Xem mẫu

  1. I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta suốt trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Kế thừa và phát huy truyền thống đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã luôn luôn coi trọng củng cố và không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp lãnh đạo nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. 1. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc 1.1.Cơ sở lý luận Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở kế thừa, phát triển: • Truyền thống văn hóa dân tộc và nhân loại. • Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. 1.1.1. Truyền thống đoàn kết dân tộc Việt Nam Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là sự kế thừa và phát triển ở trình độ mới của chủ nghĩa yêu nước và truyền thống nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong mấy nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tôc. Tinh thần ấy đã tạo nên sức mạnh của cả dân tộc, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững. Đối với mỗi người Việt Nam, yêu nước –nhân nghĩa – đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên lẽ sống và tư duy chính trị. Chúng là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam. Truyền thống trên đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát huy trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc, giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc và từng bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển hóa những mặt tích cực những giá trị nhân bản của văn hóa phương Đông, tiêu biểu là: • Tư tưởng đại đồng của Nho giáo.
  2. • Tư tưởng tích cực của Phật giáo. Bên cạnh đó, tư tưởng này còn được hình thành trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của các trào lưu dân chủ phương Tây. 1.1.2. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử và những khẩu hiệu chiến lược: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”, “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhận được sự cần thiết phải tập hợp, đoàn kết lực lượng dân tộc, đoàn kết quốc tế để đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. 1.2. Cơ sở thực tiễn Tư tưởng HCM được hình thành trên sự tổng kết những kinh nghiệm của: • Phong trào cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. • Phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. 1.2.1. Thực tiễn phong trào CM Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX, là các thế hệ người Việt Nam đã liên tiếp đoàn kết cùng nhau đứng dậy chống ngoại xâm, mặc dù thất bại (do nhiều nguyên nhân chúng ta không đề cập ở đây) song đều nói lên truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc. Thực trạng bế tắc khủng hoảng của phong trào yêu nước chống Pháp, Người đã nhận thấy những nhà cách mạng tiền bối còn có nhầm lẫn, mơ hồ trong việc phân biệt bạn thù, trong việc tập hợp lực lượng…Vì vậy, đây chính là điểm xuất phát để HCM xác định: “Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng chúng ta”.
  3. 1.2.2. Thực tiễn phong trào cách mạng thế giới Từ năm 1911 đến năm 1941, Hồ Chí Minh đã đi hầu hết các châu lục, Người đã nhận thức được một sự thật: Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì họ chưa biết tập hơp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết … Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cùng với Lênin – người lãnh dạo thắng lợi cuộc cách mạng đó, đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặc quyết định trong việc tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu một cách thấu đáo con đường cuộc cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã đem lại cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý kinh nghiệm của Trung Quốc, Ấn Độ là hai nước đem lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học bổ ích về tập hợp lực lượng. Đó là đoàn kết các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái, các tôn giáo … nhằm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng như chủ trương " Liên Nga, thân cộng, ủng hộ công nông "; " Hợp tác Quốc - Cộng " của Tôn Trung Sơn... Từ đó Hồ Chí Minh đã làm tất cả từ tuyên truyền đến vận động, tổ chức nhằm xây dựng một chiến lược đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế để chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. 2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trên những quan điểm sau: Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là động lực chủ yếu là sức mạnh vĩ đại quyết định sự thành công của cách mạng. Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Người cho rằng: “ Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động
  4. phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng, bằng cách mạng vô sản”. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng ,có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhân thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến đại đoàn kết dân tộc. Trong các bài viết, bài nói Người đã sử dụng khoảng 2000 lần cụm từ “đoàn kết”,”đại đoàn kết”. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn quyết định thành công của cách mạng. Người thường khẳng định “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là điểm mẹ,điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”. “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công.” Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu,một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Tư tưởng đại đoàn kết của dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Năm 1951, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc nhân buổi ra mắt Đảng Lao Động Việt Nam: mục đích của Đảng Lao Động Việt Nam có thể gồm tám chữ là: “Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ quốc”. Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục đích,nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục đích nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản tân quần chúng nhân dân trong đấu tranh để tự giải phóng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Dân tộc Việt Nam được hiểu là tất cả mọi người dân Việt Nam đang sinh sống và làm ăn ở cả trong và ngoài nước, không phân biệt tôn giáo, già, trẻ, giàu, nghèo…
  5. Đại đoàn kết dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một mục tiêu chung. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Phải có lòng khoan dung độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu khuyết điểm, mặt tốt mặt xấu, cho nên cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng phần thiện dù là nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người đã lấy hình tượng một bàn tay có ngón ngắn ngón dài, nhưng tất cả đều thuộc một bàn tay để nói lên sự cần thiết của đại đoàn kết. Lòng khoan dung độ lượng không phải là một sách lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị. Đó là tư tưởng nhất quán được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời lầm lạc biết hối cải. Người tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà mà đoàn kết với họ”. Thứ tư , đoàn kết phải thể hiện bằng hành động. Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết không chỉ là chương trình kế hoạch, là chiến lược mà còn là hành động tích cực trong tổ chức, trong thái độ, trong chính sách cụ thể. Đoàn kết không phân biệt tôn giáo, không chia rẽ dân tộc, không phân cách giai cấp, tầng lớp. Phải có cách làm cho mỗi người dân ở những tầng lớp khác nhau ấy hiểu biết, tin yêu, quý mến nhau mà đem hết tài năng, công sức, tiền của cống hiến cho sự nghiệp chung. Đoàn kết phải vì lợi ích lâu dài, phải vì tình thân ái của dân tộc, vì lợi ích của quốc gia, vì sự tiến bộ của mỗi thành viên và của cả cộng đồng. Thứ năm, đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là: Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
  6. Tùy theo từng giai đoạn cách mạng, Đảng chủ trương thành lập mặt trận dân tộc thống nhất với tên gọi khác nhau. Đảng lãnh đạo mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách mặt trận đúng đắn cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước của dân tộc ta. Muốn lãnh đạo mặt trận lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc, trong Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết của toàn dân. Thứ sáu, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh khẳng định: “Yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa Quốc Tế trong sáng của giai cấp công nhân lãnh đạo”. Người luôn luôn khẳng định Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Người đã vận dụng sáng tạo, thành công tư tưởng này trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngay thời kỳ cách mạng gặp khó khăn nhất cũng như khi chống thực dân Pháp, đánh đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của anh em bầu bạn, của loài người tiến bộ khắp thế giới. Theo Người, vì cách mạng Việt Nam muốn thành công phải kết hợp với phong trào cách mạng thế giới như hai cánh của con chim đều vỗ cùng một nhịp. II . Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 1. Hồ Chí Minh với nhận thức về sức mạnh dân tộc Sức mạnh dân tộc (nội lực) Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta, quân đội ta và nhân dân ta đoàn kết một lòng, muôn người như một từ đó đã huy động tới mức cao nhất sức người, sức của phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Cả nước cùng ra trận với khí thế hào hùng của lịch sử bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước trên nền tảng văn hóa nhân nghĩa, khoan hòa, trí dũng, với ý chí không có gì quí hơn độc lập tự do. Tất cả mọi giới, mọi tầng lớp, mọi lực lượng từ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đến gái, trai, già, trẻ; từ nông thôn, thành thị đến miền
  7. xuôi, miền ngược đều tham gia giết giặc cứu nước; từ hai bàn tay không của bà mẹ, tầm vông vạt nhọn, cuốc thuổng, giáo mác, chông tre, súng kíp, bom 3 càng đến con ong, con rắn cũng trở thành vũ khí tiêu diệt kẻ thù; từ mặt đất nóng bỏng đạn bom cày xới, dưới địa đạo khắc nghiệt trong lòng đất, trên mặt nước bưng biền đến bầu trời của đất nước ta, đâu đâu cũng là trận địa vùi xác quân thù. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh dân tộc chính là sức mạnh của: chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết cao, ý chí đấu tranh anh hùng, bất khuất cho độc lập tự do và ý thức tự lực tự cường. Đây chính là đỉnh cao cuả chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Điều này được thể hiện như sau: • Truyền thống yêu nước là hạt nhân của truyền thống dân tộc, nó không phải chỉ là một tình cảm tự nhiên bẩm sinh mà được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước.Với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước trở thành sức mạnh và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, một thứ đạo lý, một lẽ sống cho mọi người dân, cũng trở thành tiêu chí cao nhất để đánh giá một con người. Hồ Chí Minh đã nâng lòng yêu nước lên trở thành lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa yêu nước gắn liền với đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp nhuần nhuyễn của việc yêu quý độc lập dân tộc, tự do dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Do đó, lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành sức mạnh to lớn của dân tộc ta. • Sức mạnh của dân tộc còn được thể hiện ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường. Bằng chứng là nó làm cho dân tộc Việt Nam không bị đồng hoá trong 1000 năm Bắc thuộc, không bị diệt vong dưới ách thống trị của thực dân phương Tây. • Tinh thần, ý chí độc lập tự chủ, tự cường và lòng yêu nước sở dĩ phát huy được sức mạnh to lớn của nó vì đã kết liền nhân dân thành 1 khối vững chắc không gì lay chuyển được. Đó là đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân. Tổng hợp các điều trên, Hồ Chí Minh làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam. Đó là sức mạnh của thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và hiện tại, sức mạnh của sự thông minh và lòng dũng cảm. Đó là sức mạnh dân tộc. 2. Hồ Chí Minh nhận thức về sức mạnh của thời đại
  8. Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu là chiến thắng của cách mạng tháng Mười Ngai vĩ đại. Hồ Chí Minh nhận thức về sức mạnh thời đại và tính tất yếu của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại được hình thành từng bước từ cảm tính đến lý tính với mục tiêu giải phóng dân tộc, phát triển đất nước trong dòng thác chung của thời đại. Sức mạnh thời đại thể hiện ở những điều sau: • Sức mạnh của nhân dân các nước thuộc địa trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, sức mạnh này được nhân lên nhiều lần vì nó gắn liền với cuộc cách mạng vô sản trên toàn thế giới trong thời đại mới. • Sức mạnh của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. • Lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. • Kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười Nga. • Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa học kĩ thuật – một động lực phát triển xã hội. 3.Tính tât yếu và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. a) Tính tất yếu: Về mặt lý luận Lịch sử phát triển của nhân loại chỉ ra rằng,qúa trình phát triển của mình, các cộng đồng, các nhóm, các dân tộc có cùng lợi ích bao giờ cũng có sự kết hợp lại với nhau. Sự kết hợp này ngày càng tăng. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, cách mạng muốn thắng lợi phải biết kết hợp các yếu tố khách quan và chủ quan, trong nước và ngoài nước, dân tộc và thời đại. CNTB nhất là trong giai đoạn ĐQCN đã tạo ra những mâu thuẫn và cơ sở cho sự liên kết quốc tế. Về mặt thực tiễn:
  9. - Người khảo sát thực tiễn của chế độ thuộc địa, sự cai trị và bóc lột tàn bạo, độc ác của Pháp tại Việt Nam, tại Đông Dương. -Người còn khảo sát ở cả bốn châu lục và nhận ra muốn giải phóng dân tộc mình cần đoàn kết các dân tộc có cùn - Các nước đế quốc liên kết chặt chẽ với nhau để đàn áp thuộc địa, chia để trị. - Các nước đế quốc liên kết chặt chẽ với nhau để đàn áp thuộc địa, chia để trị. - Sự hình thành hệ thống CNXH làm nên sức mạnh thời đại từ nửa cuối TK XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ phát triển mạnh mẽ. Đây là yếu tố sức mạnh thời đại cần tận dụng. Như vậy, sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong tiến trình cách mạng Việt Nam là một tất yếu khách quan. b) Nội dung của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. -Đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong sự gắn bó với cách mạng vô sản trên thế giới Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã làm thay đổi trật tự thế giới theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử, mở ra con đường phát triển mới cho các quốc gia, dân tộc theo xu hướng độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Những biến cố ở Liên Xô và Đông Âu trong thập niên cuối của thế kỷ XX tuy đã làm cho phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào thoái trào, song Cách mạng Tháng Mười vẫn giữ nguyên giá trị "vạch thời đại", vẫn là niềm cổ vũ cho tất cả mọi người có lương tri và khát vọng vì một thế giới tốt đẹp hơn.Cách mạng Tháng Mười khẳng định trong hiện thực sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thế giới: đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc đã phát huy lòng yêu nước truyền thống và nâng thành lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lòng yêu nước phát huy được sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh
  10. đã làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam, đó là sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và trong cuộc đấu tranh hiện tại, sức mạnh của sự thông minh và dũng cảm, của lòng tin chân chính không gì lay chuyển. Sức mạnh ấy bền vững và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thời đại của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Cuộc cách mạng này đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử. Theo Hồ Chí Minh sức mạnh thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới, của nhân dân lao động thế giới. Trong quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy phải dựa vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng thời phải khai thác sức mạnh của thời đại. Những nội dung, nguyên tắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. -Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa quốc tế yêu nước với chủ nghĩa quốc tế yêu nước “Bốn phương vô sản đều là anh em” - đó là nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần quốc tế vô sản. Tinh thần này bao gồm tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. Tinh thần này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun đắp bằng các hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Theo Bác Hồ, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng, bá quyền. Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến sự đổ vỡ của một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung. Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn. Không phải đối với bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được
  11. tinh thần quốc tế có hay không, trong sáng hay không trong sáng. Nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Chủ trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “ Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sắn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết vừa mang tính khoa học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. -Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh coi nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, nó chỉ phát huy sức mạnh thông qua nguồn lực bên trong. Người nêu cao khẩu hiệu “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mạnh là chính”; “Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình”; “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ
  12. ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Muốn tranh thủ sức mạnh của thời đại phải có đường lối đúng đắn, phát huy độc lập tự chủ, kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại: hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trên dọc hành trình tìm lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc, ấm no cho đồng bào, dù ở nơi đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng luôn tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ về mọi mặt của nhân dân thế giới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Chính sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn cả về vật vất lẫn tinh thần của bè bạn quốc tế là một nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Hồ Chí Minh đã thực hiện nhất quán đường lối độc lập tự chủ, vì vậy mà đã tranh thủ được sự giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc, khi hai nước có bất đồng sâu sắc, góp phần vào sự hàn gắn sự rạn nứt trong phong trào cộng sản quốc tế. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình, “Phải coi cuộc đấu tranh của bạn cũng như cuộc đấu tranh của ta..., giúp bạn là tự giúp mình”. Rời Tổ quốc với chí hướng “… muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào tôi sẽ trở về cứu giúp đồng bào ta”, Nguyễn Tất Thành đã thực hiện cuộc hành trình qua nhiều châu lục khác nhau, và trên quãng đường dài đó, Người đã chứng kiến cảnh áp bức, bóc lột của thực dân, đế quốc và tận mắt thấy những lầm than cơ cực mà người dân lao động nghèo khổ gặp phải, từ đó Người đi đến kết luận: “Dù màu da có khác nhau trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Kết luận này là sự khởi đầu tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, để từ đó về sau, trong mọi hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh luôn kêu gọi nhân dân thế giới hãy đoàn kết lại để đấu tranh cho bình đẳng, tự do, bác ái; ủng hộ, giúp đỡ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa trong đó có nhân dân Việt Nam. Ngoài việc kêu gọi toàn dân đoàn kết, nêu cao ý chí tự lực tự cường, “hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, Hồ Chí Minh đã thực hiện chiến lược tranh thủ đồng minh, thêm bạn cho
  13. cách mạng Việt Nam để giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Và thực tế lịch sử đã chứng minh, chính sự ủng hộ về tinh thần của lực lượng dân chủ thế giới chống phát xít đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Bằng những lời lẽ có lý có tình, thông qua nhiều phương tiện khác nhau, những thiện chí của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã đến được với nhân dân yêu chuộng hòa bình Pháp, qua đó họ hiểu được dã tâm của những kẻ xâm lược trên đất Việt Nam và họ đứng lên đấu tranh ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Trong cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, Hồ Chí Minh đã nhiệt liệt hoan nghênh phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam ở Pháp và chúc nhân dân Pháp thắng lợi. Trong chiến lược tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các nước châu Á, Người khẳng định: “…thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em…”. Xuất phát từ tư tưởng đó, tháng 1 năm 1947, Hồ Chí Minh đã gửi điện cho các vị lãnh đạo châu Á, kêu gọi họ ủng hộ và giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Người viết: “Các anh em châu Á hãy giúp anh em Việt Nam trong cuộc đấu tranh cho độc lập và thống nhất”. Tại hội nghị Liên Á và ở nhiều hội nghị khác, các nước trong khu vực đã bày tỏ tình cảm nồng nhiệt đối với Việt Nam. Đặc biệt, thanh niên và nhân dân Ấn Độ, Miến Điện đã có phong trào rầm rộ quyên góp tiền, thuốc men và đồ dùng y tế ủng hộ Việt Nam, thậm chí họ còn xin tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu vì tình đoàn kết quốc tế. Là những người đồng chí, người bạn thân thiết của nhân dân Trung Quốc, sau khi Trung Quốc giành lại sự thống nhất đất nước, ngày 15 tháng 1 năm 1950, Chính phủ Việt Nam dân cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công nhận Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và tỏ ý sẵn sàng thiết lập đặt quan hệ ngoại giao và trao đổi đại sứ. Đáp lại tình cảm của Chính phủ và nhân dân Việt Nam, ngày 18 tháng 1 năm 1950, Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ với Việt Nam. Cũng trong năm này, Liên Xô và các nước dân chủ khác như Triều Tiên, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Rumani, Ba Lan, Hunggari,
  14. Bunggari, Anbani và Mông Cổ lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta. Thắng lợi ngoại giao trên đây đã nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế, phá thế bao vây của bọn đế quốc đối với nước ta. Đánh giá vấn đề này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Mấy năm kháng chiến đã đưa lại cho nước ta một cuộc thắng lợi to nhất trong lịch sử Việt Nam, tức là hai nước lớn nhất thế giới Liên Xô và Trung Quốc dân chủ, và các nước dân chủ mới đã thừa nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một nước ngang bằng trong đại gia đình dân chủ thế giới. Nghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và nhập vào khối 800 triệu nhân dân chống đế quốc. Chắc rằng cuộc thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự sau này”. Với nhân dân Mỹ, Hồ Chí Minh có nhiều sách lược quan trọng. Thực hiện phương châm đánh vào lòng người, Hồ Chí Minh đã tích cực thúc đẩy phong trào quần chúng Mỹ chống chiến tranh ở Việt Nam. Trong thư gửi nhân dân Mỹ tháng 1 năm 1962, Hồ Chí Minh nói rõ: “Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù oán gì nhau… nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là một nước đầu tiên phất cờ chống chủ nghĩa thực dân và chúng tôi mong muốn có quan hệ hữu nghị với các bạn”. “Nhân dân Việt Nam biết ơn những tổ chức công nhân, thanh niên, sinh viên, phụ nữ và những nhân sĩ trí thức, nghị sĩ, linh mục tiến bộ ở Mỹ đã và đang dũng cảm lên tiếng, biểu tình vạch trần chính sách xâm lược đầy tội ác của Chính phủ Mỹ và ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của các lực lượng yêu nước ở miền Nam Việt Nam… ”. Song song với việc tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ Mỹ, Hồ Chí Minh còn tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc. Trên tinh thần anh em vô sản, những năm kháng chiến chống Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã cử nhiều đoàn chuyên gia, cố vấn sang giúp cách mạng Việt Nam. Để tỏ lòng đoàn kết chiến đấu với nhân dân Việt Nam, lãnh tụ Cu Ba – Phiđen Caxtơrô từng phát biểu, “vì nhân dân Việt Nam nhân dân Cu Ba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Những hành động ngoại giao trên đây của Hồ Chí Minh đã thể hiện tầm nhìn và tài năng xuất chúng của Hồ Chí Minh trong chiến lược tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bè bạn thế giới
  15. cho cách mạng Việt Nam. Đối tượng mà Hồ Chí Minh hướng tới là tất cả những ai có thiện chí với cách mạng Việt Nam, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Đó là chính sách ngoại giao mềm dẻo, thêm bạn- bớt thù, một nét đặc sắc trong tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh. Đối với các dân tộc Đông Dương, vốn cùng uống chung một dòng nước Mê Kông, lại có nhiều điểm tương đồng về địa lý, lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là cùng có chung một kẻ thù xâm lược nên Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng tình đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định trong Diễn văn khai mạc Đại hội Đảng III Đảng Lao động Việt Nam tháng 9 năm 1960: “Trong cuộc đấu tranh ở Đông Dương, nhân dân Việt Nam ta kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Lào hiện nay nhằm chống đế quốc Mỹ, đưa nước Lào lên con đường hòa hợp dân tộc, độc lập thống nhất và hòa bình trung lập. Chúng ta thành tâm mong rằng quan hệ hữu nghị giữa nước ta và các nước láng giềng, trước hết là Campuchia và Lào được xây dựng và phát triển tốt”. Tỏ lòng biết ơn sâu sắc sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân Việt Nam, trong khả năng của mình, nhân dân Lào và Campuchia cũng luôn làm hết sức mình ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Khi con đường Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh bị đế quốc Mỹ đánh phá, cô lập ở phía Đông, Đảng, Nhà nước Lào đã đồng ý cho Việt Nam lật cánh sang phía Tây chạy trên đất Lào. Nhờ sự ủng hộ chí tình, chí nghĩa của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, đường Trường Sơn đã nhanh chóng vươn dài tới các chiến trường, cung cấp nhân tài, vật lực cho miền Nam đánh Mỹ, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam. -Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng “làm bạn với tất cả các nước dân chủ” Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc, sẽ khiếm khuyết nếu chúng ta chỉ đề cập đến đoàn kết trong khái niệm dân tộc – tộc người (ethnic) trong phạm vi nội bộ quốc gia mà không đề cập đến tư tưởng của người là đoàn kết dân tộc - quốc gia (nation) với các quốc gia khác trên thế giới và với các Việt kiều, những người có dòng máu Việt Nam nhưng do hoàn cảnh cụ thể nên sinh sống ở nước ngoài, mang quốc tịch của một nước cụ thể trên thế giới.
  16. Đoàn kết dân tộc trên tầm quốc tế của Hồ Chí Minh được người xuất phát từ luận điểm coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người ý thức sâu sắc rằng, cách mạng trong nước sẽ khó thành công nếu không có sự đồng tình, ủng hộ của cách mạng và nhân dân các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Đó cũng chính là điểm mạnh và khác biệt giữa Hồ Chí Minh với các chí sĩ yêu nước tiền bối. Người đã khẳng định: “Chính vì biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn đưa giai cấp công nhân và nhân dân nước ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày nay”. Shingo Shibata, nhà nghiên cứu Nhật Bản đã nhận xét: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đã phát hiện quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình và tất cả mọi dân tộc đều có thể và cần phải thực hiện nền độc lập tự chủ”. Khi nghiên cứu về tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, có ý kiến cho rằng: “Suy đến cùng, có đại đoàn kết được hay không, đại đoàn kết đến mức nào tuỳ thuộc vào việc nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích phức tạp, chằng chéo giữa: cá nhân - tập thể; gia đình - xã hội; bộ phận - toàn thể; giai cấp - dân tộc; quốc gia - quốc tế”. Trong các “cặp quan hệ” trên của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh chúng ta thấy không thể thiếu cặp “quốc gia - quốc tế”. Đó không chỉ là nội hàm trong tư tưởng đại đoàn kết nói chung của Hồ Chí Minh mà còn là trong tư tưởng đoàn kết các dân tộc của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc trên phạm vi quốc tế thể hiện rất rõ phạm vi mức độ, quy mô. Với từng đối tượng quốc tế, Hồ Chí Minh vừa có thái độ chung, vừa có thái độ phân biệt riêng theo “cấp độ ngoại giao”, theo giá trị thiết thực vì quyền lợi của dân tộc Việt Nam và quyền lợi của các dân tộc trên thế giới vì hoà bình, hữu nghị và phát triển của các dân tộc; vì quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người và của các quốc gia. Từ giác độ đó, chúng ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc trên phạm vi quốc tế có những biểu hiện trên những khía cạnh sau:
  17. • Đoàn kết với các quốc gia, dân tộc láng giềng: Người Việt Nam ta có câu “bán anh em xa mua láng giềng gần”, đó là một thái độ sống, một triết lý nhân văn trong văn hoá ứng xử có truyền thống lâu đời của dân tộc. Hồ Chí Minh trên bình diện văn hoá và tầm nhìn chính trị đã ý thức sâu sắc và thực hiện có hiệu quả tốt truyền thống đó trong đặt nền móng và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với nhân dân Lào, Campuchia, Trung Quốc, tạo nên thế trận đặc biệt và làm nên hiệu quả cao trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân ta. Thương nhau mấy núi cũng trèo, Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Việt – Lào hai nước chúng ta, Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long. (Chủ tịch Hồ Chí Minh với các chính khách quốc tế – NXB Thông tấn, 2006). • Đoàn kết với các quốc gia Đông Nam Á, châu Á: Đối với các quốc gia khu vực Đông Nam Á, Hồ Chí Minh luôn luôn quý trọng tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhân dân ta trong kháng chiến chống ngoại xâm, bày tỏ tình hữu nghị và biết ơn sâu sắc, chân thành. Chính vì lẽ đó mà các nước Đông Nam Á luôn bên cạnh nhân dân và chính phủ Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ, tạo nên hậu thuẫn, sức mạnh tinh thần và vật chất quan trọng góp phần làm nên thắng lợi chống ngoại xâm của dân tộc ta. Người phát biểu: “Hoà bình trở lại Việt Nam, chúng tôi sẽ thắt chặt tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Pháp, chúng tôi sẽ đoàn kết chặt chẽ với hai nước Khơme, Lào và các nước Đông - Nam Á để góp phần vào sự nghiệp giữ gìn hoà bình châu Á và hoà bình thế giới”. Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh kêu gọi “anh em dân tộc châu Á” thấu rõ sự hy sinh của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh, để ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến. Trong Lời kêu gọi gửi nhân dân thế giới, Hồ Chí Minh viết: “Hỡi anh em dân tộc châu Á! Gần hai mươi năm trường, thực dân Pháp đang dày xéo nhân dân Việt Nam, gần hai mươi năm trường nhân dân Việt Nam đang hy sinh
  18. tranh đấu.Việt Nam là một bộ phận trong đại gia đình châu Á. Tranh đấu cho tự do độc lập của Việt Nam tức là tranh đấu cho tự do độc lập của đại gia đình châu Á. Trước kia, anh em đã đồng tình với chúng tôi. Từ đây mong anh em càng ủng hộ nữa. Với sự đồng tình và ủng hộ của anh em, cuộc kháng chiến cứu quốc của Việt Nam nhất định thắng lợi”. Hồ Chí Minh dùng thuật ngữ “anh em dân tộc châu Á”, “đại gia đình châu Á” và kêu gọi “sự đồng tình” nhằm thực hiên mục tiêu đoàn kết với các nước gần gũi địa lý và văn hoá tạo nên sức mạnh tổng hợp của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Và cuối Lời kêu gọi trên, Người viết: “Các dân tộc châu Á đoàn kết muôn năm!”. • Đoàn kết với các tổ chức, quốc gia trên thế giới Đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế phải gắn liền với độc lập, tự chủ tự cường. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định cách mạng Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với các trào lưu và lực lượng tiến bộ trên thế giới, việc tăng cường các mối liên hệ và hợp tác quốc tế là một yếu tố giúp ta thành công trong kháng chiến cũng như trong xây dựng đất nước. Sự đoàn kết ấy nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Sự đoàn kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế. Việt Nam đang ngày càng mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế đồng thời với phát huy bản sắc dân tộc. Với chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam đã mở rộng hợp tác giao lưu nhiều mặt với các nước, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong đoàn kết hợp tác quốc tế luôn chú trọng lợi ích của nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mình đã hưởng cái hay của người thì phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nêu ra ý tưởng hợp tác cùng có lợi với tất cả các nước.Ngay những năm đầu khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, Người đã khẳng định Việt Nam mong muốn thực thi chính sách mở cửa và hợp tác
  19. trong mọi lĩnh vực, đón nhận đầu tư nước ngoài; mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế; hoan nghênh đầu tư nước ngoài để xây dựng lại Việt Nam và để tham gia “điều hòa kinh tế thế giới”. Kế thừa và phát huy tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thời kỳ mới của cách mạng, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục tăng cường tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hóa đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và thế giới. • Đoàn kết với kiều bào: Sinh thời Bác Hồ luôn dành cho kiều bào sự quan tâm đặc biệt. Đặc biệt vì, kiều bào - những người con yêu của dân tộc đang phải sống xa quê hương, đất nước đều là con Hồng cháu Lạc, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Đặc biệt vì, dù xa cách bao lâu, dù ở đâu, làm gì, dù khó khăn, gian khổ đến đâu... kiều bào vẫn luôn luôn hướng về Tổ quốc, mong được trở về, góp phần tham gia xây dựng đất nước. Chính vì đặc biệt nên sự quan tâm của Bác Hồ đối với kiều bào đã đặt cơ sở cho việc hình thành chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với kiều bào nửa thế kỷ qua. Trong những năm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn "nhớ đến kiều bào ở hải ngoại đã ra sức hy sinh phấn đấu, dù cực khổ bao nhiêu cũng một lòng trung thành với Tổ quốc". Người thường xuyên gửi thư, điện thăm hỏi và động viên kiều bào ở nước ngoài phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau, thi đua học hỏi và giúp nhau tiến bộ, luôn một lòng ủng hộ Tổ quốc, đồng thời mở rộng tình thân thiện giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới...Để giúp đỡ kiều bào, Người nhắc nhở các cán bộ làm công tác ngoại giao ở nước ngoài: từ lời nói đến việc làm, bất kỳ việc to hay nhỏ đều phải “đem tình thân ái của Tổ quốc
  20. cho kiều bào, để giúp đỡ họ, để tuyên truyền cho thanh niên và cho cả dân tộc Việt Nam". Một trong những mong muốn của kiều bào là được trở về quê hương, tham gia xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng và Chính phủ tạo mọi điều kiện thuận lợi để đón tiếp kiều bào về nước. Những năm sau đó, Người đã dành nhiều thời gian đến thăm các gia đình kiều bào mới về nước, động viên họ cố gắng vượt qua những khó khăn, trở ngại, nhanh chóng ổn định cuộc sống mới. Người theo dõi sát sao từng bước đi, từng sự cố gắng và mỗi thành tích của kiều bào, kịp thời khen thưởng những gương "người tốt, việc tốt". Sự gần gũi, thân mật trong những lần gặp gỡ, sự ân cần, chu đáo trong những lời chỉ bảo, dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm xúc động lòng người, làm cho kiều bào càng nhận rõ và ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước, cổ vũ kiều bào thi đua phấn đấu, cùng nhau góp sức vào sự nghiệp chung của cả dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, kế thừa và phát triển tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và thực hiện lời dạy của Bác Hồ: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Con Hồng cháu Lạc phải thương nhau cùng. Đảng và Nhà nước ta luôn coi kiều bào là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước; đồng thời, mong muốn, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng đất nước... Như vậy, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế, từ niềm tin vào sức mạnh của dân tộc đi đến nhận thức đầy đủ về sức mạnh của thời đại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam mà còn là chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản quốc tế, lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới.
nguon tai.lieu . vn