tâm bão giảm đến giá trị thấp nhất và tốc độ gió tăng đến cực đại và cũng ổn định. Phạm vi hoàn lưu bão mở rộng, đặc biệt là góc phần 4 bên phải tâm bão theo trục di chuyển của bão. Giai đọan chín muồi có khi kéo dài tới một tuần lễ. Nếu trong giai đoạn trẻ phạm vi gió mạnh, sức bão chỉ giới hạn trong phạm vi bán kình 40 -50km thì trong giai đoạn này có thể mở rộng trên 300km. Bão trong - 10 -
  11. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH giai đọan chín muồi cũng trải qua các thời kỳ tăng cường và suy yếu không đều, kéo dài trong vài ngày, thường do bão tương tác với hoàn lưu ôn đới. 1.5.4 Giai đoạn bão tan trở thành xoáy thuận nhiệt đới Khi bão di chuyển vào đất liền, do điều kiện địa hình, lực ma sát tăng lên và khả năng cung cấp ẩm cho bão bị mất đi nên kích thước của bão giảm rất nhanh. Sau một thời gian ngắn (khỏang từ 1 – 2 ngày) thì bão tan rã hoàn toàn, đôi khi có thể tồn tại dưới dạng một áp thấp nhiệt đới và cho mưa lớn trên một phạm vi rộng. Trên biển, bão cũng có thể bị tan rã khi gặp vùng nước lạnh như ở Tây Bắc Thái Bình Dương. B. Các yếu tố khí tượng hải văn trong khu vực bão 2.1 Áp suất Ở giai đoạn áp thấp nhiệt đới áp suất trung tâm khoảng 1000mb, sau đó áp suất giảm liên tục đến thời kỳ phát triển nhất, áp suất trung bình ở tâm bão khoảng 950- 960mb thấp hơn áp suất bình thường khu vực đó khoảng 5-10%. 2.2 Gió bão Ngày nay với nền khoa học hiện đại gió bão đã được nghiên cứu khá tỷ mỷ. Ở tầng sát mặt đất gió cực đại trong bão đạt tới 60m/s. Tốc độ dòng thăng trong bão chỉ đạt 5m/s. Bán kính trung bình của vùng gió mạnh khoảng 200km, theo chiều cao tốc độ gió giảm dần. Gió trong cơn bão có sức phá hoại ghê gớm vì tốc độ gió rất lớn, có sức ép cao. Gió thổi không đều mà giật từng cơn, xoay chiều đ ột ngột nên sức phá hoại càng tăng. 2.3 Nhiệt độ không khí Khi bão chưa đi vào vùng vĩ độ nhiệt không khí trong bão phân b ố đ ối x ứng qua tâm. Ở ngoài mắt bão nhiệt độ hầu như đều nhau. Bên trong mắt bão nhiệt độ cao hơn nhiều. Càng lên cao chênh lệch nhiệt độ trong mắt bão và môi trường xung quanh càng lớn. Nhiệt độ chênh lệch lớn nhất có thể lên tới 15-17 C. 2.4 Mây và mưa Chiều cao của mây trong bão có thể phát triển đến độ cao 10-12 km hoặc hơn nữa. Xung quanh tâm bão với đường kính trung bình khoảng 156HL, bầu trời phủ dày đặc khối mây vũ tầng, thấp là là trên mặt biển, kèm theo mưa như thác đổ. Khi tâm - 11 -
  12. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH bão tới thì mây mỏng đi, gió yếu, trời sáng. Khi tâm bão đi qua thì mưa gió l ại mạnh lên như cũ. Khi bão đã qua thì mây mỏng dần, gió yếu dần đi và trở lại bình thường. Kích thước của mây và mưa thay đổi phụ thuộc kích thước và giai đoạn phát triển của bão. 2.5 Sóng biển trong khu vực bão Gió thổi trên mặt biển gây ra sóng. Sóng cao hay thấp phụ thuộc vào gió mạnh hay yếu. Bão đi qua mặt biển tạo thành những cơn sóng gió lớn khổng lồ có khi cao hơn 20 m và có sức phá hoại rất lớn. Ở chính khu vực tâm bão hình thành những sóng bão cực lớn, rất dốc, hỗn đ ộn, không có hướng xác định. Những sóng này rất nguy hiểm với tàu thuyền vì tàu thuyền rất dễ bị bẻ gãy bánh lái và bị cuốn vào tâm bão.Sóng biển trong các cơn bão thường có độ cao từ 7-12m. 2.6 Thủy triều và dòng chảy trong bão Khi có bão tan ta thường quan sát thấy thủy triều dâng lên cao hơn mức bình thường. Nguyên nhân chính là do sự thay đổi khí áp trong và ngoài vùng bão, của lượng nước mưa khổng lồ do mưa bão đổ xuống mặt biển và tác động của gió đối với mặt biển. Ngoài ra tác dụng làm cho dòng nước biển dâng cao, gió bão còn gây ra hiện tượng dòng chảy 2.7 Nhiệt độ nước biển trong vùng bão Bão làm cho tầng mặt của nước biển lạnh đi đáng kể khoảng 5oC nên những vùng bão đi qua thường xuất hiện sương mù bình lưu. C. Sự di chuyển của bão Quỹ đạo của một cơn bão là đường nối các vị trí liên tiếp của cơn bão qua các giai đọan tồn tại của nó. Vị trí của bão được xác định theo trường áp, tr ường gió và theo ảnh mây vệ tinh. Quỹ đạo bão được xác định một cách chính xác hơn, được gọi là quỹ đạo chuẩn (best track). - 12 -
  13. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH Ngay từ lúc cơn bão chưa bắt đầu, mới chỉ là vùng áp thấp nhiệt đới, các chuyên gia đã đưa một bản đồ dự báo hướng đi của bão, gọi là track of storm. Trên bảng này, người ta chia màu và cấp độ của bão theo chuẩn quốc tế để mọi người có thể đọc và hiểu. Ta có thể quan sát ở hình trên. Dựa vào bảng bên để xác định cấp độ, vị trí cùng màu sắc tương ứng của bão: Quỹ đạo thông thường của bão có dạng parabol, nó được quy định bởi cơ chế bão di chuyển theo dòng dẫn đường. Tuy nhiên nhiều cơn bão chỉ đi theo dòng dẫn đường trong một thời gian, sau đó đổ bộ vào đất liền và tan đi. Khi đó quỹ - 13 -
  14. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH đạo hướng từ đông đông nam lên tây tây bắc có dạng gần thẳng như trong trường hợp các cơn bão từ tháng 8 đến tháng 12 ở Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông. Một số cơn bão có nội lực lớn chúng có thể di chuyển theo nhiều dạng quỹ đạo khác nhau, có khi thắt nút một hay nhiều lần. Giống như cơn IKE (1984) và WAYNE (1980) trên hình Khi đổ bộ vào đất liền bão sẽ suy yếu và tan dần. Một phần vì bị ma sát với cây cối, địa hình, một phần bão bị mất đi nguồn năng lượng rất lớn là độ ẩm và nhiệt độ do đại dương cung cấp. Đây chính là nguồn năng lượng chủ yếu gây mưa dông, kích thích hình thành cơn bão nên khi bão vào đất liền sẽ bị yếu và tan dần. D. Ảnh hưởng của bão tới cảng, tàu thuyền, hàng hóa… 4.1 Hậu quả của bão Sau đây là những hiện tượng thời tiết bất lợi do bão gây ra: Gió mạnh: gió mạnh trong bão từ cấp 8 trở lên gây nguy hiểm đến tính mạng con người. Gió mạnh bắt đầu từ khi tâm bão còn cách xa 100 đến 150km. Gió mạnh nhất thường xảy ra ở ngay phía tây bắc của thành mắt bão. Gió bão thường suy giảm đi nhanh chính khoảng 12 giờ sau khi bão đổ bộ. Tuy nhiên gió vẫn có th ể giữ được trên cấp 12 ngay cả khi bão đã vào sâu trong đất liền. Mưa lũ: Mưa lớn và nước lũ được đẩy từ biển vào do gió mạnh có thể gây nên lũ lụt lớn trong vòng 24 giờ. Khi đổ bộ, một cơn bão trung bình có thể gây nên tổng lượng mưa khoảng 100 đến 300mm. Nếu như cơn bão lớn và chuyển chậm thì lượng mưa gây nên sẽ lớn hơn nhiều. Khu vực mưa lớn thường nằm ở phía tây bắc của bão và thường xảy ra từ khoảng 6 giờ trước cho đến 6 giờ sau khi bão đổ bộ. Lượng mưa phụ thuộc vào kích thước của bão, tốc độ di chuyển và việc tương tác của bão với các hệ thống thời tiết khác. Nước dâng do bão: Nước dâng do bão là lượng nước bị đẩy vào bờ do hoàn lưu gió mạnh của cơn bão. Ở nước ta, nước dâng lên do bão thường xảy ra ở vùng ven biển phía bắc. Nước dâng kết hợp với thủy triều có thể nâng mực nước lên đến hơn 5m. Nước dâng do bão có sức tàn phá hết sức nguy hiểm, đặc biệt là khi kết hợp với triều cường khi bão đổ bộ. Dòng chảy gây ra bởi nước dâng do bão kết - 14 -
  15. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH hợp với tác động của sóng có thể phá vỡ đê biển, làm sụt lở bờ biển và các đường giao thông ven biển. Dông và tố lốc: Các cơn bão mạnh có thể gây dông và tố lốc làm tăng mức độ tàn phá của bão. dông và tố lốc thường xảy ra ở phần phía trước bên phải hướng di chuyển của bão. Dông và tố lốc có thể xảy ra vài ngày sau khi bão đổ bộ, khi mà bão chỉ còn là một vùng thấp có hoàn lưu xoáy thuận. Một hình ảnh chi tiết của một cơn bão đổ bộ vào nước ta như sau: tâm bão đi vào tỉnh Thanh Hóa và các vùng ảnh hưởng với những tỉ lệ sức mạnh của bão: - 15 -
  16. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH 4.2 Một số cơn bão mạnh gần đây Hàng vạn người đã chết vì những cơn bão này. Nó đã trở thành nỗi ám ảnh, nỗi kinh hoàng và cũng là nỗi đau của biết bao gia đình. Hãy cùng nhìn lại 5 trận bão khủng khiếp nhất thế giới trong thời hiện đại. 1) 2008: Cyclone Nargis đổ bộ vào Myanmar Cyclone Nargis đổ bộ vào Myanmar hôm thứ bảy (3/5/2008) với tốc độ gió đạt 190km/h và thủy triều dâng cao, phá vỡ các thị trấn và thành phố ven biển. Hàng vạn người đã chết và các nhà ngoại giao lo ngại rằng con số thương vong sẽ lên tới 100.000. Gần 1 tuần sau cơn bão, toàn bộ các làng ở vùng đồng bằng Irrawaddy của Myanmar vẫn ngập trong nước. Nargis được đánh giá là một trong những cơn bão gây chết chóc lớn nhất đổ bộ vào châu Á trong thời hiện đại. 2) 2007: Cyclone Sidr "làm nghiên ngả" Bangladesh Cơn bão nhiệt đới Cyclone Sidr đã đổ bộ vào miền nam Bangladesh ngày 15/11/2007 với sức gió mạnh nhất lên tới hơn 200km/h. Hàng trăm - 16 -
  17. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH nghìn ngôi nhà đã bị phá hủy, mùa màng thất bát và khoảng chừng 3500 0 người bị mất nhà cửa. Con số thương vong có lẽ đã tăng cao nếu chính phủ không kịp thời sơ tán hơn 1.5 triệu người khỏi các ngôi làng ở vùng trũng trước khi cơn bão đổ bộ vào đất liền. 3) 2005: Katrina "tấn công" nước Mỹ Cơn bão Katrina lần đầu tiên đi qua miền nam Florida vào ngày 23/8/2005 và được dự báo là cơn bão cấp 1. Nhưng khi nó đi ngang qua Vịnh Mexico, nó đã tr ở nên mạnh hơn - thành cơn bão cấp 5 với sức gió lên tới 280km/h. Khi Katrina đổ bộ vào đất liền vào ngày 29/8/2005, nó đã suy yếu đi chút ít nhưng sức tàn phá vẫn rất lớn. Ít nhất 1.836 người đã bị chết. New Orleans đã bị ngập và nhiều vùng ven biển đã bị tàn phá. 4) 1999: Tidal làm ngập Ấn Độ Cơn lốc xoáy cấp cao trong ảnh đã quét qua bang Orissa ở miền đông bắc Ấn Độ vào ngày 29/10/1999 với tốc độ gió đạt 250km/h. Ít nhất 10.000 người bị thiệt mạng do cơn bão. - 17 -
  18. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH Sóng triều dâng cao tới hơn 6m đã đi sâu vào đất liền tới gần 20km, ngang qua những vùng đồng bằng trũng. Gần 11.200km2 mùa màng đã bị phá hủy. Mưa xối xả và trận lụt phá kỷ lục đã khiến giao thông bị gián đoạn, đường sá không thể sử dụng được. Hàng triệu người đã lâm vào cảnh không nhà. 5) 1998: Mitch tàn phá Trung Mỹ Cơn bão Mitch đã ném những trận cuồng phong và mưa xối xả khi nó đổ bộ vào Trung Mỹ từ ngày 29/10 đến ngày 3/11/1998. Ít nhất 11.000 người đã chết ở Honduras, Nicaragua, El Salvador, Guatemala và Belize, những nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơn bão. Hơn 3 triệu người đã phải dời bỏ nhà cửa khi những cơn mưa mang theo bùn từ các sườn đồi và cuốn trôi toàn bộ các ngôi làng như bức hình mà chúng ta nhìn thấy được chụp ở Honduras. Trước khi Mitch đổ bộ vào đất liền, cơn bão này đã đạt tốc độ gió cao nhất là 280km/h. Những cơn gió mạnh đã đạt tới đỉnh 320km/h. E. Nhận biết và dự báo bão trên biển Từ những năm đầu của thế kỷ 20, bão được phát hiện và theo dõi thông qua việc phân tích các bản đồ thời tiết dựa trên các số liệu khí áp, gió, mây, mưa v.v... thu nhận được từ lưới trạm quan trắc khí tượng ven bờ biển, trên các hải đ ảo và tàu biển trên các khu vực rộng lớn hoặc toàn cầu. Đến nay, nhờ trạm quan trắc khí tượng không ngừng hoàn thiện và các tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là các vệ tinh khí tượng cung cấp thường xuyên các ảnh mây đen trắng hoặc ảnh màu có độ phân giải cao bao trùm toàn bộ trái đ ất, các cơn bão có thể được phát hiện ngay từ khi chúng mới hình thành ở giữa đại dương cách xa đất liền hàng ngàn km. Ngoài ra, khi bão cách bờ biển vài trăm km, rađa thời tiết cũng - 18 -
  19. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH là phương tiện hữu để theo dõi bão. Hiện nay, các cơn bão được các cơ quan khí tượng quốc tế, khu vực theo dõi sát sao từ khi bắt đầu hình thành, trong suốt quá trình di chuyển, phát triển đến khi hoàn toàn tan rã. Tuy nhiên, cũng có trường hợp bão phát sinh ngay sát bờ biển nước, di chuyển và đổ bộ vào đất liền chỉ trong khoảng từ vài giờ tới nửa ngày kể từ khi hình thành. Trong trường hợp này, thời gian dự báo sớm nhất cũng chỉ được từ vài giờ đến nửa ngày. 5.1 Phán đoán bão hoặc gió mạnh theo kinh nghiệm dân gian: Bão là một thiên tai nguy hiểm nên qua hàng ngàn năm lao động sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp và giao thông đường biển con người đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm nhận biết, phán đoán sự phát sinh của bão. Đến nay, nhiều kinh nghiệm đã được giải thích bằng các kiến thức khoa học, những kinh nghiệm này chủ yếu dựa vào những thay đổi trạng thái của bầu trời, mặt biển và những biểu hiện khác thường trong hoạt động sống của một số sinh vật... 5.1.1 Trạng thái bầu trời - Bầu trời quang đãng, không khí oi bức, ngột ngạt, lặng gió kéo dài vài ba ngày, sau đó xuất hiện mây ti tích (một loại mây tầng cao ở độ cao khoảng 7km trở lên, gồm các đám, màn hoặc lớp mây mỏng không có bóng, cấu thành từ những phần tử rất nhỏ có hình dạng trông như những hạt hay nếp nhăn) hội tụ về một hướng chân trời. Sau mây tầng cao xuất hiện mây vũ tích (một loại mây lớn và đ ặc, phát triển dữ dội theo chiều thẳng đứng trông như những dãy núi đồ sộ, giới hạn trên thường nhẵn lì hay dạng tơ sợi, hình dẹt như cái đe, chân mây đen và có kèm theo mây thấp rách xác xơ), gió tăng dần. Đây là dấu hiệu cho thấy bão có thể đang di chuyển từ hướng đó tới. - Chớp xa xuất hiện liên tục, đều đặn, gây nhiễu âm, cản trở hoạt động của máy thu thanh. Hướng có chớp sáng nhất là hướng đang có bão hoạt động. Đối với vùng ven nước ta, trước khi bão tới thường xuất hiện chớp ở hướng Đông-Nam. Kinh nghiệm này đã được đúc kết thành ca dao: “Đông Nam có chớp chéo nhau Thấp sát mặt biển hôm sau bão về” - 19 -
  20. Đề tài: Bão nhiệt đới GVHD: Kỹ sư. NGUYỄN VĂN HINH - Ngư dân vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ có kinh nghiệm: sáng sớm nhìn về phía Đông thấy mây ti tích dạng “vẩy tê tê” di chuyển từ phía Đông về phía Tây là dấu hiệu cho thấy có khả năng một vài ngày tới sẽ có bão, biển s ẽ đ ộng mạnh. Kinh nghiệm này khá phù hợp với thực tiễn của mây bão, vì mây ti tích ở tầng cao thường tỏa rất xa về phía trước bão. 5.1.2 Trạng thái mặt biển: - Sự xuất hiện của sóng lừng, hướng lan truyền của sóng không trùng với hướng gió là dấu hiệu cho thấy có bão hoạt động ở cách xa hàng trăm km. Nhìn chung, hướng lan truyền của sóng gần trùng với hướng di chuyển của bão. Tuy nhiên, sóng lừng có thể không xuất hiện ở những vùng biển quá gần bờ hoặc có nhiều đảo. - Mặt biển từ trạng thái lặng chuyển dần sang trạng thái động, mức độ tăng dần. 5.1.3 Dấu hiệu khác thường của gió và sinh vật: Nhiều kinh nghiệm đã được đúc kết thành các câu ca dao, tục ngữ về bão l ưu truyền từ bao đời nay, chẳng hạn như: "Tháng bẩy heo may/ Chuồn chuồn bay thì bão" Hoặc: "Kiến đắp thành thì bão/ Kiến ẵm con chạy ráo thì mưa". Tháng bẩy trong câu ca dao trên là tháng bẩy âm lịch, thường là tháng tám dương lịch, là một trong những tháng chính của mùa bão ở miền Bắc nước ta. Trong tháng này, “gió bắc heo may”, tức là gió ở vùng phía trước của bão đang hoạt động ở ngoài biển khơi và có khả năng ảnh hưởng đến đất liền trong vài ba ngày tới. Kinh nghiệm dân gian có rất nhiều, song không phải mọi kinh nghiệm đều đúng và sử dụng được. 5.2 Dự đoán bão của trung tâm khí tượng thủy văn 5.2.1 Khả năng dự báo bão Với trình độ khoa học và cơ sở khoa học kỹ thuật hiện nay người ta có thể phát hiện bão từ rất sớm. Song ở Việt Nam chúng ta chỉ dự báo những cơn bão hoạt động trên Biển Đông, bởi vì đây là những cơn bão có nhiều khả năng đổ bộ vào đất liền nước ta. Thời gian dự báo trước hướng và tốc độ di chuyển của một cơn - 20 -
nguon tai.lieu . vn