Xem mẫu
- Bản đồ giá trị nhận thức
Bản chất của giá trị chính là sự thỏa hiệp giữa lợi ích mà người tiêu dùng nhận được
và giá phải trả cho một sản phẩm hay dịch vụ. Người tiêu dùng không mua khi chỉ vì
sản phẩm có giá thấp. Họ luôn quan tâm đến giá trị – họ luôn so sánh những lợi ích
của sản phẩm và chi phí để có nó.
Xét trên góc độ nhà sản xuất thì họ thường gặp phải hai sai lầm khi xác định giá trị
sản phẩm. Thứ nhất, họ chưa xác định được vị trí sản phẩm của mình so với các đối
thủ cạnh tranh. Thứ hai, khi đã xác định được vị trí thì họ thường quên rằng giá trị luôn
“năng động” – những phản ứng giữa các nhà sản xuất trong ngành sẽ làm thay đổi lợi
nhuận của toàn ngành và sự chuyển dịch về giá trị giữa nhà sản xuất và người tiêu
dùng.
Bản đồ giá trị chính là một công cụ nhằm để tìm hiểu các mà người tiêu dùng xác định
giá trị và qui luật hoạt động giữa lợi ích-giá cả trong một phân khúc thị trường. Trục
đứng biểu thị những lợi ích “cảm nhận” của người tiêu dùng; truc nằm ngang biểu thị
giá “cảm nhận”. Mỗi vòng tròn trong bản đồ biểu thị một sản phẩm hay dịch vụ. Giá
cao-lợi ích cao thì sản phẩm sẽ nằm ở vùng trên ở bên phải, ngược lại giá thấp – lợi
ích thấp thì sản phẩm sẽ nằm vùng dưới ở bên trái bản đồ.
- Nếu thị phần không thay đổi thì tất cả các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh sẽ tạo
thành một đường thẳng được gọi là đường cân bằng giá trị (VEL). Ở bất kỳ mức giá
hay lợi ích nào đều có những chọn lựa cho khách hàng. Nếu tất cả sản phẩm đều nằm
trên đường cân bằng giá trị thì ta có thể thấy được qui luật “tiền nào của nấy”. Trong
một thị trường mà thị phần ổn định thì ta sẽ thấy được rõ ràng những sự chọn lựa này.
Tuy nhiên, nếu thị phần đang thay đổi thì ta sẽ thấy nhà sản xuất hay sản phẩm tăng
thêm thị phần sẽ nằm phía dưới đường cân bằng thị trường (VEL) – ta có thể gọi vị trí
này là “lợi thế giá trị”. Sản phẩm A trong sơ đồ (3) đang có lợi thế giá trị và sẽ tăng
được thị phần. Nếu một khách hàng đang tìm kiếm một sản phẩm có lợi ích nằm
trong khoảng sản phẩm A và B- thì khả năng anh ta chọn sản phẩm A sẽ cao hơn vì A
cho cùng một mức độ lợi ích với B mà giá lại thấp hơn. Cũng giống như vậy, nếu một
người tiêu dùng đang tìm kiếm một sản phẩm có giá ở khoảng sản phẩm C hoặc A,
thì anh ta sẽ chọn sản phẩm A vì nó cho anh ta nhiều lợi ích hơn mà giá thì chỉ ngang
bằng sản phẩm C. Chính vì thế, sản phẩm A khi có vị trí nằm dưới đường cân bằng
thị trường (VEL) trong khi B và C vẫn ở vị trí cũ thì khách hàng sẽ thấy giá trị của sản
phẩm A sẽ cao hơn B hoặc C và họ sẽ chọn nó.
Trường hợp ngược lại cũng giống như vậy. Sản phẩm E nằm trong vị trí phí trên
đường cân bằng thị trường (VEL) nên sẽ bất lợi về giá trị. Sản phẩm E sẽ bị mất thị
phần vì khách hàng sẽ mua sản phẩm D để có giá rẽ hơn với cùng mức lợi ích hay họ
sẽ chọn sản phẩm C để có lợi ích nhiều hơn với cùng một mức giá.
Giới thiệu ở thị trường Mỹ năm 1990 với giá bán đề nghị của nhà sản xuất là $13.800,
- xe thể thao Mazda Miata là xe mui trần thể thao hai chỗ đã chiếm được cảm tình của
lớp trẻ mà trước đây họ thích những chiếc xe mui trần cổ điển sản xuất vào những
năm 60-70 bởi MG và Triumph. Ngoài vẽ trẻ trung, kiểu dáng đẹp và chắc chắn, Miata
đã thành công nhanh chóng tại Mỹ.
Mazda đã đánh giá thấp hơn về sự hấp dẫn và lợi ích cảm nhận từ khách hàng. Giá
của xe thì thấp so với những lợi ích mà nó mang lại cho khách hàng. Tuy nhiên, những
nhà phân phối sản phẩm thì nhận ra sự không tương xứng giữa giá/lợi ích của sản
phẩm nên họ đã tự tăng giá lên từ 2000 – 3000 USD để có thể điều chỉnh mức giá cho
ngang bằng với thị trường và thu một khoảng lợi nhuận không nhỏ.
Nguyễn Thanh Hồng Đức
(LANTABRAND)
Thumbnail đính kèm
__________________
Chúc bạn tìm được nhiều thông tin thú vị và bổ ích!
nguon tai.lieu . vn