Xem mẫu

See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/315741151 Theories applied in researches related to current school violence (Cac ly thuyet nghien cuu ve bao luc hoc duong hien nay) Article · October 2013 CITATIONS READS 0 114 1 author: Dat Nguyen Ba University of Social Sciences and Humanities 6 PUBLICATIONS 0 CITATIONS SEE PROFILE Some of the authors of this publication are also working on these related projects: The effectiveness of the group counseling for children with psychological difficulties View project All content following this page was uploaded by Dat Nguyen Ba on 02 April 2017. The user has requested enhancement of the downloaded file. Bài viết này đã được công bố trên Tạp chí Giáo dục & Xã hội, số 31 (92) tháng 10 năm 2013.tr.8 - 11 Article in Press: Educational & Social Review, Volume 31 Number (92) october 2013, pp. 8 – 11. www.giaoducvaxahoi.vn CÁC LÝ THUYẾT TRONG NGHIÊN CỨU VỀ BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY (THEORIES APPLIED IN RESEARCHES RELATED TO CURRENT SCHOOL VIOLENCE) Nguyễn Bá Đạt1 Khoa Tâm lý học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN Tóm tắt Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về bạo lực học đường cho thấy hiện nay có năm lý thuyết được các nhà nghiên cứu tham chiếu vào để nghiên cứu nguồn gốc dẫn đến bạo lực học đường: lý thuyết sinh thái, lý thuyết căng thẳng, lý thuyết kiểm soát, học tập xã hội và lý thuyết xử lý thông tin. Mỗi lý thuyết có những cách tiếp cận riêng về hành vi bạo lực học đường vì vậy việc hiểu rõ và vận dụng các lý thuyết này vào công tác phòng ngừa và can thiệp bạo lực học đường sẽ mang lại hiệu quả cao. Từ khóa: bạo lực học đường, lý thuyết sinh thái, lý thuyết kiểm soát, lý thuyết học tập xã hội, lý thuyết căng thẳng, lý thuyết xử lý thông tin. Abstract The overview of researches about school violence show that currently there are five theories that have been referred by researchers in order to study causes of school violence: ecologicalcontextual model, the strain model, control theory, social learning models, Social Information Processing Models. Each theory has its own approach to school violence behaviors. That’s why understanding and application of these theories to the prevention and intervention of school violence will bring high efficiency. Keywords: School Violence, Ecological-Contextual Model, The Strain Model, Control Theory, Social Learning Models, Social Information Processing Models. 1. Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, vấn đề bạo lực học đường thu hút nhiều sự quan tâm của xã hội. Việc học sinh doạ nạt, cãi cọ, mắng chửi, đánh hội đồng một học sinh không còn là chuyện hiếm gặp. Số liệu thống kê sơ bộ của Đoàn kiểm tra phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tại 12 tỉnh thành phố thuộc bảy vùng thi đua của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong những ngày cuối năm học 2011 – 2012 cho thấy, tổng số vụ học sinh đánh nhau tại 12 tỉnh, thành phố là gần 500 vụ, nhiều nhất là ở Quảng Ninh với 169 vụ, tiếp theo là Tây Ninh với 126 vụ, Lạng sơn có 54 vụ. 1 Email: datnb@ussh.edu.vn 1 Tuy nhiên, trong công tác phòng ngừa và can thiệp bạo lực học đường hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn, lúng túng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện trạng này là do các nhà quản lý giáo dục, ban giám hiệu, giáo viên vẫn còn thiếu những thông tin từ những nghiên cứu khoa học về hành vi bạo lực học đường. Đây thực sự còn là một khoảng trống trong công tác phòng ngừa, can thiệp bạo lực học đường hiện nay. Từ thực trạng trên, bài viết sẽ đề cập đến quan niệm và các lý thuyết được các tác giả sử dụng nhiều trong việc nghiên cứu hành vi bạo lực học đường: lý thuyết sinh thái, căng thẳng, kiểm soát, học tập xã hội, xử lý thông tin. Đây là những lý thuyết được các tác giả trong và ngoài nước sử dụng để lý giải nguyên nhân dẫn đến hành vi bạo lực học đường. Bài viết này sử dụng phương pháp tổng quan tài liệu. Các bài báo khoa học, báo cáo nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong, ngoài nước được công bố trên các tạp chí chuyên ngành hoặc website của các cơ quan, tổ chức, trung tâm, viện nghiên cứu..v.v, được lựa chọn làm tư liệu chính cho bài viết. 2. Quan niệm của các nhà nghiên cứu về bạo lực học đường Hành vi bạo lực được định nghĩa là hành vi “cố ý dùng sức mạnh thể chất hoặc uy quyền để đe dọa hoặc thực hiện hành vi chống lại bản thân, một hoặc một nhóm người khác hay một cộng đồng, gây ra sự tổn thương về thể chất và tinh thần, nguy hại hơn có thể dẫn đến tử vong” (World Health Organization: WHO, 1996). Hành vi bạo lực học đường là một phần của hành vi bạo lực, xảy ra bên trong hoặc bên ngoài phạm vi không gian của nhà trường nhưng có liên quan đến thành viên của nhà trường. Hành vi bạo lực học đường có thể diễn ra giữa học sinh với học sinh hoặc giữa học sinh và giáo viên. Tuy nhiên, hành vi này diễn ra phổ biến giữa học sinh với học sinh (Trần Thị Tú Anh, 2012). Các hành vi bạo lực học đường thể hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, từ không lời đến có lời, từ hành động đơn giản đến hành động thù định, gây hấn, phá phách, gây tổn thương cho người khác (Phan Thị Mai Hương, 2009). Hành vi bạo lực học đường còn là những hành vi như kết băng nhóm hăm dọa bạn bè, ăn hiếp người nhỏ hoặc yếu thế, có thể là hành vi trấn lột đồ - tiền của bạn khác hoặc thậm chí có thể do ghét nhau lâu ngày nên dẫn đến xô xát đánh nhau hoặc đánh nhau có sử dụng hung khí (Nguyễn Thị Hồng Thắm, Tô Gia Kiên, 2009). Bạo lực học đường hay gây hấn học đường là hành vi làm hại, gây tổn thương về thể chất, tinh thần cho học sinh một cách cố ý (Trần Thị Minh Đức, 2010). Phân tích quan niệm của các nhà nghiên cứu, chúng ta nhận thấy hành vi bạo lực học đường thuộc nhóm hành vi bạo lực trong xã hội nói chung, vì thế hành vi này có các đặc điểm cơ bản sau: Hành vi bạo lực học đường là một dạng hành vi lệch chuẩn: Hành vi bạo lực học đường được coi là những hành vi lệch chuẩn bởi nó vi phạm các quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội, 2 nội quy của nhà trường nơi mà các em là thành viên (Nguyễn Văn Lượt, 2009). Hành vi bạo lực học đường còn được coi là những hành vi chống đối xã hội vì nó đe dọa, tấn công người khác hoặc phá hủy tài sản công (Carra Cecile, 2009). Hành vi bạo lực học đường gây tổn thương về thể chất và hoặc tinh thần: Nhiều tác giả đã khẳng định, hành vi bạo lực học đường gây tổn thương cả về thể chất và tinh thần cho cả học sinh có hành vi bạo lực và học sinh là nạn nhân của hành vi bạo lực (Trần Thị Minh Đức, 2010; Trần Thị Tú Anh, 2012, Phan Mai Hương, 2009; Olweus, 1993). Hành vi bạo lực học đường còn tác động xấu đến những học sinh chứng kiến hành vi này. Các em hoặc là vô cảm hoặc trải nghiệm qua cảm giác bất lực. Một số em khác cảm thấy day dứt vì mình không thể làm gì để ngăn cản sự việc, một số khác có cảm giác thiếu an toàn, lo lắng hạn chế sự sang tạo và khiến bầu không khí của học sinh trở nên căng thẳng (Trần Thị Minh Đức, 2010). 3. Các lý thuyết trong nghiên cứu bạo lực học đường Các lý thuyết dưới đây lí giải cho một loạt hành vi bạo lực, hành vi sai phạm và hành vi chống đối xã hội diễn ra trong và ngoài trường của học sinh (Schonfeld, 2006), 3.1. Lý thuyết sinh thái (Ecological-Contextual Model) Lý thuyết sinh thái gắn liền với Bronfenbrenner (1979), mặc dù nó xuất phát từ lý thuyết của Lewin (1935). Theo lý thuyết này, cá nhân phát triển trong “môi trường sinh thái”. Trong đó, môi trường mà cá nhân sống và nhận thức được luôn thuộc về môi trường lớn hơn. Giữa các môi trường có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến môi trường bên trong, cho đến khi môi trường gần nhất: gia đình ảnh hưởng đến cá nhân. Sự ảnh hưởng này cộng với sự chuyển đổi vai trò xã hội và các mối quan hệ liên nhân cách tạo nên sự thay đổi và phát triển ở mỗi cá nhân. Nghiên cứu hành vi bạo lực trong và ngoài trường học của trẻ em theo lý thuyết sinh thái, các tác giả xem xét sự tương tác giữa các yếu tố khách quan như hoàn cảnh gia đình, môi trường học đường, môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh trường học với các yếu tố thuộc cá nhân học sinh như gen, hệ thần kinh, giới tính, các quá trình tâm lý cá nhân, các sự kiện xảy ra trong quá khứ của trẻ. Các nghiên cứu ở nước ngoài chỉ ra rằng hành vi bạo lực ở thanh thiếu niên có mối quan hệ với hệ thần kinh giao cảm, khả năng làm chủ cảm xúc (Raine, 1993). Những thanh thiếu niên nam có hành vi chống đối xã hội sớm là những trẻ trước sáu tuổi đã có hành vi bạo lực với bạn, thiếu hụt kỹ năng xã hội và chỉ số IQ thấp, đến tuổi đi học những trẻ này thiếu sự tập trung chú ý và có những khó khăn trong học tập như vụng đọc, vụng viết (Moffitt, 1990); tỷ lệ trẻ em và thanh thiếu niên có hành vi gây hấn và chống đối xã hội ở cộng đồng ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi bạo lực của học sinh trong và ngoài trường học (Bowen & Bowen, 1999; Evans, 2004). Các vấn đề xã hội tồn tại trong cộng đồng: thất nghiệp, nghèo đói, bạo lực, các mối quan hệ không chính thức của trẻ em và thanh thiếu niên bên ngoài trường học ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi bạo lực của trẻ em trong và ngoài trường học 3 (Sampson & Groves, 1989; Stouthamer và cộng sự, 2002). Các yếu tố thuộc về gia đình như hoàn cảnh kinh tế khó khăn, phương thức giáo dục hà khắc, sự trừng phạt của cha mẹ ảnh hưởng đến hành vi gây hấn và bạo lực của trẻ trong và ngoài trường học (Lansford, DeaterDeckard, Dodge, Bates và Pettit, 2004). Tiếp cận hành vi bạo lực học đường theo lý thuyết sinh thái, các nhà nghiên cứu trong nước luôn xem xét hành vi bạo lực học đường gắn với các yếu tố cá nhân: tâm lý lứa tuổi, sự tự đánh giá bản thân, nhận thức sai lầm của học sinh về phương thức giải quyết xung đột, sự ganh tị; hành vi bạo lực còn gắn liền với môi trường gia đình, môi trường học đường (Trần Thị Minh Đức, 2010; Hoàng Bá Thịnh, 2009; Lê Minh Nguyệt, 2012). Hành vi bạo lực học đường của học sinh cũng chịu tác động từ môi trường xung quanh (Lê Thị Hồng Thắm và Tô Gia Kiên (2009). 3.2. Lý thuyết căng thẳng (The Strain Model) Lý thuyết căng thẳng gắn liền với Robert Agnew (1992), mặc dù nguồn gốc của nó xuất phát từ quan điểm của Robert Merton (1938). R. Agnew cho rằng cá nhân đương đầu với ba loại căng thẳng trong cuộc sống: (a) thứ nhất, những điều ngăn cản cá nhân đạt mục tiêu có giá trị, (b) những điều mang tính đe dọa hoặc tước mất những gì có giá trị của cá nhân, (c) cá nhân chịu đựng hoặc bị tác động bởi những điều tiêu cực từ môi trường xung quanh. Loại căng thẳng thứ nhất nảy sinh từ những rào cản, cản trở cá nhân đạt được những nguyện vọng và thành tích hoặc cuộc sống riêng tư của cá nhân không được tôn trọng; loại thứ hai, cá nhân rơi vào trạng thái căng thẳng do bị mất người thân, cha mẹ ly hôn, mất đồ vật có giá trị; loại thứ ba, cá nhân căng thẳng do phải đương đầu với các sự kiện như thất bại học đường, cha mẹ, giáo viên phê bình, kỷ luật, cảnh cáo, sỉ nhục. Sự căng thẳng làm gia tăng cảm xúc tiêu cực, dễ bùng phát những cơn tức giận. Một số cá nhân sử dụng hành vi gây hấn, trả đũa hoặc dùng thuốc kích thích để vượt qua sự căng thẳng đang dồn nén trong lòng. Nghiên cứu hành vi bạo lực của học sinh trong và ngoài trường học theo lý thuyết căng thẳng, các nhà nghiên cứu tập trung phân tích mối quan hệ giữa hành vi bạo lực học đường và trạng thái cảm xúc của học sinh trong các tình huống: bị giáo viên trừng phạt, chứng kiến bạn khác bị bắt nạt hoặc bị trừng phạt; chứng kiến cảnh cha mẹ mắng chửi, đánh nhau, chứng kiến cảnh bạo lực trong cộng đồng. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, hành vi bạo lực gắn với trạng thái căng thẳng của học sinh ở trường học. Những cơn tức giận, lo âu, trầm cảm của học sinh liên quan đến sự ứng xử của giáo viên đối với học sinh, kể cả đối với học sinh cá biệt (Brezina, 1996). Các yếu tố gây stress ở trường học tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng hành vi bắt nạt học đường (Natvig, 2001). Việc chứng kiến bạo lực hoặc là nạn nhân của hành vi bạo lực tại cộng đồng có mối quan hệ với hành vi chống đối xã hội của trẻ ở trường học (Rosario, 2003). Lý giải hành vi bạo lực học đường theo lý thuyết căng thẳng, các nhà nghiên cứu trong nước cho rằng hành vi bạo lực học đường liên quan đến áp lực học tập của học sinh. Tình 4

nguon tai.lieu . vn