Xem mẫu
- Giảng Viên : Mai Hiền Lê
Nhóm 14 & Đề Tài:
Danh
sách thành viên:
Vũ Đình Thắng 20807048
Lê Thị Lệ Thu 20807056
Trần Mỹ Thu 20807089
Trần Hoàng Thành 20807084
Phạm Thiết Thật 20807015
Nguyễn Văn Thịnh 20807024
- Võ Hoàng Quân 20807011
Lời nói đầu:
Với thế hệ trẻ ngày nay có lẽ họ chỉ biết rằng trầu
cau chỉ xuất hiện trong đám hỏi, đám cưới, lễ hội và
họ cho rằng trầu cau là việc của mẹ cha, chuyện an
trầu là thú vui của người già mà ít ai biết được rằng:
Trầu cau xuất hiện trong suốt tất cả chặn đường của
con người. Từ miếng trầu trong lễ cúng mụ khi đầy
cử đầy tháng, đến miếng trầu nhập môn thầy đồ, rồi
khi cồng danh thành đạt thì có miếng trầu khao xóm,
khao làng. Từ miếng trầu trong lễ chạm ngõ đến
miếng trầu trong lễ thành hôn. Khi từ giả cuộc đời thì
có miếng trầu cúng tổ tiên.
Nhưng đôi trai gái yêu nhau họ thường tặng nhau
những miếng trầu do chính tay họ tên để nói lên tình
yêu của họ. Chính miếng trầu ấy cũng xuất hiện trong
suốt cuộc tình duyên của họ. từ lúc làm quen đến khi
nên nghĩa phu thê. Và chúng tôi gọi đó là Miếng
trầu trong tình yêu đôi lứa hay Trầu cau
trong tình yêu đôi lứa
- Tại sao lại là trầu cau?
Một câu hỏi lớn đặt ra là tại sao lại là trầu cau trong tình
yêu đôi lứa mà không là một thứ gì khác?
Để trả lời cho câu hỏi này ta phải nhìn lại hai khía cạnh:
Phong tục, quan niệm của người Việt xưa và Sự tích Trầu
cau
c Phong tục, quan niệm:
Trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam,
hình ảnh miếng trầu đã trở nên hết sức quen thuộc, gần gũi
và mời trầu, ăn trầu là một phong tục phổ biến trong cuộc
sống thường ngày, đặc biệt là trong các lễ cưới hỏi. Trầu
cau luôn tượng trưng cho tình yêu thủy chung, thắm nồng và
hạnh phúc bền chặt của lứa đôi.
Trầu cau gắn bó suốt cả chặn đường nhân duyên của đôi
trai gái: khi mới gặp nhau họ trao cho nhau những tơi trầu
để nói thay nỗi long của mình. Khi kết hôn thành phu thê
miếng trầu lại là thông điệp như muốn nhắc họ hãy sống
với nhau bằng một tình yêu thuỷ chung sắc son, hãy say
nhau như say trầu.
Trầu cau là thông điệp của đôi tình nhân, và qua miếng trầu
mà họ trao cho nhau cũng nói lên tính nết của người con gái.
Người xưa cũng quan niệm người con gái lớn mà không biết
têm trầu là người con gái “bỏ đi”. Và vì thế mà trầu cau
cũng nói lên nề nếp gia phong của một gia đình
- Để giải thích cho lý do vì sao mà trầu cau lại tương trưng
cho long thủy chung sắc son, tình yêu nồng thắm và cũng để
giải thích thêm cho nguyên nhân tại sao trầu cau lại là biểu
tương cho tình yêu đôi lứa ta hãy nhìn lại sự tích trầu cau.
ầ Sự tích trầu cau:
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai
hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người
ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em. Năm hai anh
em mười bảy mười tám tuổi thì cha mẹ đều chết cả. Hai
anh em vốn đã thương yêu ngau, nay gặp cảnh hiu quạnh,
lại càng yêu thương nhau hơn trước.
Không còn được cha dạy dỗ cho nữa, hai anh em đến xin
học ông đạo sĩ họ Lưu. Hai anh em học hành chăm chỉ lại
đứng đắn nên được thầy yêu như con. Thầy Lưu có một cô
con gái tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhan sắc tươi tắn,
con gái trong vùng không người nào sánh kịp.
Trông thấy hai anh em họ Cao vừa đẹp vừa hiền, người con
gái đem lòng yêu mến, muốn kén người anh làm chồng,
nhưng không biết người nào là anh, người nào là em.
Một hôm, nhân nhà nấu cháo, người con gái lấy một bát
cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy người em
nhường người anh ăn, người con gái mới nhận được ai là
anh, ai là em. Sau đó, người con gái nói với cha mẹ cho phép
mình lấy người anh làm chồng.
Từ khi người anh có vợ thì thương yêu giữa hai anh em
không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn, nhưng
người anh vô tình không để ý đến.
- Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, người
em vào nhà trước; chàng vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì
người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là chồng
mình, vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều
xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh cũng bước vào nhà. Từ đấy
người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ với
em hơn trước.
Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một
mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng
buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.
Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo
đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng
đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Đi đến một con suối rộng nước
sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ
bên bờ. Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo và cứ reo, át
cả tiếng khóc của chàng. Đêm mỗi lúc một khuya, sương
xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt
chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng
đá.
Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi
tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng,
chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc
đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua
được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào một tảng đá.
Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Sương vẫn
xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng
rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành
một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá.
Ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con
đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước
cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng
không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không
- cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu
nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó là em chồng.
Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc
của nàng. Đêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng
nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa đầy
nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu
nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành
mọc bên tảng đá.
Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương
xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem
chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo
thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với
nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay. Nhai thử, thấy thơm
ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra
sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây
dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung
cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ.
- Chứng Minh Trầu Cau Xuất Hiện Trong
Tình Yêu Đôi Lứa
Để chứng minh cho điều này chúng tôi dựa vào Ca
Dao, và Tục Nhuộm Răng đen để làm đỏm, làm đẹp,
làm dáng của người xưa
Chúng tôi dựa vào Ca Dao để chứng minh là vì ca dao
là những câu hát thể hiện nổi lòng, tình cản tâm tư
mà người xưa muốn gửi gắm. Dựa vào Tục Nhuộm
Răng Đen là vì đã là một phong tục thì phong tục ấy
được lưu truyền qua nhiều đời, thế hệ và có nguyên
nhân, lý do riêng.
n Những câu Ca Dao:
Chúng tôi kể một câu chuyện có lồng ghép nhưng câu ca dao
vào để cho mọi người ở đây có thể thấy trầu cau xuất hiện
trong tình yêu đôi lứa một cách rỏ ràng hơn
Vào một buổi sáng tinh mơ, có một chàng trai và một cô gái
gặp nhau trong một hoàn cảnh thật thơ mộng và họ đã trò
chuyện với nhau:
- “Sáng ngày em đi hái dâu
Em gặp anh ấy ngồi câu thạch bàn
Và anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô đã vội vàng đi đâu
Thưa rằng em đi hái dâu
Và anh mở túi đưa trầu mời ăn
Thưa rằng bác mẹ em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”
Cô gái vốn con nhà nền nếp, trọng gia phong khuôn phép
nên chẳng dễ nhận trầu ngay. Và hơn nữa, nhận trầu là
nhận lấy một sự ràng buộc nhất định về tình cảm, trong khi
đây mới là buổi mới làm quen, cô chưa có nhiều hiểu biết
về chàng trai nên cô thận trọng, khéo léo từ chối là lẽ đương
nhiên. Nhưng đó lại chính là cơ hội để cho chàng trai giới
thiệu về miếng trầu của mình:
“Trầu này trầu quế trầu hồi
Trầu loan trầu phượng, trầu tôi trầu mình
Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình, trầu ta
Trầu này têm tối hôm qua
Trầu cha, trầu mẹ đem ra mời nàng
Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa, không thuốc sao nàng không ăn?
Hay nàng chê khó, chê khăn
Xin nàng đứng lại mà ăn trầu này”
Đây quả là miếng trầu “đặc biệt” được đưa ra mời trong
một thời điểm “đặc biệt”. Nó hội tụ tất cả những gì đẹp
đẽ, sang trọng nhất bởi miếng trầu đó được têm bằng tấm
lòng chân thành, tình cảm trong sáng của chàng trai. Cô gái
biết được lai lịch, giá trị của miếng trầu mà qua đó biết
- được lai lịch, giá trị của người mời trầu. Lời mời trầu của
chàng trai rất tình tứ và có duyên khiến cô gái cũng dần phải
xiêu lòng. Nhưng chẳng lẽ lại đồng ý ngay! Vì vậy, cô đành
tỏ thái độ lững lờ nửa vời, cũng là để “báo hiệu” cho chàng
trai:
“Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn”
Được lời như cởi tấm lòng, chàng trai tiến tới khẳng định
một lần nữa giá trị của miếng trầu và ngầm ý bảo với cô
gái rằng việc mời trầu, nhận trầu là hoàn toàn tự nguyện và
chàng luôn tôn trọng ý kiến của cô:
“Trầu này têm những vôi Tàu
Giữa thêm cát cánh hai đầu quế cay
Trầu này ăn thật là say
Dù mặn dù nhạt dù cay dù nồng
Dù chẳng nên nghĩa vợ chồng
Xơi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương”
Sau buổi làm quen đó, hai người dần có cảm tình với nhau
và tình yêu bắt đầu chớm nở. Để đến khi chàng trai sang
nhà chơi thì cô gái đã có thể chủ động mời trầu:
“Ra vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu cho anh xơi trầu”
Cau bổ làm sáu là loại cau vừa đủ độ chín, không non
cũng không già. Qua việc mời trầu này, cô gái đã kín đáo bày
tỏ thái độ ưng thuận trước chàng trai. Và ngọn lửa tình yêu
- nhen lên đã giúp cô gái vượt qua những ràng buộc gò bó của
lễ giáo phong kiến để chủ động ướm hỏi chàng trai:
“Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em vun ké dây trầu một bên
Chừng nào trầu nọ bén lên
Cau kia bén trái lập nên cửa nhà”
Và đôi khi cô gái cũng không kém phần bạo dạn, tinh
nghịch:
“Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm…”
Được cô gái “mở đường chỉ lối”, chàng trai sung sướng
như mở cờ trong bụng, nói thẳng ước muốn của mình mà
không cần e ngại:
“Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên”
Tình yêu đã khiến cho cuộc đời của đôi lứa trở nên đẹp
hơn và giúp họ lạc quan, càng tin tưởng vững chắc vào tình
yêu của mình. Trên cơ sở tình yêu đó, họ tiến tới hôn nhân
“trúc mai sum họp một nhà”. Chỉ có tình yêu chân thành,
nồng thắm thì mới có thể giúp họ “một trăm chỗ lệch cũng
kê cho bằng”, thông cảm và vị tha cho nhau:
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không?
Hỏi là hỏi thế thôi chứ thực ra cô gái đã ngầm khẳng
định tình yêu của mình với chàng trai mà cô đã nguyện gắn
bó suốt đời. Tình yêu đó sẽ giúp họ vượt qua khó khăn, vất
vả để xây dựng hạnh phúc bền vững…
- Tục Nhuộm Răng Đen:
“Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua”
Trầu cau là vật phẩm của tình yêu lứa đôi, và khi
đang yêu ai cũng muốn mình luôn đẹp mãi trong mắt
người yêu nên họ luôn muốn làm đẹp cho bản than
mình từ tâm tính đến ngoại hình. Với người xưa,
người con gái đẹp phải là má hồng, răng đen. Và vì
thế mà tình yêu của họ đã gắn liền với tục nhuộm
răng.
Tục nhuộm răng được chia ra làm hai giai đoạn: Giai
đoạn nhuộm răng đỏ và giai đoạn nhuộm răng đen.
Ở giai đoạn nhuộm răng đỏ: Ta lấy bột nhựa cánh
kiến đỏ, lá trầu hòa vào rượu đun trong nồi đất đến
dẻo quánh lại. Lấy tàu lá dứa hoặc lá chuối hột cắt
thành mảnh nhỏ, quyệt len thuốc rồi ép vào răng
trước khi đi ngủ và để suốt đêm. Ở giao đoạn này
không ăn đồ nóng, thịt mỡ. Ở giai đoạn này nhuộm
- cho tới khi rang chuyển sang đỏ bong rồi mới chuyển
qua giai đoạn nhuộm răng đen.
Ở giai đoạn nhuộm răng đen: Ta lấy lá trầu không giã
với phèn xanh, vỏ quả bầu, vỏ lựu khô, quế chi, đinh
hương tán nhỏ, hoà vào một ít dấm hoặc rượu, trộn
với nếp quấy thành hồ. Lấy tàu lá dứa hoặc chuối
hột quyệt thuốc đắp mỗi đêm. Muốn hãm cho răng
lên màu ta có thể xúc miệng bằng nước cùi dừa.
Khoảng hơn một tháng người nhuộn sẽ có hàm răng
như ý. Người nhuộm muốn đẹp thì vài năm nhuộm
lại.
Với bao thăng trầm của lịch sử, với sự giao thoa của
các nền văn hóa bên ngoài nền văn hóa Việt đã có
nhiều biến đổi song trầu cau – hôm qua, hôm nay và
mãi mãi vẫn là vật phẩm đẹp trong tình yêu đôi lứa.
nguon tai.lieu . vn