Xem mẫu
- Lê Hà Như Thảo, Võ Văn Cương 345
Bàn luận về công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Lê Hà Như Thảo1, Võ Văn Cương2
1
Khoa Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Đại học Đà Nẵng
2
Kiểm toán Nhà nước khu vực III
lhnthao@sict.udn.vn
Tóm tắt: Thực hiện trách nhiệm xã hội, hướng đến phát triển bền vững đang là một trong
những mục tiêu quan trọng được các doanh nghiệp quan tâm và hướng đến. Trong đó, các
vấn đề thể hiện trách nhiệm xã hội như bảo vệ môi trường, hoạt động cộng đồng, chế độ
cho nhân viên… luôn được các nhà quản lý chú trọng. Vì vậy, việc công bố thông tin trên
các Báo cáo phát triển bền vững nói chung hay công bố thông tin về trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp thu hút sự chú ý của nhiều nhà quản lý cũng như các nhà kinh tế học. Bài
nghiên cứu này trình bày cơ sở lý thuyết đặt nền tảng cho việc cần thiết phải công bố thông
tin trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Qua đó, thực trạng chung về việc công bố thông tin
liên quan đến các hoạt động môi trường, xã hội trên các báo cáo phát triển bền vững trên
thế giới và ở Việt Nam.
Từ khóa: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Công bố thông tin trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp, Lý thuyết những người liên quan.
1 Đặt vấn đề
Trên thế giới, đặc biệt ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Úc… các
doanh nghiệp đã quan tâm nhiều đến vấn đề công bố thông tin về trách nhiệm xã hội doanh
nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp đang ngày càng
quan tâm nhiều hơn đến các hoạt động thể hiện trách nhiệm xã hội trong hoạt động kinh doanh.
Các hoạt động gắn liền với xã hội có thể kể đến như chú ý đến an toàn lao động, bảo vệ môi
trường, phòng chống tham nhũng, hoặc các vấn đề liên quan đến nhân quyền. Việc thực hiện
những hoạt động này không chỉ góp phần giải quyết một số vấn đề kinh tế - xã hội mang tính
cấp bách mà còn giúp doanh nghiệp gia xây dựng hình ảnh và gia tăng danh tiếng. Vì vậy,
doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của việc công bố thông tin trách nhiệm xã hội.
Những công bố liên quan đến trách nhiệm xã hội tại Việt Nam hiện nay vẫn dựa trên cơ sở
công bố tự nguyện, đa số tập trung ở các doanh nghiệp lớn. Để có cơ sở chặt chẽ cho việc xây
dựng nội dung và cách trình bày các báo cáo công bố thông tin trách nhiệm xã hội, việc xây
dựng cơ sở lý thuyết là điều cần thiết.
2 Những vấn đề chung về công bố trách nhiệm xã hội
2.1 Trách nhiệm xã hội
Các công ty ngày càng nhận thức được rằng thành công trong hoạt động kinh doanh không
chỉ xuất phát từ việc tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn, mà thay vào đó cần thêm những yêu cầu về
việc củng cố trách nhiệm xã hội.
Theo Capron (2000), kế toán xã hội được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy theo mục đích
nghiên cứu và thực hiện. Một số nhầm lẫn tồn tại bởi vì các thuật ngữ tương tự được sử dụng
theo những cách khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, nói chung, kế toán xã hội
- 346 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CITA 2017 “CNTT VÀ ỨNG DỤNG TRONG CÁC LĨNH VỰC”
được xem xét như một hệ thống thông tin hơn là mục đích thể hiện sự đóng góp tiêu cực hoặc
tích cực của công ty đối với môi trường.
Kế toán xã hội đã được phát hiện trong những năm 60, bao gồm những vấn đề liên quan đến
công bố thông tin trách nhiệm xã hội như các lý thuyết giải thích và khung khái niệm liên quan
đến khía cạnh con người. Sau đó, vào những năm 1980, nó được mở rộng đến vấn đề bảo vệ
môi trường với tên gọi kế toán môi trường. Do đó, đối tượng của kế toán xã hội bao gồm các
mối quan tâm về môi trường và xã hội.
Những nghiên cứu về chủ đề trách nhiệm xã hội tập trung giải quyết các vấn đề khác nhau
liên quan đến hành vi doanh nghiệp thông qua thông tin mà họ công bố. Như vậy, báo cáo trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành chủ đề nghiên cứu có liên quan để tìm hiểu các hoạt
động xã hội; tuy nhiên, các báo cáo chủ yếu liên quan đến kế toán tài chính. Bởi vì, các báo cáo
tài chính nhằm mục đích trình bày những thông tin tài chính của doanh nghiệp nhằm cung cấp
thông tin cần thiết cho những đối tượng sử dụng khác nhau (Gray và cộng sự, 1997). Do đó, các
báo cáo tài chính thường hạn chế việc cung cấp thông tin về sự tương tác giữa tổ chức và xã hội.
Đứng ở góc độ này, báo cáo trách nhiệm xã hội được xác định dựa theo các yếu tố chi phối các
mối quan hệ trong kinh doanh của doanh nghiệp, các sáng kiến về xã hội quốc tế quan trọng, các
quy tắc ứng xử, luật pháp trong nước và quốc tế, quản trị doanh nghiệp, áp lực của công chúng, uy
tín, rủi ro và áp lực của nhà đầu tư. Những cấp bậc về trách nhiệm mà doanh nghiệp thực hiện
được thể hiện trong mô hình về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như Hình 1.
Hình 1. Mô hình thể hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
(Nguồn: Caroll (1991), Hemphill (2004) và Windsor (2001))
2.2 Công bố thông tin trách nhiệm xã hội
Công bố xã hội có thể được định nghĩa là những công bố thông tin tài chính và phi tài chính
liên quan những hoạt động của công ty trong những vấn đề liên quan đến xã hội. Nó có thể
- Lê Hà Như Thảo, Võ Văn Cương 347
thường được coi là cách doanh nghiệp thể hiện hình ảnh của mình trước công chúng liên quan
đến các hoạt động về môi trường, cộng đồng, nhân viên và vấn đề người tiêu dùng. Trong bối
cảnh này, Haron và cộng sự (2004) chỉ ra rằng xã hội công bố thông tin cung cấp thông tin tích
cực xác nhận rằng hoạt động của công ty là hài hoà với môi trường. Một mặt, tiết lộ này cho
thấy là doanh nghiệp đã tổ chức các chương trình đào tạo cho nhân viên, và các chính sách về
quản lý chất thải có hiệu quả. Mặt khác, công khai xã hội có thể là tiêu cực khi phản ảnh rằng
hoạt động của công ty gây tổn hại cho môi trường, chẳng hạn như không có khả năng kiểm soát,
giảm ô nhiễm, hoặc không giải quyết được vấn đề xã hội.
Aaronson và Reeves (2002) nêu ý kiến rằng các bên liên quan có thể gây áp lực cho các công
ty phát triển hoạt động về xã hội. Áp lực này được xem như chất xúc tác cho các chính phủ và
các tổ chức khác chuẩn bị các hướng dẫn, quy định và các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội và
có cơ chế báo cáo thông tin về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc công bố
thông tin xã hội không trở nên bắt buộc vì các công ty có quyền được tự quyết định trong vấn đề
này. Do đó, Van der Lann (2004) khuyến cáo hình thức công bố xã hội mới nổi lên, công bố
thông tin mà tất cả các bên liên quan đòi hỏi các công ty phải báo cáo về các vấn đề xã hội và
các hoạt động môi trường.
Hope (2003) giải thích rằng cam kết về các hoạt động CSR được dựa trên năm yếu tố ở cấp
quốc gia: chi phí kiểm toán, luật pháp, hiệu quả của hệ thống pháp luật, quyền lực của luật pháp
và bảo vệ cổ đông. Aerts et al. (2006) phân tích các yếu tố quyết định để giải thích sự khác biệt
trong việc thực hiện công bố thông tin môi trường trên một số quốc gia. Nghiên cứu cho thấy
rằng các công ty ở Hoa Kỳ mức độ công bố cao nhất, tiếp theo là Canada, Hà Lan, Pháp, Bỉ và
Đức. Thật vậy, đối với các quốc gia thực hiện nhiều hoạt động xã hội, các nhà nghiên cứu nhận
thấy rằng việc cung cấp thông tin bắt buộc được quy định rất nhiều, dẫn đến mức độ công bố
cao hơn. Kết quả là, các công ty ở Bắc Mỹ hoạt động trong môi trường pháp lý so chặt chẽ hơn
so với các công ty trong châu Âu lục địa, họ tiết lộ nhiều thông tin chi tiêu về môi trường liên
quan đến rủi ro môi trường, giảm thiểu ô nhiễm và vệ sinh môi trường.
Nội dung công bố thông tin trách nhiệm xã hội theo ISO 26000 (2013) bao gồm các phần
chính như sau:
- Trách nhiệm môi trường;
- Trách nhiệm người lao động;
- Trách nhiệm kinh doanh trung thực;
- Trách nhiệm với người tiêu dùng;
- Vấn đề quản trị và nhân quyền;
- Sự tham gia của cộng đồng.
3 Cơ sở lý thuyết
Việc sử dụng một cơ sở lý thuyết phù hợp làm rõ việc công bố thông tin về trách nhiệm xã
hội doanh nghiệp là cần thiết để giải thích tại sao chính phủ ngày càng nhận thức được tầm quan
trọng của các vấn đề không mang tính kinh tế. Thật vậy, khung lý thuyết này có hai cấp độ ở
cấp quốc gia và ở cấp doanh nghiệp. Ở cấp quốc gia, chúng ta tìm ra các yếu tố xác định sự
nhạy cảm của cộng đồng đối với tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội, do đó gây áp lực đến
các doanh nghiệp. Đối với cấp độ doanh nghiệp bao gồm việc xác định các yếu tố phản ứng lại
áp lực xã hội và mức độ công bố. Bên cạnh đó, ở cấp độ này cũng xác định lợi ích của việc công
- 348 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CITA 2017 “CNTT VÀ ỨNG DỤNG TRONG CÁC LĨNH VỰC”
bố thông tin cho các công ty. Hai cấp độ được liên kết theo cách mà các yếu tố ảnh hưởng đến
mức độ trong các công ty là như nhau ở các nước.
Việc công bố thông tin trách nhiệm xã hội được nghiên cứu trên cơ sở bốn lý thuyết chính:
Lý thuyết đại diện (Agency Theory), Lý thuyết kế toán thực chứng (Positive Accounting
Theory), Lý thuyết những người liên quan (Stakeholders Theory).
3.1 Lý thuyết đại diện (Agency Theory)
Lý thuyết đại diện xem xét các công ty như là một hư cấu pháp lý, một tập hợp các hợp
đồng (chính thức và không chính thức) hoặc mối quan hệ với các đối tác (các bên liên quan).
Watts và Zimmerman (1978) dựa trên nguyên tắc các bên liên quan thực hiện các hoạt động
trong mối quan hệ để tối đa hóa tiện ích cá nhân của họ. Hệ thống điều phối các hành động cá
nhân dựa trên về các đại diện và các mối quan hệ (rõ ràng hoặc tiềm ẩn). Như vậy, việc bất đối
xứng thông tin của những người tham gia trong các mối quan hệ này, giới hạn và điều khoản
khuyến khích là cần thiết để giảm chênh lệch lợi ích giữa các chủ thể.
Lý thuyết đại diện được phát triển bởi Jensen & Meckling (1976), lý thuyết này nghiên cứu
mối quan hệ giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền.
- Quan hệ nhà quản lý và cổ đông: Các giải pháp để giảm chi phí là thông qua hợp đồng giữa
các cổ đông và nhà quản lý theo hướng khuyến khích nhà quản lý tối đa hóa giá trị thị trường
của công ty và tối đa hóa lợi nhuận công ty. Phần lớn các kế hoạch khen thưởng này dựa trên
các con số kế toán, do đó nhà quản lý sẽ tìm cách tác động vào báo cáo tài chính thông qua vận
dụng chính sách kế toán để đạt được mục đích được hưởng lợi cá nhân của mình.
- Quan hệ cổ đông và chủ nợ: Để giảm chi phí ủy quyền, chủ nợ có thể đưa vào hợp đồng
các điều khoản hạn chế như: kiểm soát việc chia cổ tức, kiểm soát hoạt động đầu tư, yêu cầu
thông tin để giám sát tình hình hoạt động doanh nghiệp. Việc sử dụng các điều khoản hạn chế
nói trên phải dựa trên số liệu kế toán của doanh nghiệp.
- Lý thuyết đại diện cho rằng xung đột sẽ phát sinh khi có thông tin không đầy đủ và bất cân
xứng giữa chủ thể và đại diện trong công ty. Cả hai bên có lợi ích khác nhau và vấn đề này được
giảm thiểu bằng cách sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa
cổ đông và người quản lý công ty, thông qua thiết lập những cơ chế đãi ngộ thích hợp cho các
nhà quản trị, và thiết lập cơ chế giám sát hiệu quả để hạn chế những hành vi không bình thường,
tư lợi của người quản lý công ty.
Vì vậy, công bố thông tin xã hội là một công cụ quan trọng trong bối cảnh hợp đồng quản lý
cổ đông - người quản lý. Các cổ đông chịu chi phí giám sát để tăng cường thông tin của họ trên
hoạt động của các nhà lãnh đạo. Như vậy, họ sẽ cố gắng sử dụng thông tin kế toán được công bố
để bảo vệ lợi ích riêng của họ, và chứng minh với cổ đông rằng sự quản lý là có hiệu quả Watts
& Zimmerman (1978).
3.2 Lý thuyết kế toán thực chứng (Positive Accounting Theory)
Lý thuyết kế toán thực chứng được hai giáo sư người Mỹ, Ross Watts và Jerold Zimmerman,
đẩy mạnh phát triển từ những năm cuối thập niêm 1960s cho đến nay qua hàng loạt các công
trình nghiên cứu của mình. Hai ông cũng là đồng tác giả cuốn sách nổi tiếng “Positive
Accounting Theory” được xuất bản vào năm 1986 với những khái niệm và định hướng nghiên
cứu là: giải thích sự lựa chọn các phương pháp kế toán của các nhà quản lý dựa trên lợi ích cá
- Lê Hà Như Thảo, Võ Văn Cương 349
nhân; mối quan hệ giữa các cổ đông và cách thức họ sử dụng kế toán tài chính để tối thiểu hóa
chi phí để thỏa mãn lợi ích.
Theo các tác giả này, các báo cáo tài chính phải cung cấp thông tin kế toán cho thị trường.
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cho thấy những báo cáo tài chính không cung cấp đầy đủ
thông tin về dòng tiền thực sự của doanh nghiệp. Để xây dựng giả thuyết giải thích hành vi của
người sử dụng thông tin kế toán, lý thuyết đại diện và lý thuyết quy luật có thể được sử dụng.
Theo các lý thuyết này, quy trình chính trị được xem như là sự thỏa thuận giữa các bên muốn tối
đa hóa lợi ích cá nhân thông qua việc chuyển đổi tài sản. Do đó, có sự tồn tại của chi phí chính
trị và chi phí tài chính - những điều mà các quản lý thường đã lường trước được khi lựa chọn
các phương pháp kế toán.
3.3 Lý thuyết những người liên quan (Stakeholders Theory)
Lý thuyết các bên liên quan giải thích mối quan hệ giữa hoạt động công ty và các bên liên
quan được xây dựng bởi tác giả Friedman từ những năm 1970s. Theo lý thuyết này, doanh
nghiệp được xem xét như một chủ thể trong một tập thể lớn với nhiều thành phần. Các tác giả
đã cho rằng, công ty hoạt động không chỉ vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông mà còn
cần phải quan tâm, xem xét đến các bên có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Các bên
liên quan của doanh nghiệp, gồm:
- Trong nội bộ doanh nghiệp: Người lao động, Hội đồng quản trị, Ban quản lý…
- Các bên liên quan có quan hệ trực tiếp (đối tác): Cổ đông, khách hàng, nhà cung cấp, nhà
tài trợ, chủ nợ...
- Các tổ chức, cá nhân bên ngoài doanh nghiệp: Chính phủ, các hiệp hội, cộng đồng, các tổ
chức quan trọng khác…
Các bên liên quan có nhu cầu và lợi ích khác nhau, thể hiện ở 03 thuộc tính chính: Tính hợp
pháp (Legitimacy), tính quyền lực (Power) và tính khẩn cấp (Urgency) (Agle và Mitchel, 2008).
Hình 2. Phân loại các bên có liên quan
(Nguồn: Agle và Mitchell (2008))
- 350 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CITA 2017 “CNTT VÀ ỨNG DỤNG TRONG CÁC LĨNH VỰC”
- Quyền lực liên quan đến khả năng mang lại kết quả như mong muốn hoặc ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của công ty. Sức mạnh của các bên liên quan có thể phát sinh từ khả năng
huy động các lực lượng xã hội - chính trị cũng như khả năng của họ trong việc lấy lại những
nguồn lực từ công ty.
- Tính hợp pháp là nhận thức hay niềm tin rằng các bên có liên quan “là đúng hoặc thích
hợp” (Thorne và cộng sự, 1993).
- Tính khẩn cấp liên quan đến việc gây áp lực từ phía các đơn vị quản lý. Tính khẩn cấp bao
gồm hai yếu tố là thời gian nhạy cảm và tầm quan trọng của yêu cầu bồi thường cho các bên
liên quan (Thorne và cộng sự, 1993).
Khi doanh nghiệp đang theo đổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì việc thực hiện trách nhiệm
xã hội doanh nghiệp khó thực hiện, nếu công ty chấp nhận thực hiện trách nhiệm xã hội thì lợi
nhuận sẽ không còn là mục tiêu chính, và sẽ có sự can thiệp của cơ chế chính trị và kinh tế.
4 Công bố thông tin trách nhiệm xã hội trên Thế Giới và Việt Nam
Ngày nay, các bên liên quan luôn quan tâm tới các hoạt động mang tính bền vững đem lại lợi
ích cho hoạt động kinh doanh cốt lõi của doanh nghiệp. Đối với nội bộ doanh nghiệp, quá trình
xác định các khía cạnh phát triển bền vững, trong đó có vấn đề về thực hiện trách nhiệm xã hội
và lập báo cáo bền vững giúp doanh nghiệp, cân nhắc lợi ích của các bên có liên quan, nhận biết
các rủi ro và cơ hội kinh doanh, từ đó chuẩn bị cho xu thế phát triển mới, phân cấp trách nhiệm
và cải tiến hệ thống quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Khung báo cáo phát triển bền vững phổ biến nhất trên thế giới được xây dựng bởi Sáng kiến
Global Reporting Initiative (GRI). Báo cáo phát triển bền vững theo Sáng kiến GRI được coi là
hữu ích nhất vì được sử dụng và công nhận một cách rộng rãi. Khung GRI đề cập đến các vấn
đề cốt lõi của phát triển bền vững bao gồm tác động tới kinh tế, xã hội và môi trường với hướng
dẫn kỹ thuật về cách thức đo lường và báo cáo các vấn đề này.
98%
96%
94% Đưa vào chiến lược
92%
Xác định là vấn đề
90% then chốt
88% Lồng ghép chuỗi cung
86% ứng
84%
Ý kiến của Giám đốc điều hành
Hình 3. Kết quả về ý kiến của Giám đốc điều hành về việc lập báo cáo phát triển bền vững
(Nguồn: Báo cáo Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp toàn cầu năm 2013 của Mạng lưới Hiệp ước Toàn
cầu của Liên Hợp quốc)
Theo nguồn số liệu thống kê, trên thế giới hiện nay đã có trên 600 doanh nghiệp từ 65 quốc
gia tham gia lập báo cáo phát triển bền vững trong năm 2014. Trong đó, các nước có số doanh
- Lê Hà Như Thảo, Võ Văn Cương 351
nghiệp tham gia lập báo cáo bền vững nhiều nhất là Australia, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam
Phi, Mỹ. Thực tế đã có trên 30 quốc gia đưa ra quy định pháp lý về báo cáo bền vững, trong đó
65% là quy định mang tính bắt buộc.
Dựa trên thông tin từ Báo cáo Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp toàn cầu năm 2013 của
Mạng lưới Hiệp ước Toàn cầu của Liên Hợp quốc đã cung cấp những con số ấn tượng về ý kiến
của Ban Giám đốc về những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững, trong đó có trách nhiệm
xã hội. Trên 95% các Giám đốc điều hành nên đưa những hoạt động phát triển bền vững vào
chiến lược hoạt động của công ty; 93% Giám đốc điều hành cho rằng những vấn đề bền vững sẽ
là then chốt đối với sự thành công của doanh nghiệp trong tương lai; 88% Giám đốc điều hành
cho rằng, nên lồng ghép vấn đề bền vững vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp.
Một khảo sát khác của Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững Thế giới về cách
trình bày báo cáo bền vững cho thấy 80% các thành viên trình bày các báo cáo bền vững riêng
biệt với các báo cáo khác của doanh nghiệp, nghĩa là toàn bộ nguồn thông tin về các vấn đề bền
vững được trình bày riêng biệt, không chung với bất cứ một báo cáo; số ít doanh nghiệp đưa báo
cáo bền vững vào trong Báo cáo lồng ghép hoặc Báo cáo tích hợp; gần 75% báo cáo bền vững
được lập theo hướng dẫn của Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (Global Reporting Initiative).
Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp, tập đoàn đã tiên phong trong lập báo cáo phát triển bền
vững ngay từ khi chưa có quy định pháp lý yêu cầu bắt buộc lập báo cáo bền vững như Tập
đoàn Bảo Việt (BVH), Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (VNM), Công ty Cổ phần Dược Hậu
Giang (DHG), Tổng Công ty cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan dầu khí (PVD), Công ty Cổ
phần Nông nghiệp Quốc tế Hoàng Anh Gia Lai (HNG), Công ty TNHH Nhà máy Bia Việt
Nam, Công ty Cổ phần Vicostone, Tổng Công ty POSCO E&C…
Về cơ sở pháp lý, Nhà nước đã ban hành văn bản đầu tiên yêu cầu công bố thông tin về phát
triển bền vững của các doanh nghiệp niêm yết là Thông tư số 155/2015/TT-BTC ngày
6/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Thông tư
này quy định rõ: Báo cáo tác động đến môi trường và xã hội của công ty, công ty đại chúng phải
báo cáo các nội dung liên quan tới phát triển bền vững bao gồm: quản lý nguồn nguyên liệu,
tiêu thụ năng lượng, tiêu thụ nước, tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường, chính sách liên
quan đến người lao động, báo cáo liên quan đến trách nhiệm với cộng đồng địa phương, báo cáo
liên quan đến thị trường vốn xanh.
Công ty có thể lập riêng báo cáo phát triển bền vững hoặc trình bày tích hợp trong Báo cáo
thường niên. Thông tư số 155/2015/TT-BTC chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2016, do đó các công ty đại chúng phải công bố báo cáo bền vững của năm 2015.
Theo các chuyên gia kinh tế, báo cáo phát triển bền vững là một sản phẩm báo cáo phi tài
chính hữu ích. Nhưng trên thực tế, quá trình lập báo cáo bền vững còn quá mới mẻ, tương đối lạ
lẫm đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Để báo cáo bền vững trở thành phổ biến, có chất
lượng trước hết các doanh nghiệp cần nhận thức được vai trò quan trọng của quá trình phát triển
bền vững và báo cáo bền vững. Chỉ khi doanh nghiệp đảm bảo phát triển bền vững về môi
trường, xã hội thì mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp mới ổn định và phát triển.
5 Kết luận
Công bố thông tin về trách nhiệm xã hội được xem như một trong những công cụ để đo
lường, ghi nhận và công bố các mục tiêu, trách nhiệm của doanh nghiệp hướng tới phát triển
bền vững. Bởi bên cạnh những thông tin về tài chính, thông tin về hoạt động của doanh nghiệp
xét trên khía cạnh môi trường, xã hội ngày càng được quan tâm. Báo cáo phát triển bền vững là
- 352 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CITA 2017 “CNTT VÀ ỨNG DỤNG TRONG CÁC LĨNH VỰC”
một công cụ mới, giúp doanh nghiệp tổ chức và công bố thông tin về hoạt động mang tính bền
vững theo cách tương tự như báo cáo tài chính.
Báo cáo bền vững có vai trò quan trọng đối với các bên có liên quan và chính nội bộ doanh
nghiệp. Thông qua việc báo cáo công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và nỗ lực của
mình trong các hoạt động cụ thể nhằm phát triển bền vững, doanh nghiệp củng cố lòng tin của
các bên có liên quan, làm gia tăng uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp.
Các cơ sở lý thuyết đặt nền tảng cho nghiên cứu liên quan đến công bố trách nhiệm xã hội
như Lý thuyết người đại diện, Lý thuyết kế toán thực chứng, Lý thuyết những bên có liên
quan… đã tạo ra cơ sở lý luận chặt chẽ, tạo cơ sở để các nhà quản lý đặt nhiều quyết tâm cho
việc thực hiện các hoạt động đóng góp cho môi trường, cộng đồng, xã hội. Điều này được thể
hiện qua nhiều thông tin được các doanh nghiệp công bố trên các báo cáo phát triển bền vững.
Hiện nay, việc công bố báo cáo phát triển bền vững đang trở thành thông lệ quốc tế. Báo cáo
phát triển bền vững không chỉ giúp các doanh nghiệp củng cố tăng cường mối hợp tác với các
bên liên quan, với nhà đầu tư và cộng đồng mà còn giúp các doanh nghiệp tăng cường quản lý
rủi ro kinh doanh, nâng cao khả năng thích nghi trong môi trường thay đổi nhanh chóng và cạnh
tranh hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cho thấy, đã có minh chứng xác thực về mối tương quan
giữa phát triển bền vững và hiệu quả hoạt động và mức lợi nhuận thu được của doanh nghiệp.
Việc thiếu thông tin về phát triển bền vững có thể làm mất cơ hội hợp tác kinh doanh, thu hút
nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư có trách nhiệm với phát triển bền vững. Báo cáo bền vững là
một điều kiện cần để các doanh nghiệp tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Tài liệu tham khảo
1. Aerts, W. Ledoux ; M. Magnan. & Cormier, D. W. Attributes of social and human capital disclosure
and information asymmetry between managers and investors. Canadian Journal of Administrative
Sciences, 2, 71-87, (2006).
2. Aaronson, S. A. & Reeves, J., The European Response to Public Demands for Global Corporate
Responsibility. National Policy Association, pp. 1-52, 2002.
3. Agle B. and Mitchell R. Introduction: Recent Research and New Questions, Business Ethics
Quarterly 18(2), 153-90 (2008).
4. Capron M. & Quairel F. Les dynamiques relationnelles entre les firmes et les parties prenantes.
Cahier de Recherche - CREFIGE - Université Paris Dauphine (2000).
5. Dierkes, M. & Peterson, A. B. The Usefulness and Use of Social Reporting Information Accounting
Organizations and Society, 10(1), 29-34 (1997).
6. Freedman, M. & Patten, D. M. Evidence on the pernicious effect of financial report environmental
disclosure. Accounting Forum, 28(1), 27-41 (2004).
7. Gray R. Thirty years of social accounting, reporting and auditing: what (if anything) have we learnt?
Business Ethics: A European Review, 10 (1), 9-15 (2001).
8. Gray, W.R., Kothari S.P., & WATTS R.L. A market-based evaluation of accrual models. Journal of
Accounting Research, 34, 83-105 (1996).
9. Harte, G. & Owen, D. Environmental Disclosure in the Annual Reports of British Companies: A
Research Note. Accounting, Auditing and Accountability Journal, 4 (3), 13-20 (1991).
- Lê Hà Như Thảo, Võ Văn Cương 353
10. Hasseldine, J., Salama, A. I. & Toms, J. S. Quantity versus quality: the impact of environmental
disclosures on the reputations of UK Plcs. The British Accounting Review, 37(2), 231-248 (2005).
11. Haron, H., Yahya, S. Chambers, A., Manasseh, S., & Ismail, I. Level of Corporate Social Disclosure
in Malaysia. Fourth Asia Pacific Interdisciplinary Research in Accounting Conference, 4-6, July,
Singapore, (2004).
12. Hope, O.K. Disclosure Practices, Enforcement of Accounting Standards, and Analysts’ Forecast
Accuracy: An International Study. Journal of Accounting Research, 41(2), 235-272. (2003).
13. Guidry, R. P. & Patten, D. M., Voluntary disclosure theory and financial control variables: An
assessment of recent environmental disclosure research. Accounting Forum, 36(2), pp. 81-90 (2012).
14. Jensen, M. C. & Meckling, W. H., Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs and
ownership structure. Journal of financial economics, 3(4), pp. 305-360 (1976).
15. Thorne D., Ferrell O. and Ferrell C. Business and Society: A Strategic Approach to Corporate
Citizenship Houghton Mifflin Co.: Boston (1993).
16. Van Der Laan, S. L. The Role of Theory in Explaining Motivation for Corporate Social Disclosures:
Voluntary Disclosures vs. Solicited Disclosures. Fourth Asia Pacific Interdisciplinary Research in
Accounting Conference, 4-6 (July), Singapore. (2004).
17. Watts, R. L. & Zimmerman, J. L. Towards a Positive Theory of the Determination of Accounting
Standards. Accounting Review, 53, 112-134, (1978).
18. Accounting for Business Sustainability: An Overview, http://ssrn.com, last accessed 30/5/2017.
nguon tai.lieu . vn