Xem mẫu

  1. TÓM TẮC NỘI DUNG BÀI TRIẾT HỌC NHẬP MÔN (BUỔI 1 ngày 14/12/2010) Xã hội loài người từ khi còn sơ khai cho đến khi có được trình độ nhận thức cao đã trải qua những chế độ xã hội từ Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,….tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa đã đúc kết được rất nhiều kinh nghiệm cũng như trí tuệ hàng nghìn năm lịch sử của con người. Tất cả những hiện tượng về xã hội, tự nhiên và con người đều được nghiên cứu và ghi lại thông qua một môn khoa học gọi là triết học. Đây là một hệ thống những quan niệm, quan điểm chung nhất của con người về thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy, là thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận của một giai cap hoặc lực lượng xã hội nhất định. Như vậy đối tựợng nghiên cứu của triết học chính là qui luận chung nhất bao trùm lên con người và tư duy. Ta cần làm rõ về định nghĩa của triết học thông qua những cụm từ như thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận để có thể hiểu được thật tường tận môn học này. Thế giới quan Thế giới quan là một hệ thống những quan niệm của con người về thế giới nhằ giải đáp những - vấn đề về ý nghĩa của đời sống con người về thế giới. - những quan niệm này khác nhau về tính chất màu sắc, kích thước,.. Nói chung quan niệm về thế giới quan là vô cùng phong phú và phức tạp. Thế giới quan này bao gốm tri thức, tư tưởng, lý tưởng, tình cả m, niềm tin…thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, triết học, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật. Trong đó triết học là hạt nhân của thế giới quan nhưng tri thức khoa học mới là quan trọng nhất vì không tri thức thì chỉ có tình cả m và niềm tin mù quán. Tri thức là toàn bộ hiểu biết của con người về thế giới, đó là nhận thức về thế giới quan của con người về thế giới, bao gồm: + tri thức tự nhiện do khoa học tự nhiên nghiên cứu + tri thức xã hội do khoa học xã hội nghiện cứu + tri thức về con người do khoa học con người nghiên cứu. - Tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi trở thành niềm tin của con người để trở nên sâu sắc và bền vững hơn. - Khi trở thành niềm tin thì tri thức có thể vượt qua khó khăn gian khổ như những chiến sĩ xông pha nơi lửa đạn, những quyết xả than vì tổ quốc… - Tri thức thành cơ sở cho hành động khi trở thành niềm tin và lúc này tri thức gia nhập vào thế giới quan. Như vậy thế giới quan là toàn bộ hiểu biết và kinh nghiệm sống của con người. Thế giới quan là trình độ cao của lý trí và trí tuệ nhưng lý trí và tình cả m thì không tách rời nhau. Nhưng tình cả m lại củng cố cho lý trí làm cho lý trí có chiều sâu của sức mạnh. Lý trí là bậc cao của tri thức. Trong lịch sử nhận thức của nhân loại tồn tại nhiều hình thức thế giới quan: + thần thoại: có từ thời cộng sản nguyên thủy sơ khai kết hợp giữa sự thật và hoang đường, tư duy và tình cả m. Ví dụ như thần thoại Hy Lạp là một thế giới quan của con người lúc bấ y giờ tưởng tượng về một thế thức siêu thực tồn tại song song với thế giới thực. Có chư thầ n cai quả n mọi công việc ở nhân gian… + tôn giáo: là thế giới quan duy tâm phản ánh hiện thực một cách hư ả o. Tôn giáo được chia làm tổ chức tôn giáo, tín điều tôn giáo và ý thức tôn giáo. Trong đó ý thức tôn giáo được chia ra thành tình
  2. cảm tôn giáo, tâm lý tôn giáo và niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo là nền tảng thế giới quan của tôn giáo, đó là khả năng đạt được điều tốt đẹp sau khi mất đi. + triết học: là lý luậ n về thế gới quan, không phả i bằng thần thoại hoặc niềm tin tôn giáo mà diễn tả bằng khái niệm, phạ m trù, qui luật, là sự nắm bắt thế giới quan bằ ng lý luận thể hiện chiều sâu tư tưởng, chiều cao trí tuệ. Nhân sinh quan là quan niệm về xã hội và con người. Tự hỏi con người là gì, bản chất của con người là gì,…từ đó trang bị một Phương pháp lý luận là lý luận về phương pháp. Phương pháp là một hệ thống, cách thức giúp chúng ta đạt được mục tiêu. Như vậy triết học ra đời từ đâu. Đây là câu hỏi cần có lời giải đáp, đó là từ nhận thức và xã hội. Con người phát triển từ thời nguyên thủy đến thời hiện đại đã trải qua nhiều sự thăng trầm của lịch sử và từ đó đúc kết được nhiều kinh nghiệm cũng như nhận thức về môi trường xung quanh. Như vậ y triết học ra đời từ tư duy trừu tượng bậc cao buộc phải tìm hiểu và phám phá thế giới xung quanh, đó là nhu cầu bẩm sinh của con người khi muốn tồn tại và phát triển. Nhưng không phải có nhận thức là có triết học. Triết học chỉ ra đời khi có nhận thứic từ duy trừu tượng (không phải bằng trực quan sinh động). Lại nữa khi nền sản xuất phàt triển thì dẫn đến sự phân công lao động và xã hội cũng làm cho triết học phát triển bởi vì khi con người nắ m được bí quyết sản xuất thì sẽ tạo ra sự phân chia giai cap trong xã hội. Lúc này giai cap thống trị sẽ tìm mọi cách để giữa vững vai trò thống trị của mình nên đưa ra những luận điểm có lợi cho giai cap mình hay những sự dị thường được gán đặt cho thiên nhiên… lúc này triết học phát triển. Đòi hỏi con người phải luôn tìm tòi khám phá thế giới xung quanh, và qua tư duy con người nhận thấ y giữa những sự hiện tượng và ý thức cái nào có trước. Đây chính là vấn đề cơ bản của triết học. Là quan hệ giữa tư duy và tồn tại, tinh thầ n và tự nhiên, vật chất và ý thức cái nào có trước và con người có khả năng nhận thức được thế giới không. Những câu hỏi lần lược được giải đáp là cơ sở nền tảng để xây dựng các nguyên lý còn lại trong hệ thống, là tiêu chuẩ n để phân chia các trường phái triết học, cụ thể: - nhất nguyên duy vật: cho vật chất có trước, gồm ba hình thức chủ nghĩa duy vật máy móc, thô sơ; triết học siêu hình và triết học duy vật biện chứng - nhất nguyên duy tâm: cho ý thức có trước gồm có triết học duy tâm chủ quan, ý thức có tôi trong tôi; triết học duy tâm khách quan, ý thức ngoài tôi. - cả hai vấn đề tác động nhau: triết học nhị nguyên - con người có khả năng nhậ n thức thế giới: triết học khả tri - cho con người không có khả năng nhận thức thế giới: triết học bất khả tri. Từ đây con người hay các nhà triết học đưa ra hai phương pháp nhận thức triết học cơ bản là phương siêu hình và phương pháp biện chứng. - Phương pháp siêu hình: xem sự vật trong sự tách rời, cô lập, không có sự liên hệ với nhau (nếu có là bề ngoài, hời hợt), xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh có nghĩa là không có sự biến đổi phát triển hay vận động (nếu có chỉ là sự biến đổi đơn thuẩn về lượng không phải về chất và đi tìm nguồn gốc phát triển bên ngoài sự vật). - Quan điểm biện chứng: xem xét sự vật trong mối quan hệ hữu cơ, rang buộc, qui định và làm tiền đề tồn tại cho nhau; xem xét sự vật trong trạng thái động, có nghĩa là luôn vận động, biến đổi và
  3. phát triển không ngừng…tìm hiểu nguồn gốc động lực, cách thức và khuynh hướng sự phát triển. Trong lịch sử triết học tồn tại ba phép biện chứng đó là: phép biện chứng chứng chất phát ngây thơ thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm trong triết học Đức và phép biện chứng duy vật trong triết học Mark. Thông qua các chức năng của nó như nhận thức, đánh giá, giáo dục, thế giới quan, phương pháp luận, triết học đóng một vai trò quan trọng đối với khoa học và đời sống, cụ thể : - chức năng thế giới quan: triết học tìm hiểu những gì thuộc thế giói quan, khi đã hình thành thì thế giới quan định hướng cho con người nhận thức về thế giới; nó như là “thấu kính” giúp con người nhìn nhận rõ hơn và khách quan về bản than và xác định ý nghĩa mục đích sống và để đạt được ý nghĩa mục đích sống đó. - Khi trình độ con người phát triển thì thế giới quan là tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của con người và toàn bộ dân tộc mà triết học là hạt nhân của thế giới quan. - chức năng phương pháp luận: là hệ thống các quan điểm nhằ m chỉ đạo, tìm tòi xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp gồm: + phương pháp ngành: dành cho 1 ngành + phương pháp chung: dành cho một số nhóm ngành khoa học + phương pháp phổ biến:là phương pháp luận triết học dung cho tất cả các ngành khoa học - chức năng của triết học: + mỗi một quan điểm hay lý luận đồng thời chính là nguyên tắc trong việc xác định phương pháp + các học thuyết triết học khoa học tạo ra khả năng cải tạo thế giới và trở thành công cụ hữu hiệu để chế ngự thiên nhiên.
  4. TÓM TẮC NỘI DUNG PHẦN TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO (BUỔI 2 NGÀY 21/12/20010) Bài học ngày hôm nay đã đ3m lại cho tôi cái nhìn khác cuộc sống, con người, tự nhiện cũng như mọi hiện tượng xung quanh mà Phật giáo gọi là pháp. Như vật Phật giáo ra đở như thế nào và đã có những tư tưởng, triết lý như thế nào mà đã ảnh hưởng đến hang triệu triệu người trên thế giới nghiên cứu, học tập và sống theo như vậy. Để biết được điều này hãy cùng nhau nghiên cứu về môn học trên tinh thần chỉ thu lượm được những kiến thức nhỏ nhoi trong thời lượng 4 tiết. 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo: + là trào lưu tôn giáo xuất hiện tại miền Bắc Ấn Độ nhằ m phản đối và tìm hướng đi riêng cho mình. Vì sao lại như thế, thời kỳ này ở Ấn Độ đạo Bà La Môn là một tôn giáo nắ m quyền thống trị về tinh thần tại đó. Ở đó có sự phân chia giai cấp sâu sắc và khắc nghiệt như gia cap Ba La Môn, Sát Đế Lợi cho đến Thủ Đà La là giai cap hạ tiện tại đây thời bấy giờ. Đạo Phật xuất hiện như là tôn giáo mang luồn gió mới đến cho xã hội thời bầy giờ và cũng gặp không ít khó khăn trở ngại khi mới hình thành. + được xây dựng trên cơ sở tư tưởng cuộc đời của đức Thích Ca Mâu Ni. Được bắt nguồn từ chữ Phật Đà theo thiếng Hán và Việt Nam chúng ta gọi là Bụt. Phật Đà hay Bụt có nghĩa là đấng giác ngộ, người sang suốt để giác ngộ người khác. Ngày nay người ta còn đang nghi ngờ về đạo Phật do tất cả những giáo lý của đạo Phật được truyền lại cho đời sau đều thong qua truyền khẩu tại vì thời bấy giờ tại Ấn Độ chưa phát triển chữ viết nên không thể truyền lại bằng văn tự. Cần nói rõ them về đức Phật. Phật khi còn là thái tử là con vua Tịnh Phạn, nước Ca Tỳ La Vệ (hiện địa phận này nằ m trên nước Nepal) và mẹ là Hoàng hậu Ma Gia. Tương truyền rằng ngài được sinh ra tại vườn Lâm Tỳ Ny, có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Ngài sinh năm 624 TCN nhưng các nhà nghiên cứu lại cho rằng ngài sinh năm 565 TCN và mất năm 465 TCN. Cũng có nhiều sử liệu cho rằng ngài sinh năm 486 TCN và mất năm 386 TCN hay nguồn sử liệu khác cho rằng ngài sinh năm 624 TCN và mất năm 554 TCN. Ngài là con vua thì đương nhiên s ẽ được ngôi nhưng chí hướng của ngài là xuất gia đi tu. Chính vì thế mà năm 19 tuổi ngài được vua cha cưới vợ để quên đi ý định xuất gia nhưng đến năm 29 tuổi ngài quyết chí đi tu và sau 7 năm khổ hạnh ngài giác ngộ và bắt đầu truyền đạo cho mọi người. Đến năm 80 tuổi ngài mất. Theo giáo lý đạo Phật không tán thành đảng cap nên đã lôi kéo nhiều người theo đạo Phật. Đây là điểm sang trong giáo lý và đã đánh tan sự kỳ thị giữa người có đẳng cap cao và người hạ tiện. Sau khi ngài mất đã có đợt kết tập kinh điển mà ngài đã thuyết giảng. Chính từ đây đã phạn chia ra nhiều bộ phái khác nhau như Thượng tọa bộ, Đại chủng bộ. Sau này khi truyền sang Trung Quốc thì đã hình thành nên nhiều môn phái khác nhau như Nam tong, Bắc tông, Thiền tông, Hoa nghiêm tong, Tịnh độ tong,…nhưng tất cả đều lấy sự tự giác của mình làm tâm đểm để sửa chữa mình và hướng dẫn cho người khác. 2. Tư tưởng triết học của Phật giáo: a. Nhân sinh quan của Phật giáo:
  5. Quan niệm về con người, cuộc sống. Nói chung toàn bộ nhân sinh quan của Phật giáo được thể hiện trong TỨ DIỆU ĐẾ, gồm có Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế. Ta đi tìm những tư tưởng này thể hiện như thế nào trong giáo lý này. + Khổ đế: Phật giáo cho rằng đời là bể khổ như con người sinh ra là đã khổ, khi lớn lên và mất đi cũng là những nổi khổ hay nói khác hơn là sinh, lão, bệnh tử khổ. Đó là tứ khổ. Ngoài ra còn có khổ từ thời quá khứ, hiện tại và tương lai cũng như có bát khổ như bốn khổ đã kể trên và them 4 khổ nữa đó là thọ biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ uẩn khổ. + Nhân đế (tập đế): do nhận thức tinh thần gây ra, cụ thể thể hiện qua thuyết 12 nhân duyên như  Vô minh: là không nhận thức được thế giới  Duyên hành: là hành động của ý thức do sự giao động của tâm gây ra và chính điều này làm cho con người tạo nghiệp dẫn tới là khổ đau.  Duyên thức: là tâm thưc bị ô nhiễm và tùy theo nghiệp lực kết hợp tạo ra nhân  Danh sắc: chính là vật chất và tinh thầ n mà vật chất là ngũ uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó sắc là sắc than; thọ là cảm giác; tưởng là ấn tượng; hành là tư duy và thức là ý thức. Hay sắc được cấu thành từ địa, thủy, hỏa, phong, không và thức. Trong đó 5 yếu tố đầu thuộc sắc và yếu tố sau thuộc danh.  Lục căn: gồm nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ý.  Lục nhập là quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan gồm lục căn và lục trần mà lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.  Duyên xúc: là sự tiếp xúc giữa lục căn và lục trần  Duyên thọ: do tiếp xúc nẩ y sinh cả m giác yêu thương.  Ái: chính là tham ái do cả m thọ sinh ra.  Thủ: là chiếm lấy, giữ lấy  Hữu: khi có ý chiếm hữu sẽ dẫn tới việc tạo nghiệp chướng.  Sinh: sinh ra đời  Lão tử: già chết. Và đây chính là sự kết thúc một quá trình nhưng sẽ là sự bắt đầu của một cuộc đời khác. Cứ như thế luân hồi sinh tử lien tục không thể nào thoát ra khỏi vòng luẩn quẩ n này. Cần nói them về nghiệp báp luân hồi tại duyên thứ 10. Theo đạo Phật nghiệp phát sinh từ than, khẩu và ý. Chính nghiệp báo này sẽ dẫn con người đi vào 6 cõi đó là địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh, atula, người và trời. Ở mỗi con người sẽ phải trả quả báo do chính mình gây ra đến khi nào tu sử bỏ những điều xấu thực hành những điều lành thì dần dần sẽ tu thành Phật và thoát khỏi luân hồi. + Diệt đế: chỉ ra con đường để đạt được giác ngộ (niết bàn). Chữ niết bàn có nghĩa là tịch chiếu, tây phương cực lạc, thường lạc ngã tịnh, phật tánh.. đây là trạng thái r ỗng rang sang suốt, hoàn toàn tịch tĩnh, tâm được giải thoát. + Đạo đế: đưa ra con đường giải thoát diệt khổ gồm bát chánh đạo, tam học và lục độ.  Bát chánh đạo gồm: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạ ng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.  Tam học gồm: giới, định và tuệ. Giới thì có ngũ giới và bát giới, ngũ giới gồm không sát sanh, không trộm cap, không tà dâm, không nói dối, không uống chất gây nghiện. Bát giới có không xem ca nhạc, không nằ m xoải tay chân, không ăn quá ngọ, không
  6. lấy vợ, lấy chồng, không t ồn trữ tiền bạc, không ăn trộm, không nói vu khống, đặt điều, không sát sanh. Định là thiền định. Tuệ là trí tuệ  Lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Như vậy toàn bộ nhân sinh quan của Phật giáo nằ m trong TỨ DIỆU ĐẾ b. Thế giới quan của Phật giáo: Lý thuyết về nhân duyên: tất cả các sự vật hiện tượng xuất hiện đều có nguyên nhân và điều kiện. Cái gì có sự tác động giữa vật gây ra một hay nhiều kết quả là nhân. Cái gì kết tập từ nhân gây ra gọi là quả. Duyên là điều kiện giúp nhân thành quả. Thế giới là vô tận và không có nguyên nhân đầu tiên. Lý thuyết về nhân quả: là sự tiếp tục phát triển lý thuyết nhân duyên, nhân nào quả đó. Triết học Phật giáo chính là luật nhân quả, vạn pháp đều đều do nhân duyên sinh ra. Luật nhân quả chỉ chịu tác động bởi luân hồi. - Tự nhiên: thế giới sự vật hiện tượng đều có nhân duyên của nó. Mọi sự khổ não của sinh lão bệnh tử có nhân từ sự xáo trộn của chân không. Điều này là tất nhiên. - Xã hội: có nguyên nhân từ ngũ uẩn dẫn tới các mặt đối lập như tốt xấu, thiện ác, phải trái,..nhũng điều này xuất phàt từ lòng tham sân si của con người gây ra nên phải luân hồi không ngừng nghỉ. Đây chính nhân duyên xã hội có thể tránh được bằng chính cuộc sống đức hạnh của mình. Cho nên phải tu và sống đức hạnhvà tập long từ bi hỷ xã nhiều kiếp mới giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Đây là giá trị đạo đức lớn nhất của đạo Phật. Thuyết vô thường: Phật giáo cho rằng thế giới luôn nằm trong vòng biến đổi lien tục không ngừng, không ổn định tất cả giống như dòng nước chả y nay còn mai mất…từ cái này dẫn đến cái khác với chính nó. Đây chính là phép biện chứng chất phát ngây thơ thời cổ đại. Trong khái niệm vô thường Phật vẽ ra bức tranh đa dạng, đồng nhất..Phật vạch ra những ma6u thuẩn nội tại như ý thức mâu thuẩn vô thức, giác ngộ mâu thuẩn vô minh, tự ngã vô ngã, tâm sai biệt tâm tỉnh lặng sang suốt. Chính quy luật chi phối thế giới là qui luật nhân quả nhưng thiếu tính hiện thực, thần bí, tự phát chưa hoàn chỉnh, nhiều tiêu cực hơn tích cực. Thuyết vô ngã: Phật giáo cho rằng mọi sự vật hiện tượng đều ảo và giả tạo do vô minh gây ra, không có cái tôi thật (vô ngã). Vì danh và sắc hội tụ ngắn ngủi sau đó chuyển sang cái khác (ví dụ như người ta không thể nào tắm trên cùng một dòng song hay như chính con người chúng ta cũng bị biết đổi không ngừng là những tế bào này mất đi tế bào khác lại xuất hiện…). Có thực thể nhưng không có thực thể ấy vì do cái khác sinh ra. Có xét về mặt bản chất tức “không”. Không tức là không có gì nhưng phải có gì mới gọi là không tức là không mà có. Thuyết tam thiên đại thiên thế giới: để diễn tả thế giới vô cùng vô tận không khởi đầu cũng không kết thúc. Theo triết học Phật giáo thế giới bao gồm mặt trời, mặt trăng, trái đất, các vì sao. Nhưng Phật giáo còn đi vào chi tiết như sau; + 1000 thế gới ấy hợp lại gọi là tiểu thiên thế giới + 1000 tiểu thiên thế giới hợp lại thành trung thiên thế giới + 1000 trung thiên thế giới hợp thánh đại thiên thế giới + 3 đại thiên thế giới hợp thành là một thế giới khách quan mênh mông xung quanh chúng ta. Số thế giới này nhiều như số cát song Hằng. Tóm lại Phật giáo nguyên thủy có tư tưởng vô thầ n Có tư tưởng vô ngã và vô tạo giả Có tư tưởng vô thường là tư tưởng biện chứng sơ khai: duyên khởi, nhân quả
  7. Tuy nhiên thể hiện tính chất duy tâm chủ quan coi thế giới chỉ là ảo và giả tạo do tâm vô minh của con người tạo ra. TÓM TẮC NỘI DUNG PHẦN TRIẾT HỌC ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH (BUỔI 3 NGÀY 28/12/2010) Tư tưởng về â m dương và tư tưởng về ngũ hành là hai luồng tư tưởng xuất hiện rất sớm từ thời nhà Thương. Đó là hai cách giải thích khác nhau về bản nguyên, về cấu tạo, về tính biến dịch của thế giới-vũ trụ, vạn vật và con người. Để tìm hiểu vấn đề này chúng ta sẽ đi từ khái niệm và những quan điểm, lý giải của người Trung quốc về vũ trụ, vạn vật và con người. Qua đó chúng ta có thể thấy được tính khái quát hóa về những hiện tượng, thực tế cuộc sống mà họ quan sát được. Triết lý âm dương: I. 1. Khái niệm: Triết lý âm dương ngũ hành hình thành ở phương Đông từ những điều mắt thấ y tai nghe và qua kinh nghiệm truyền đời của cư dân nông nghiệp mà hình thành hay còn có thể nói nó được hình thành từ khái quát do trực quan sinh động mà thấy được xu hướng cặp đôi của sự vật hiện tượng xảy ra trong thực tế cuộc sống. Ví dụ như Người ta quan sát những cặp đối lập nhau như thấp – cao, lạnh – nóng, phương Bắc – phương Nam, mùa đông – mùa hạ, đêm – ngày, sáng - tối,.. đây là những yếu tố liên quan đến ĐẤT-TRỜI. Người ta đồng nhất Đất là Mẹ, Trời là Cha Đất là âm và Trời là dương Từ thực tế cuộc sống người Trung quốc cổ đại cho rằng cho rằng bản thân vũ trụ cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của hai cái đối lập nhau là âm và dương. Và mọi tai họa trong vũ trụ sở dĩ xảy ra cũng là do sự không điều hòa được hai lực lượng ấy. Âm là một phạ m trù đối lập với dương phản ánh những yếu tố (sự vật hiện tượng, tính chất, quan hệ..) và khuynh hướng như: giống cái, đất, mẹ, vợ, nhu thuận, tối, ẩm, phía dưới, số chẵn.. Dương là một phạ m trù đối lập với âm, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện tượng, tính chất quan hệ.. ) và khuynh hướng như: giống đực, trời, cha, chồng, sáng, khô, phía trên, số lẻ,.. Đây là tư tưởng xuất phát từ bản chất vũ trụ. 2. Hai quy luật về triết lý âm dương: a. Quy luật thành tố: để xác định âm dương cần dựa vào những căn cứ: - Không có cái gì hoàn toàn dương hay hoàn toàn â m. Trong dương có âm và trong âm có dương. VD: nắ ng là dương, mưa là âm, trong mưa có nắng và trong nắng có mưa. Vì khi nắng nóng nước bốc hơi tạo thành mưa và khi mưa hết thì nắng xuất hiện. Như vậy việc xác định âm dương là hết sức tương đối.
  8. - Phải xác định được đối tượng so sánh thì mới có cơ sở để phân biệt âm dương, ví dụ như nam mạ nh hơn nữ nên nam là dương còn nữ là âm. Nếu nam đem so sánh với hổ thì nam là âm mà hổ là dương. Đây lại mang tính tương đối nữa, không có qui luật gì cả. - Phải xác định được cơ sở so sánh: cùng một ặp so sánh nếu cơ sở so sánh khác nhau thì khác nhau. Ví dụ: nếu so sánh về ức mạ nh thì nam là dương và nữ là âm nhưng nếu xét về tính cách, sự chịu đựng thì nam là âm còn nữ là dương. Hay như so sánh về đất và nuớc; xét về độ cứng thì đất là dương còn nước à âm nhưng xét về tính linh động thì nước là dương còn đất là âm…. b. Quy luật về quan hệ: Âm dương luôn gắn bó mật thiết với nhau và chuyển hóa lẫn nhau, cứ dương cực thì âm sinh, dương tiến thì âm lùi, dương thịnh thì âm suy và ngược lại. 3. Hai hướng phát triển của triết lý âm dương: Triết lý âm dương phát triển theo hai hướng khác nhau đó là ngũ hành và bát quái Triết lý âm dương lưỡng nghi: sinh đôi thuầ n túy theo số chẵn. Theo Kinh dịch, từ thái a. cực → lưỡng nghi → tứ tượng → bát quái. Cần nói rõ về Thái cực, Thái cực là cội nguồn của mọi sự biến hóa trong vũ trụ, nó thống nhất trong mình hai lực lượng đối lập âm dương (lưỡng nghi). Lưỡng nghi giao cảm biến hóa lẫn nhau tạo thành tứ tượng (thái dương thiếu dương, thái âm thiếu âm).. Khi chưa có chữ viết, âm được ký hiệu bằng gạch đứt (- -) và dương được ký hiệu bằng gạch liền (−). Khi lấ y dương chồng lên dương, lấy âm chồng lên dương, lấy âm chổng lên âm, lấy dương chồng lên âm ta lần lượt được thái dương, thiếu dương, thái âm thiếu âm (các biểu tượng của tứ tượng). Khi lấy dương, rồi sau đó lấy âm chồng lần lượt lên tứ tượng ta được 8 biểu tượng của bát quái (càn, ly, cấn, tốn, đoài, chấn khôn, khả m)… b. Tư duy theo số lẻ: Hai sinh ba → tam tài. Ba sinh năm → ngũ hành. Việt nam chúng ta thường thích tư duy theo hướng này Cấu trúc không gian vũ trụ-mô hình tam tài ngũ hành: II. 1. Tam tài (3 phép hay 3 phương pháp): tam tài là Thiên, Địa, Nhân. Đây là tư duy biện chứng của cư dân nông nghiệp. Cho rằng con ngươi là một tiểu vũ trụ vì con người đứng giữa Trời và Đất (tức dương và âm) 2. Ngũ hành (là 5 loại vận động): từ thực tế cuộc sống người Trung quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ cũng như vạn vật trong nó được tạo thành từ năm yếu tố luôn vận động là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cụ thể, trong tự nhiên gỗ bị đốt cháy sinh ra lửa (mộc sinh hỏa); trong lóng đất sinh ra các quặng thể rắn-kim loại (thổ sinh kim); nước là thành phầ n không thể thiếu được để cây cối sinh sôi nẩ y nở (thủy sinh mộc);…triết học ngũ hành được hợp từ hai bộ tam tài là Mộc-Kim-Thổ và Thủy-Hỏa-Thổ tạo thành bộ 5 là ngũ hành. 3. Hà đồ-cơ sở của ngũ hành: là một hệ thống những chấm đen và trắng được sắp xếp theo một cách nhất định. Mô hình Hà đồ là sản phẩm của cư dân nông nghiệp mang tính triết lý sâu sắc: - Là tổng hợp giữa số học và hình học - Là tổng hợp cuộc đời của các con số và cuộc sống của con người. Các số nhỏ từ 1→5 là số sinh: nằ m trong. Các con số lớn từ 6→10 là số thành: nằ m ngoài. - Là sự triết lý uyên thâm về các con số. Mỗi nhóm số bao gồm một chẵn (-), một lẻ (+), một số nhỏ, một số lớn, một sinh, một thành. Đặc biệt là số 5 ở giữa gọi là tam thiên, lưỡng địa. 4. Ngũ hành theo hà đồ:
  9. Mỗi một nhóm số của hà đồ tiếp nhận một hành tương ứng với mỗi phương. Đây là năm yếu tố hình thành nên vũ trụ theo quan niệm của cư dân Trung quốc, gồm: - Thổ: hành thổ đặt tại phương trung ương, để cai quản 4 phương, giữa hạ và thu - Thủy: hành thủy đặt ở phương Bắc (âm), mùa đông - Hỏa hành hỏa đặt tại phương Nam (dương), mùa hạ - Mộc hành mộc đặt tại phương Đông (dương), mùa xuân - Kim hành kim đặt tại phương Tây (âm), mùa thu. Theo thứ tự Hà đồ thì thức tự ngũ hành được đọc như sau: Thủy-Hòa-Mộc-Kim-Thổ.  Xét về quan hệ tương sinh: quan hệ được xác định từng cặp theo trật tự chiều kim đồng hồ như: thủy sinh mộc; mộc sinh hỏa; hỏa sinh thổ; thổ sinh kim và kim sinh thủy.  Xét về quan hệ tương khắc: theo các cạnh hình ngôi sao cũng tiến theo chiều kim đồng hồ thể hiện quá trình tương khắc, như: thủy khắc hỏa; hỏa khắc kim; kim khắc mộc; mộc khắc thổ; thổ khắc thủy. Âm dương gia cho rằng không chỉ các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên mà cả hoạt động của con người và đời sống xã hội đều tuân theo qui luật ngũ hành tương sinh tương khắc. Thí dụ: tháng giêng, mùa xuân, gió thổi tan hơi lạnh, sinh vật nằ m yên trong mùa đông bắt đầu trỗi dậy. Đó là tháng khí trởi tỏa xuống, khí đất dâng lên, trời đất hòa hợp nhau, cây cối đâm chồi nẩy lộc. Vào thàng này bậc đế vương chỉ nên điều hòa mệnh lệnh làm vui, thi ân cho trăm họ được lấy lộc, cấ m chặt cây cấm dấy binh lật đổ… Nếu vào mùa xuân (mộc là chủ) mà thi hành lệnh mùa hạ (hỏa là chủ), thì không hợp thời làm cho cây khô, cỏ héo, quốc gia luôn có tai họa gần kề; còn nếu thi hành lệnh mùa thu (kim làm chủ) thì dân sẽ có bệnh dịch lớn; thi hành lệnh mùa đông (thủy là chủ), thì nước ngập tràn, sương tuyết rơi nhiều…. 5. Ứng dụng của ngũ hành: a. Màu: Trắng Đỏ Đen Xanh Vàng ↓ ↓ ↓ ↓ ↓ Mộc Thổ Thủy Hỏa Kim ↓ ↓ ↓ ↓ ↓ Đông Bắc Tây TW Nam Riêng màu trắng và màu xanh thì không về âm dương, nhưng màu đỏ và đen thì rõ về âm dương Con vật: b. Rồng Hổ Người Chim Rùa ↓ ↓ ↓ ↓ ↓ Đông Bắc Nam Tây TW c. Ứng dụng ngũ hành trong dân gian: trị tà dung ngũ sắc, ngũ hỗ hay cờ lễ hội đều có hình vuông và có năm màu,…hay tín ngưỡng dân gian như lạy chín phương trời lạy mười phương đất,… d. Bùa bát quái: lá bùa gồm tám quẻ gồm càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn, mỗi quẻ gồm ba vạch liền và ba vạch đứt. Cấu trúc thời gian vũ trụ-lịch âm dương và hệ can chi: III. Lịch âm dương: hiện nay chúng ta sử dụng ba loại lịch: 1. Thuần dương: dựa vào chu kỳ mặt trời, một năm có 365,25 ngày - - Thuần âm: dựa vào chu kỳ mặt trăng dài 29,5 ngày, một năm 354 ngày ít hơn 14 ngày so với lịch thuần dương. - Lịch Á đông: chính là lịch âm dương, là sản phẩ m của tuy duy tổng hợp kết hợp cả chu kỳ mặt trăng và mặt trời, có 3 giai đoạn:
  10. + định ngày trong tháng theo mặt trăng: căn cứ vào ngày sóc (trăng non) và ngày vọng (trăng tròn). Sau đó căn cứ vào mặt trăng để xác định các ngày còn lại. Ví dụ: mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa, mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm,…mười rằm trăng nấu, mười sáu trăng treo,…hăm mốt nữa đêm. + định tháng trong năm theo mặt trời: xác định các ngày tiết như đông chí (lạnh nhất) và hạ chí (nóng nhất) trong năm hay như căn cứ vào xuân phân và thu phân . Tất cả cách xác định tháng trong năm như thế gọi là tứ thời. Hoặc căn cứ vào bốn ngày khởi đầu bốn mùa như lập xuân, hạ, thu và đông. + do mỗi năm chu kỳ mặt trời lớn hơn mặt trăng nên 3 năm lại điều chỉnh cho phù hợp nhau do đó phải đặt them tháng nhuận→9 năm có 7 năm nhuận. Hệ can chi: để gọi tên các đơn vị theo thời gian 2. a. Hệ can:gồm 10 yếu tố như giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm và quí. Do 5 hành phối hợp với 10 yếu tố này gọi là thập can hay thiên can: Mộc→Giáp, Ất - Hỏa→Bính, Đinh - Thổ→Mậu, Kỷ - Kim→Canh, Tân - Thủy→Nhâm, Quí - b. Hệ chi: gồm 12 yếu tố từ tý, sửu ,….hợi (12 con giáp)→ do 6 cặp âm dương biến hóa thành. Vì vậy còn được gọi là thập nhị chi (địa chi), hệ chi dùng đễ chỉ giờ trong ngày. Khởi đầu từ giờ tý lúc 23-1giờ sáng Sửu từ 1-3 giờ sáng Dần từ 3-5 giờ sáng … Hợi từ 21-23 giờ khuya Ngoài ra còn dùng để tính tháng trong năm ví dụ như tháng tý là giữa mùa đông, khi dương khí bắt đầu sinh ra. Khi phối hợp can chi hình thành hệ đếm 60 đơn vị: giáp tý, ất sửu, bính dầ n, đinh mẹo, mậu thin, kỷ tỵ, canh ngọ, tân mùi, nhâm thân, quí dậu, giáp tuất, ất hợi,…→Gọi là hệ can chi hay lục giáp. Hệ can chi được người phương Đông gọi tên giở, ngày, tháng, năm. Cứ 60 năm gọi là một hội. Hội đầu từ năm thứ 4 sau công nguyên. Đã có 33 hội trôi qua, hội gần nhất là năm 1984, giáp tý; 1985 ất sửu… IV. Nhận thức về con người: 1. Nhận thức về con người tự nhiên: Có 3 thế giới là Thiên, Địa, Nhân. Con người được xem là tiểu vũ trụ cụ thể con người có âm dương như vũ trụ. Con người được xác định dựa vào hai căn cứ: - Trên-dưới: từ ngực trở lên gọi là dương; từ bụng trở xuống gọi là âm. - Trước-sau: trước bụng là âm, sau lưng là dương Nếu vũ trụ được cấu thành từ ngũ hành thì con người cũng được cấu tạo từ ngũ hành. Vậ y con người có 5 tạng và 5 phủ:  Năm tạng gồm thận, tâm (tim), can (gan), phế (phối), tỳ (lá lách). Thận tàng tinh, tim nơi tập trung huyết mạ ch, tàng thần; can tang trữ máu, điều tiết huyết; phế dung để hô hấp; tỳ chủ về dinh dưỡng, thức ăn.
  11.  Năm phủ gồm bàng quan (bong đái), tiểu tràng (ruột non), đại tràng (ruột già), đởm (mật), vị (dạ dày). Bàng quan là kho chứa nước→tiểu tiện, tiểu tràng chủ về hóa vật→máu→tim→nuôi cơ thể, đởm chủ về quyết đoán, đại tràng là nơi tiếp tiểu tràng→bài tiết, vị chủ về chức năng xử lý thức ăn. Các yếu tố vùng loại quan hệ theo hàng ngang và các yếu tố khác loại quan hệ theo hang dọc, tuân theo qui luật tương sinh, tương khắc. Đây chính là cơ sở để chẩn đoán chữa trị trong đông y. Cách nhìn nhậ n con người xã hội: 2. Xuất phát từ con người có quan hệ mật thiết với thiên nhiên→vận dụng thuyết ngũ hành để giải thích con người. Tóm lại: với lý luận âm dương và thuyết ngũ hành, Âm dương gia đã đứng trên quan điểm duy vật chất phát, biện chứng sơ khai của người Trung quốc để lý giải cội nguồn và quá trình biến hóa xảy ra trong tự nhiên và đời sống con người. Dù cách giải thích sự phát triển của thế giới mang tính máy móc, nhưng chúng có tác dụng chống lạ i chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. TÓM TẮC NỘI DUNG PHẦN TRIẾT HỌC NHO GIA (BUỔI 4 NGÀY 28/12/2010) Sơ lược hình thành và phát triển Nho gia: I. Nho giáo và nho gia là thuật ngữ bắt nguồn từ chữ nho, gồm có hai chữ là chữ Nhân (người) và chữ Chu (chờ đợi). Nho gia là người đọc thấu kinh sách thánh hiền, được thiên hạ tôn trọng và tôn lên làm thầy đ ể dạy cách ăn ở hợp với luân thường đạo lý gọi là Nho gia hay nhà nho. Trước thời Khổng tử có một lớp người chuyên nghiên cứu văn chương, lục nghệ để trị vì đất nước, họ có tư tưởng khác nhau về xã hội, mang tính tản mạn. Sau đó Khổng tử tập trung tất cả tư tưởng ấy kiện toàn lại có hệ thống và hình thành một trường phái mang tên ông gọi là Khổng học. Như vậy liên quan đến trường phái này có 4 tên gọi: Nho gia, Nho giáo, Nho học và Khổng học. Cho đến nay các nhà nghiên cứu thống nhất chia lịch sử hình thành phát triển Nho giáo thành 4 giai đoạn là: + Nho nguyên thủy gồm có Khổng tử (Khổng học); Mạnh tử kế thưa Khổng tử phát triển theo hướng duy tâm; Tuân tử kế thừa Mạnh tử phát triển theo hướng duy vật. + Hán nho gồm hai đại biểu là Đổng Trọng Thư (II TCN) có hai tư tưởng lớn là Tam cương Ngũ thường và Thiên nhân cả m ứng; Lưu Hâm (I TCN) đóng góp tư tưởng ….. + Ngụy Tấn nam bắc triều: nho giáo kết hợp đạo Lão Trang hình thành môn học là Huyền học. + Tống nho: bắt đầu từ TK 10-13 có 4 đại biều:  Châu Đôn Di  Trình Hạo  Trình Di  Chu Hy Nho giáo kết hợp với đạo Lão Trang và đạo Phật hình thành nên môn Lý học (lý và khí). Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần của của các nước Châu Á như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Ở Việt nam nho giáo phát triển mạ nh nhất vào thế kỷ thứ 16 do Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có công truyền bá.
  12. II. Tư tưởng nho giáo nguyên thủy: gồm có thế giới quan và nhân quan để hình thành phương pháp luận  Thế giới quan: nho giáo bàn về trời và mệnh trời  Nhân sinh quan: quan niệm về XH và con người, là cách tiếp cậ n vấn đề của tư tưởng cơ bản về nho giáo. 1. Quan niệm về xã hội: a. Xã hội phải có lễ Điều đầu tiên Nho giáo nêu lên là xã hội phải có lễ. (1) Lễ là lễ nghi, tế lễ. (2) Lễ là kỷ - cương, trật tư xã hội. Tầm quan trọng của lễ: là tiên học lễ hậu học văn (học đạo làm người). Lễ là cơ sở của tư - duy và hành động. Nên Khổng tử nói: phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động (không thấy lễ thì không nhìn, nghe, nói, hành động). L ễ ở đ ây l à m ột h ệ th ống chuẩn mực dùng đ ể đảm bảo trật tư xã hội. - Nội dung của lễ: + quyền đề xuất phải theo thức bậc: Thiên tử-Chư hầu- Đại phu. Thiên tử có quyền đề đề xuất lễ, nhạc, chinh phạt. + thể hiện tư tưởng chính danh: giữ gìn danh phận cho đúng. Vua phải ra vua, cha phải ra cha và con phải ra con,…chính vì thế mà ta thu ường nghe câu danh chính ngôn thuận. Nếu lời nói không đúng đắn dẫn tới thi hành sai -> mọi người không còn kính trọng nhau nữa, xã hội không còn hòa khí, luật pháp trở nên lỏng lẻo -> dân không tin người trên nữa -> xã tắc sẽ suy sụp. Khổng tử nói bất tại kỳ thị, bất ngôn kỳ chính có nghĩa là người ở vị trí nào phải làm đúng vị trí ấy, phải làm tròn trách nhiệm của mình khi tiếp nhận công việc; ngôi thứ phải rõ ràng, có trên có dưới. Như vậy lễ được hiểu là nếp sống văn hóa thể hiện ở từng chi tiết thật nhỏ có thể rất cứng nhắc nhưng làm cho mọi người tự phải khép mình vào khuôn khổ nhằ m lập lại kỷ cương tr ật tự xã hội đảm bảo cho con ngư ời và xã hội phát triển. b. Xã hội phải giàu có, no đủ làm cơ sở xây dựng chính quyền: Học trò Khổng tử hỏi th ầy khi đi tới nước Vệ: dân đông thì phải làm g ì? Khổng tử tr ả - lời: dân đông thì phải làm cho họ giàu lên. Dân giàu lên thì phải làm gì, Khổng tử trả lời dân giàu lên thì phải dạ y họ lễ nghĩa. Cho nên Khổng tử nói Tiên phú hậu giáo. Học trò hỏi tiếp muốn làm chính trị thì yêu cầu gì đầu ti ên ? Khổng tử nói người làm chính trị thì trước hết phải thực hiện 3 điều là: túc thực, túc binh, dân trí. Ba điều này là cần thiết cho một người làm chính trị vì lúc này đất nước phồn vinh. Trong đó túc binh giữ vai trò quan trọng bảo vệ đất nước. Học trò Khổng tử lại hỏi nếu hai điều còn lại bắt buộc phải bỏ một thì bỏ điều nào tr ước, Khổng tử trả lời bỏ túc thực vì thiếu lương thực chưa chắc mất nước nhưng mất niềm tin của dân là mất hết. Tiếp thu tư tưởng Khổng tử, Mạnh tử nêu lên tư tưởng Dân vi quí xã tắc thứ chi quân vi khinh. Chỗ khác mạ nh tử nói Dân vi văn bản (dân là gốc nước). Dân là nước chở thuyền mà cũng là nước lật thuyền. Cho nên ở đây Mạnh tử nêu ra một tư tưởng thật dân chủ khi mà vai trò của vua không quan trọng hơn dân và xã tắc. Kế thừa tư tưởng này Mạnh tử cho rằng người làm chính trị phải làm cho con người hằng sản, có nghĩa là người dân phải no đủ được mùa và không bị chết đói khi mất mùa -> xã hội sẽ ổn định. Xã hội mà nho giáo hướng tới là xã hội HÒA. Vì Khổng tử quan niệm mỗi người sống - trong XH quyền lực khác nhau, sang hèn khác nhau, giàu nghèo khác. Đ ể khỏi phát sinh mâu thuẫ n, cực đoan thì trách nhiệm của người lãnh đạo chính quyền là phải làm cho xã hội HÒA HỢP. Cho nên Khổng tử cho rằng Lễ vi dùng hòa vi quý. Chỗ khác Khổng tử cho rằng Hòa là gốc của nhạc. Hình ảnh của xã hội
  13. con người giống như trong một dàn nhạc nếu không có hòa thì trống đánh xuôi kèn thổi ngược sẽ sinh ra loạn động trong xã hội. c. Chính sách đức trị: Khổng tử cho rằng dùng pháp luật và hành chính thì con người tuân theo một cách miễn cưỡng, không có liêm sỉ. Còn dùng đức trị thì làm cho con người có liêm sỉ và sẽ không tái phạ m. Kế thừa tư tưởng Khổng tử, Mạnh tử nêu lên thuyết nhân chính là đường lối chính trị nhân nghĩa, gồm 4 nội dung: + kinh tế: giải quyết tài sản chon hân dâ n lao động chính là ruộng đất và quyền sở hữu ruộng đất. + thu của dân có mức độ: đây là tư tưởng rất quan trọng của nho gia + nhẹ hình phạt: hình phạt là cần thiết nhưng chỉ có tính khuyên răn -> tăng cường ý thức của người dân + mở trường dạy học: dạy cho con người lễ nghĩa 2. Quan niệm về con người: là vấn đề trung tâm của triết học. Xã hội như thế nào thì con người như thế đó và ngược lại. a. Nhân tính (tính người): tính ở đây là ý thức tư tưởng tình cả m của con người. Giai đoạn đầu: Khổng tử cho rằng con người khi sinh ra thì bản tính bằng nhau nhưng khi lớn lên do phong tục tập quán khác nhau nên xa nhau, cho nên Khổng tử nói tính tương cận đồng tương kiến. Mạnh tử tiếp thu tư tưởng của Khổng tử nêu lên bản tính con người là thiện, do trời phú, thể hiện qua 4 đức lớn là nhân, nghĩa, lễ, trí bắt nguồn từ tứ loan là 4 đầu mối gồm: (1) lòng trắc ẩn, (2) tu hố (hổ thẹn), (3) lòng từ nhường (nhường nhịn), (4) lòng thị phi (biết phân biệt phải trái) -> gọi chung là thiện đoan. Là cái đức cố hữu trong con người như mầ m cây có sẵn và phải iết nuôi dưởng giữ gìn tính thiện thì khi lớn lê sẽ trở thành thánh nhân, nếu mất tính thiện thì nhỏ nhem như cầ m thú. Ngoài bản tính thiện thì trong mỗ con người chúng ta còn một cái tâm, là thần minh trời phú để biết phân bi.t tốt xấu phải trái. Ngoại cảnh có thể tác động vào tính thiện con người nhưng chỉ ở mức độ nào đó nếu cái tâm của chúng ta vững vàng. Vì vậy Mạnh tử rất chú trọng đến việc giáo dục người khác theo con đường tồn tâm dưỡng tính. Tuân tử cho rằng bản tính con người là ác. Con người sinh ra đã có sẵn lòng tham lợi và dục vọng, mắt thì thích nhìn sắc đẹp, tai thích nghe điều hay,..-> con người tranh giành, chiếm đoạt của nhau - > đánh mất lòng từ nhường -> phả n tặc -> mất lòng trung tín. Còn tính thiện con người do con người chúng ta tự tạo ra bằng giáo dục. Tính không làm ra được nhưng có thể hóa được, nhưng phải có thầy và pháp. Nếu không có thầy có pháp thì người hiểu biết sẽ đi ăn trộm, người dũng mãnh, tài giỏi sẽ đi làm loạn. Không có thầ y không có pháp sẽ là tại họa lớn của người đời. Cao tử cho rằng tính người không thiện không ác. Sở dĩ có thiện ác là do hình thành về sau. Dương Hùng cho rằng tính người thiện ác lẫn lộn. Từ đây cho thấy giai đoạn đầu của nho giáo quan niệm về tính người rất là khác nhau, thậ m chí đối lập nhau. Nhưng có điểm chung là cần thiết phả i giáo dục tính thiện cho con người. nếu bả n tính con người là thiện thì phải giáo dục để thành thiện, còn như bản tính con người là ác thì phải giáo dục để loại bỏ cái ác, nếu như bản tính con người thiện ác lẫn lộn thì cần thiết phải giáo dục để loại bỏ cái ác giữ lại cái thiện. Giai đoạn thứ hai: Khi giai cấp phong kiến Trung quốc thiết lập thành công nhà nước trung ương tập quyền thì quan niệm về tính người được nhìn nhận thông qua lợi ích giai cấp.
  14. Nhà Hán: Đổng Trọng Thư cho rằng tính người có ba bậc là Thành nhân, Trung nhân và Đấu thưng. Thánh nhân sinh ra đã là thiện, không cần giáo dục; Trung nhân là vừa thiện vừa ác; Đấu thưng là thấp hèn, chỉ có ác. Nhà Đường: Hàn Dũ cho rằng tính con người là tính tam phẩ m: thượng phẩ m, trung phẩ m và hạ phẩ m-> đây là cách nói khác đi của Đổng Trọng Thư. Nhà Tống: Chu Hy cho rằng tính người là Lý, là qui phẩm, đạo đức nhà nho. Giai đoạn thức ba: khi Trung quốc mở cửa tiếp xúc với thế giới phương tây chịu ảnh hưởng với tư tưởng triết học Phương tây, quan niệm tính người là bình đẳng. Có tư tưởng khác cho rằng tính người là ête. b. Quan niệm về quan hệ con người: b.1 Quan hệ: chỉ bàn quan hệ con người ở gốc độ chính trị đạo đức. Khổng tử cho rằng con người có 5 quan hệ cơ bản (ngũ luân): quân thầ n-phụ tử-phu phụ-huynh đệ-bằng hữu. Mạnh tử khái quát nên cơ sờ hình thành 5 quan hệ: cha con (máu mủ thừa kế->phụ tử hữu thân); vua tôi (quân thần hữu nghĩa); chồng vợ (phu phụ hữu biệt); anh em (trưởng ấu hữu tự); bạn bè (bằng hữu hữu tín). Thời Hán nho khái quát thành 6 quan hệ cơ bả n (lục kỷ): vì con người sống trong xã hội phải có chú bác, anh em, người bên ngoài, thầy dạ y học, bạn bè. Cụ thể: + với chú bác phải có tính thiện + với anh em phải có tình thân + với người trong họ phải có thứ tự + với ……. phải có nghĩa + với thầ y dạy học phải tôn trọng + với bè bạn phải có tình cố cựu.  Nho giáo muốn nêu lên con người cần phải có điều kiện để duy trì các mối quan hệ đó. Tức là nêu lên nghĩa vụ của con người trong các mối quan hệ xã hội. b.2 Nghĩa vụ: Quan hệ giữa mình với mình: Không tử nêu lên vấ n đề quân-quân, thần-thần, phụ-phụ, tử-tử (vua phải ra vua, bề tôi phải ra bề tôi, cha ra cha, con ra con). Quan hệ với người khác: Khổng tử nêu ra vấn đề quân thầ n lúc đầu là quan hệ hai chiều, chiều lên và chiều xuống-> mỗi một bên phải thấy được nghĩa vụ của bên kia. Khổng tử nói quân xử thần dĩ lễ,thần xử quân dĩ trung có nghĩa là vua sai khiến bề tôi phải tuân theo lễ, bề tôi phải có trách nhiệm trung với vua. Nếu như vua đối xử không có lễ thì bề tôi không nhất thiết phải trung với vua. Mạnh tử nêu lên tư tưởng nếu như vua xem bề tôi như tay chân thì bề tôi coi vua như tim gan của mình. Nếu vua coi bề tôi như chó ngựa thì bề tôi coi vua như người dưng trong nước. Nếu vua coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi coi vua như kẻ thù. Vì vậ y trong các quan hệ con người Mạnh tử khái quát như sau: vua sai khiến bề tôi phải vâng lời Phụ từ tử hiếu cha mẹ hiền từ đối xử tốt với con cái thì con cái phải hiếu với cha mẹ. Huynh ái đệ kính anh chị yêu thương em thì em kính trọng anh chị Phu phụ hòa thê nhi chồng hiền hòa với vợ thì vợ phải có trách nhiệm phải thương yêu chồng. Vô tử tương kính mẹ chồng hiền hòa thì nàng dâu phải vâng lời. Khi giai cấp phong kiến thiết lập thành công chính quyền phong kiến trung ương tập quyền thì quan hệ nêu trên chỉ một chiều-> làm cho quan hệ nho giáo đi đến sắc diện chủ quan.
  15. Thời Hán nho Đổng Trọng Thư nêu lên tư tưởng tam cương và tam tòng. Trong ngũ luân thì chú trọng 3 quan hệ đầu (vua là rường cột quan lại, cha là rường cột của con, chồng là rường cột của vợ) => khẳng định quyền uy tuyệt đối của giai cấp thống trị. Đối với người xưa thì đây là vấ n đề lớn của xã hội. Tư tưởng tam cương và tam thường cho thấy niệm trọng nam khinh nữ thời bấy giờ (nhất nam viết hữu thập nữ viết vô). Trình Di đưa ra tư tưởng Quân xử thần tử thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong vong bất vong bất hiếu, ngặt tử tự tiểu, thất tiết tự đại. Khi Nho giáo đặt ra điều này gắ n con người với cộng đồng xã hội và xác định con người ta sống phải có trách nhiệm trong các quan hệ xã hội. Thế nhưng quan hệ nho giáo rất là nặng nề, con người ta sống lúc nào cũng thấy quan hệ, nghĩa vụ ràng buộc, lo lắng suốt cuộc đời hoàn thành nghĩa vụ, chỉ thầy xã hội mà không thấy cá nhân, chỉ thấy người khác mà không thấy mình, chỉ thấ y nghĩa vụ mà không thấy quyền lợi. Con người ta sống không có tự do, chỉ là sơi dây ràng buộc cương tỏa cá nhân, cá nhân không tự do phát triển cá tính. Chính vì thế mà người ta tìm cách thoát khỏi những quan hệ nho giáo để đến với quan niệm của các trường phái triết học khác. b.3 Đạo làm người: là việc làm của con người nhân luân cho phù hợp với xã hội. Quan niệm về con người càng về sau càng khác với thời kỳ nguyên thủy. Khổng tử trong sách Luậ n ngữ bàn đến hai vấn đề cơ bản là nhân và lễ. Nhân là ái nhân. Khổng tử nói rằng kỷ sở bất dục vật thi ư nhân nghĩa là điều gì mình muốn làm cho mình thì làm cho người, và điều gì mình không mu ốn làm cho mình thì đừng làm cho người. Lễ là qui tắc đạo đức, trật tự kỷ cương là cơ sở cho tư duy và hành động của con người. Ngoài ra Khổng tử còn bàn đến hai vấn đề lớn nữa là Trung và Hiếu. Trung là hết long với vua, hiếu là hết lòng với cha mẹ (phải có lòng thành kính). Mạnh tử cho rằng con người ta có 4 đạo làm người: long trắc ẩn là đầu mối của nhân, long tu hố là đầu mối của nghĩa, long từ nhường là đầu mối của nghĩa, long thị phi là đầu mối của trí->còn gọi là tứ đoan. Thời ký Hán nho cho rằng con người ta sống phải có cương thường, trung hiếu. Cương là tam cương, Thường là ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Như vậy khi nói cương thường trung hiếu gồm 7 yếu tố đạo đức. c. Quan hệ đào tạo giáo dục con người:  Đối tượng đào tạo: Ưu tiên đầu tiên là con em quan lại và địa chủ giàu có. Đây là thành phần tin cậ y để cầ m quyền sau này. Ngoài ra còn quan tâm đến người tài của giai cấp khác để bổ sung vào bộ máy cai trị sau này.  Mục tiêu của việc đào tạo: + Mục tiêu: đào tạo con người của giai cấp phong kiến nhằ m phục vụ cho giai cấp phong kiến. Đào tạo con người học đạo để hành đạo, từc là học các nguyên lý trong trường để ra làm quan => Có một số mẫu người là: kẻ sỹ, đại trượng phu, quân tử. - Kẻ sỹ: phải có ba tiêu chuẩn là học đạo hành đạo, đạo hành tàng (khi còn làm quan thì hành đạo, lúc thất thế thì ở ẩn. Nếu được trọng dụng thì lại ra làm quan), trung hiếu. Đây là người mẫu mực thi hành trung hiếu. - Đại trượng phu; ngoài có ba tiêu chuẩn trên còn thêm dũng (kiến nghĩa bất vi vô dũng giả). Ngoài ra còn thêm tiêu chuẩn nữa là phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng vi, uy vũ bất năng khuất.
  16. Quân tử là mẫu người tiêu biểu nhất. Quân tử ở đây là chỉ giai cấp thống trị, là người gương - mẫu về đạo đức lối sống và làm người. Là mẫu người thiêng liêng kính trọng nhất trong xã hội được thể hiện qua câu quân tử nhất ngôn. Phải đạt được tiêu chuẩn là: Chính trị: nếu lực chọn giữa nghĩa và lợi thì người quân tử dứt khoác chọn nghĩa. Khổng tử nói quân tử dụng mưu nghĩa, tiểu nhân dụng mưu lợi. Mạnh tử nói rằng nghĩa còn quí hơn cả mạ ng sống. Nhận thức mệnh trời: hiểu biết mệnh trời là tuân theo qui luật hành động tuân theo qui luật. Vì vậy Khổng tử nói rằng bất tri mệnh quân tử bất chi hành giả, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngủ thập tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuần, thất thập cổ lai hy. Khổng tử còn cho rằng quân tử tam húy: húy thiên mệnh, húy đại nhân, húy thánh nhân chi ngôn. Đạo làm người: người quân từ phải sống theo đạo, lấy đạo đối lại với sự giàu sang. Khổng tử nói ưu đạo bất ưu tài (tiền), ưu thực bất ưu vật. Người quân tử phải thực hiện ba điều hay còn gọi là đạo giả tam: nhân, trí, dũng. Vì nhân giả bất ưu (sống không hại ai ->không ưu phiền, lo lắng), trí giả bất hoặc (hiểu biết không nghi ngờ), dũng giả bất cập (có lòng can đả m). Người quân tử không nghĩ đến điều nhỏ, ăn không cầu no, ngủ không cầu yên, sẵn sàng chấp nhận khó khăn, phả i nhạy cả n trước cuộc sống, phải biết phát hiện ra khó khăn và tìm cách giải thoát. Cho nên người quân tử không bao giờ rơi vào đường cùng. Trong quan hệ với người khác người quân tử phải hòa nhi bất đồng, hòa nhập vào cuộc sống nhưng không bị hòa tan, quân tử vô sở tranh người quân tử không tranh giành với ai có tranh thì tranh giành sự hiểu biết. Tinh thần cá nhân: lúc nào cũng thoải mái không lo lắng ưu sầu (quân tử thái nhi bất kiêu). Đây là tiến bộ của nho giáo khi đưa ra mẫu người để mọi người vươn tới.  Nội dung đào đạo: không đào tạo kiến thức khoa học tự nhiên mà chỉ đào đạo con người ra làm quan, đào tạo đạo đức. Nội dung đào tạo giới hạn ba vấn đề: học đạ o, học văn, học sử gắ n bó mật thiết với nhau, trong đó học văn và học sử là phương tiện để học đạo-văn dĩ tại đạo Các tác phẩm là Tứ thư, Ngũ kinh. Tứ thư gồm Luận ngữ là cuốn sách ghi chép lời của Khổng tử nói với học trò; Mạnh tử là cuốn sách ghi chép lời của Mạnh tử nói với học trò; Đại học là cuốn sách học cách ra làm quan; Trung dung là cuốn sách ghi lại những cách sống ở đời. Đại học và Trung dung là hai thiên trong sách Lễ ký tách ra. Ngũ kinh gồm có Kinh thi là cuốn sách ghi chéo lạ i các bài ca dao cổ Trung quốc; Kinh thư là cuốn lịch sử cổ xưa nhất của Trung quốc ghi lại các triều đại từ nhà Chu trở về trước; Kinh lễ là tập tục nghi lễ; Kinh Xuân thu là cuốn sử của nước Lỗ từ thế kỷ thứ 8-5 TCN, Kinh dịch ghi ra các biến dịch của trời đất. Hệ thống kinh sử ngày xưa được chia làm bốn kỳ: kinh nghĩa là hỏi về nghĩa của kinh, thư phú là cách làm bài thơ, bắc sử là sử nước Lỗ, nhà Chu, văn cách đây là đề tài mà thí sinh chọn cho mình một vấ n đề để bình giả. Hệ thống thi cử ngày xưa có ba bậc: thi hương để chọn ra tú tài, thi hội chọn ra cử nhân và thi đình để chọn ra tiến sĩ.
nguon tai.lieu . vn