Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ  BÀI THUYẾT TRÌNH Đề tài: TP.HCM, ngày 28-09-09
  2. Mục Lục I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm ............................................................................................. 3 1. Thế giới ................................................................................................................................... 3 2. Việt Nam ................................................................................................................................. 3 II- Tư tưởng cơ bản và nội dung của tác phẩm ........................................................................ 4 1. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm ............................................................................................... 4 2. Nội dung của tác phẩm ........................................................................................................... 5 a. Tư cách một người kách mệnh: .............................................................................................. 5 c. Ý nghĩa, bài học kinh nghiệm các cuộc cách mệnh đối với cách mệnh An Nam................ 21 III. Ý nghĩa của tác phẩm ........................................................................................................ 25
  3. I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm 1. Thế giới Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tiếp nối và phát triển những tư tưởng giải phóng con người của nhân loại. Nó đã trở thành vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Được học thuyết khoa học và cách mạng soi đường, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản như: Đảng xã hội - dân chủ Nga được thành lập (1903); Đảng Cộng sản Pháp được thành lập (1920); Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (1921)... Năm 1917, Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Cách mạng Tháng Mười Nga là bằng chứng khẳng định giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng báo hiệu thời kỳ đấu tranh giành thắng lợi của giai cấp vô sản thế giới bắt đầu. Năm 1919, Quốc tế III - Bộ Tham mưu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế được thành lập. Quốc tế III đã quan tâm đến cách mạng thuộc địa. Bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã tác động trực tiếp đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Đối với Nguyễn Ái Quốc, Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin là bước tiến nhảy vọt và dứt khoát trong nhận thức tư tưởng của Người. Người quyết định chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm hệ tư tưởng cứu nước. Như vậy, thời đại đã mở ra điều kiện mới - cả tư tưởng chính trị và cả tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở các nước. Chính thời đại cũng dẫn dắt phong trào cách mạng các dân tộc trên thế giới đi vào quỹ đạo chung của cách mạng vô sản. 2. Việt Nam Thực dân Pháp xâm lược nước ta biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. thực dân pháp thực hiện chính sách bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị, nô dịch về tinh thần. Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn cơ bản là: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và giữa giai cấp phong kiến Việt Nam với toàn thể nhân dân (chủ yếu là nông dân). Yêu cầu của lịch sử lúc này là phải giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó để đưa dân tộc tiến lên.
  4. Dưới ách thống trị của thực dân - phong kiến, đã có hàng trăm cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản, nhưng rút cuộc, đều không giải quyết nổi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra, nhân dân đang mong đợi là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân phong kiến. Phong trào đấu tranh đòi độc lập bùng nổ cần thiết phải có một chính đảng lãnh đạo với đường lối đúng đắn, từ thực tiễn đó “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” (1925) ra đời nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước ở Việt Nam. Những bài giảng trong lớp huấn luyện cán bộ của Hội đã được Hồ Chí Minh tập hợp lại và xuất bản thành tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927). II- Tư tưởng cơ bản và nội dung của tác phẩm 1. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm Mục đích tác phẩm được tác giả chỉ rõ: “Muốn sống thì phải cách mệnh”. “Hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi”. Thà chết tự đo còn hơn sống nô lệ, quyết chiến đấu cho nền độc lập tự do của dân tộc là tinh thần của tác phẩm. Có thể nói, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là quan điểm bao trùm toàn bộ tác phẩm. Tác phẩm cũng chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của độc lập tự do và vạch con đường cụ thể để giành thắng lợi. Tinh thần xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, phải giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ra khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo con đường cách mạng Việt Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích của dân tộc với lợi ích của giai cấp vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc đều phải giải quyết trên cơ sở quan điểm cách mạng vô sản để đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng giải phóng dân tộc chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chi phối cách mạng giải
  5. phóng dân tộc. Cách mạng phải triệt để, tích cực, chủ động và sáng tạo. Tác giả đưa dẫn chứng các cuộc cách mạng trên thế giới để đi đến khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam phải giành thắng lợi triệt để: “Muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh; phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Cách mạng phải độc lập và sáng tạo, tự lực, tự cường, không ỷ lại ngồi chờ; phải tích cực tấn công, chủ động tiến công, quyết giành thắng lợi. Biết tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, nhưng cũng phải có đóng góp cho cách mạng thế giới, cùng cách mạng thế giới đạp đổ chủ nghĩa đế quốc tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng cơ bản trên đã nâng giá trị của tác phẩm lên tầm cao. 2. Nội dung của tác phẩm a. Tư cách một người kách mệnh: Đây là nội dung quan trọng nhất, Hồ Chí Minh đã nêu ra những biểu hiện cụ thể về tư cách của một người cách mạng. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927) Hồ Chí Minh chỉ rõ: Muốn làm cách mạng thành công, người cách mạng trước hết phải có tư cách cách mạng. Tư cách của người cán bộ cách mạng là sự thống nhất biện chứng 3 mối quan hệ cơ bản nhất của con người: quan hệ với mình, quan hệ với mọi người và quan hệ với công việc. Tự mình phải: cần, kiệm, hòa mà không tư, cả quyết sửa chữa lỗi mình, cẩn thận mà không nhút nhát; hay hỏi, nhẫn nại (chịu khó); hay nghiên cứu xem xét, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất; bí mật. Đối với người phải: với từng người thì khoan thứ, với đoàn thể thì nghiêm, có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo, hay xem xét người. Làm việc phải: xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể”. Hồ Chí Minh khẳng định: Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Tuy nhiên Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng, người cán bộ, đảng viên không thể tự bằng lòng về cái đức của mình mà phải có cả tài mới đảm đương được công việc, mới có khả năng làm chủ đất
  6. nước. “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”. Vì vậy người cách mệnh phải đảm bảo vừa “hồng” vừa “chuyên”.  Tự mình phải: - Cần kiệm + Cần: là sự lao động cần cù sáng tạo, có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ thuật, có kế hoạch, có năng suất, chất lượng cao. Những thói hư, tật xấu lười lao động, ăn bám, ăn cắp, làm láo báo cáo hay vô tổ chức, vô kỷ luật là không phù hợp với đạo đức phẩm chất cách mạng. Bác Hồ rất ghét kẻ đạo đức giả, nói mà không làm, nói một đường làm một nẻo. Người cho rằng kẻ đó làm giảm đi lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cần phải đi đối với chuyên. Nếu không chuyên thì cũng vô ích. Cần không phải là xổi. Phải biết nuôi dưỡng sức khoẻ, tinh thần và lực lượng để làm việc lâu dài. Một người lười biếng sẽ làm chậm và ảnh hưởng đến công việc của rất nhiều người khác. Cần là nâng cao năng suất lao động. Khi nói với công nhân, những người trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, thì Bác nhắc: "Phải nâng cao kỷ luật lao động. Tình trạng muốn làm thì làm, không muốn làm thì thôi, nghỉ sớm, không ốm cũng cáo ốm để nghỉ, đều là thiếu kỷ luật lao động. Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua; nhà máy không có kỷ luật lao động, không phải là nhà máy tốt. Kỷ luật lao động không phải Bác đưa ra hay ở đâu đưa đến, mà chính là các cô, các chú bàn bạc, thông qua, tự giác thi hành. Thông qua rồi, ai không theo không được”. + Kiệm là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, đó là tiết kiệm sức lao động, thời giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân từ cái nhỏ, đến cái lớn. Bởi vì, của cải nếu hết còn có thể làm ra được, còn thời gian đã qua đi, không bao giờ quay trở lại. Muốn tiết kiệm thời gian, bất kỳ việc gì, nghề gì cũng phải chăm chỉ, làm nhanh. Không nên ngồi lê, nói chuyện phiếm, làm mất thời giờ của người khác. Theo Bác tiết kiệm không phải là “bủn xỉn”, “tiết kiệm là quốc sách”. “Cần” với “kiệm” đi đối với nhau như hai chân của một người. “Cần” mà không “kiệm” “thì làm chừng nào xào chừng ấy”, cũng như một cái thùng không đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không. Kiệm mà không cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. .Ví dụ ở trang 446 tác giả viết “10 người muốn ăn cơm, mỗi người riêng một nồi, nấu riêng một
  7. bếp, nấu rồi ăn riêng, ăn rồi ai nấy dọn dẹp riêng của người nấy, thế thì mất hết bao nhiêu củi, nước, công phu và thì giờ” Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, ở (Trang 437) tác giả có viết thực hành tiết kiệm bằng cách: Khi tổ chức Công hội có tiền thừa, thì nên làm những việc như lập trường học cho công nhân, con cháu công nhân, lập nơi xem sách báo, nhà thương, nhà ngủ, nhà hát... Hòa mà không tư có nghĩa là đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp chung, không vì một lợi ích riêng tư nào. Nói như vậy không có nghĩa là không quan tâm đến lợi ích riêng, bởi vì Bác Hồ quan niệm trong lợi ích chung có lợi ích riêng của mỗi người. Trong “Tổ chức công hội” có viết ở trang 436 “Đại biểu phải báo cáo tình trạng và ý kiến của công nhân không phải ý kiến riêng mình, đề nghị và bàn bạc các việc. Khai hội rồi, phải về báo cáo việc hội cho công nhân”. Đó là tấm gương đoàn kết chí công vô tư cao thượng và đúng đắn. Chúng ta đều biết Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người uyên thâm Nho học. Phải chăng "hòa mà không tư" gần với mệnh đề Nho giáo "thân với mọi người mà không kết đảng, hòa hợp với mọi người mà không a dua" song được Người nâng lên ở tầm cao mới, đó là hướng sức mạnh đại đoàn kết, hướng hành động đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng nước nhà giàu mạnh. Sự nghiệp chung mà có lúc Người gọi là nghĩa lớn đó là độc lập cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Người coi đó là mục đích cao cả của sự đoàn kết và theo Người thì mục đích có đồng thì chí mới đồng, chí có đồng tâm mới đồng, tâm đã đồng thì làm mới chóng. Chỉ có hướng sự đoàn kết vì đại nghĩa mới tập hợp được đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Chí đồng, tâm đồng chính là hai điều kiện bảo đảm cho sự đoàn kết chặt chẽ. Trong lịch sử nước ta đã từng có những tấm gương gác hận thù riêng vì đại nghĩa, vì lợi ích sống còn của dân tộc, vì nền độc lập của Tổ quốc. Bản thân cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng quên mình vì đại nghĩa "Cả cuộc đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân". Nhờ gương cao nghĩa lớn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thuyết phục được biết bao nhiêu người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau đoàn kết một lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Để đại đoàn kết với mọi người, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến mọi người và chăm lo lợi ích cho mọi người. Bác Hồ quan tâm đến lợi ích của mọi tầng lớp người, từ người cộng sự, người phục vụ gần gũi đến
  8. quảng đại quần chúng, từ miền xuôi đến miền ngược, mọi tôn giáo, mọi dân tộc. Người quan tâm đặc biệt đến lợi ích vật chất: dân đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, được học hành. Ngoài sự chăm lo lợi ích vật chất, Người còn quan tâm đến đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của mọi tầng lớp. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu cho chúng ta tấm gương đoàn kết rộng rãi bởi một lẽ rất giản đơn: Người muốn huy động tiềm năng của cả dân tộc vào sự nghiệp chung, Người luôn mong muốn thêm bạn bớt thù. Người tin ở tính hướng thiện của mọi người, trong bất cứ con người nào và Người cũng tìm thấy những nhân tố tốt đẹp đó. - Cả quyết sửa lỗi mình: Mục đích của việc cả quyết sửa lỗi thì theo Bác Hồ là cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn; mỗi cán bộ, đảng viên hằng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt, được như thế trong Ðảng sẽ không có bệnh và Ðảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng. Trong tác phẩm có đoạn viết cụ thể là trang 401 sau cuộc cách mệnh năm 1905 thất bại Đảng đã nghiên cứu lại, phê bình lại, sai lầm ở đâu, vì sao mà thất bại? Biết rõ ràng những chỗ khuyết điểm mà sửa sang lại. Việc biết nhận ra lỗi và sửa lỗi có liên quan đến vấn đề đoàn kết trong Ðảng. Do vậy, mục đích của tự phê bình và phê bình còn nhằm tăng cường sức mạnh đoàn kết, như Bác nói: “Muốn đoàn kết chặt chẽ là phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để đi đến càng đoàn kết. Ðoàn kết, phê bình, tự phê bình thật thà để đi đến đoàn kết hơn nữa”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh yếu tố năng động chủ quan ở mỗi người, đến sức mạnh của lý tưởng, của ý chí, của tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người nói: “Muốn làm cách mạng phải cải cách tính nết mình trước tiên”. Hồ Chí Minh nhắc lại câu của Khổng Tử: “Mình phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới “trị quốc bình thiên hạ” được... Muốn cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo. Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được”. - Cẩn thận mà không nhút nhát: Làm việc gì cũng phải suy nghĩ cẩn thận, nhưng cẩn thận ở đây không có nghĩa là quá nhút nhát, không dám đương đầu với khó khăn gian khổ đồng
  9. thời phải xem xét hoàn cảnh thực tế rồi mới hành động khi có thời cơ thuận lợi thì phải mạnh dạn, dũng cảm, quyết đoán, có như vậy thì mới đem lại kết quả. - Hay hỏi: Người cách mệnh luôn phải tự mình đặt ra những câu hỏi cần phải làm gì và làm như thế nào, bên cạnh đó cần phải học hỏi, tiếp thu ý kiến của người khác không dấu dốt. Thể hiện tinh thần cầu thị, cầu tiến bộ của người cách mạng. Phải nỗ lực học tập mọi lúc mọi nơi, học thầy học bạn, để nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giao cho, không dấu diếm khuyết điểm, không dấu dốt. - Nhẫn nại: Cách mạng là sự nghiệp lớn lao và luôn diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn vì vậy đòi hỏi người cách mệnh phải kiên trì bền bỉ chịu đựng những khó khăn trong công việc, đây là một đức tính rất quan trọng và cần thiết để giành được thắng lợi cuối cùng. Hay nghiên cứu xem xét: Khi làm cách mạng đòi hỏi phải xem xét, nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới. Qua đó Hồ Chí Minh thấy rằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga là đã thành công và thành công đến nơi nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật không phải tự do bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức ở các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. - Vị công vong tư: Là luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân vì lợi ích của tập thể có thể hi sinh lợi ích của bản thân. Đây là một trong những đức tính tạo nên phẩm chất cao quý của người cách mệnh. Không hiếu danh, không kiêu ngạo: yêu cầu người cách mạng phải hết sức khiêm tốn, phải phục tùng sự phân công của tổ chức, không hiếu dân, hiếu vị, không lên mặt dạy đời; không coi thường cấp dưới, không nịn nọt cấp trên, không chạy theo danh lợi cá nhân mà phải đặt lợi ích chung của tập thể, mục tiêu vì sự nghiệp cách mạng lên trên, không vì lợi ích cá nhân mà ảnh hưởng đến lợi ích của tập thể. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, dụt dè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần người cách mệnh “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” lo hoàn thành nhiệm vụ tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không quan liêu, không kiêu ngạo,
  10. không hủ hóa. Khi đã là người có chức quyền thì không tỏ ra kiêu ngạo, coi mình là trên hết mà coi thường quần chúng. Trang 434 trong tác phẩm khi nói về cách tổ chức công hội Bác viết “người cách mệnh chớ có bỉ thử mình khéo hơn, lương cao hơn mà khinh người vụng và ăn tiền ít. Chớ cậy mình là nhiều tuổi mà muốn làm đàn anh,…” - Nói thì phải làm: Người cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải có tinh thần phụ trách, thành tâm phụ trách. Khi đã có quyết định chính xác thì phải quyết tâm thực hiện, dù khó khăn đến mấy cũng phải tìm mọi cách để cho quyết định được thực hiện. Bác thường nói: “Quyết tâm không phải ở hội trường, ở lời nói, mà phải quyết tâm trong công tác, trong hoạt động... Phải quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó, quyết tâm khắc phục khó khăn, quyết tâm chấp hành chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ... bất kỳ một việc lớn hay nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được”. Khẳng định một trong ba nguyên tắc đạo đức của Người: Nói thì phải làm; xây đi cùng với chống và tu dưỡng đạo đức suốt thời. Ở đây chúng tôi xin đi sâu vào nguyên tắc đầu tiên của đạo đức trong tư tuởng Hồ Chí Minh là "Nói thì phải làm". "Nói thì phải làm", chỉ với bốn từ đơn giản tưởng chừng như rất dễ thực hiện ấy, nhưng suốt cả cuộc đời mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng phấn đấu làm gương cho sự thống nhất giữa tư tưởng, lời nói với hành động và hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quanh vinh và Bác Hồ vĩ đại, nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Và với bản thân mình, Bác đã làm đúng như khi trả lời các nhà báo nước ngoài năm 1946 "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đối với mỗi người để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với hành động, lời nói đi đối với việc làm, là điều không dễ, nó đòi hỏi cần phải có sự cố gắng, bền bỉ và một quyết tâm, bởi bất kỳ công việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay bé, khó hay dễ, phức tạp hay giản đơn, nhưng nếu không ra sức phấn đấu thì cũng không thể thành công được. Kết quả công việc là thước đo của mỗi người. Với các cán bộ, đảng viên và những người làm công tác lãnh đạo thì lời nói với việc làm lại càng quan trọng và cần thiết, vì cán bộ là gốc của mọi công việc, là những tấm gương để quần chúng noi theo.
  11. Lời nói đi đôi với việc làm, nói được làm được, sẽ mang lại những hiệu quả lớn, được nhiều người hưởng ứng và làm theo. Để làm được điều đó, khi đề ra công việc tránh cách nói chung chung, đại khái và khó hiểu, cần phải cụ thể, thiết thực, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Ngược lại nói nhiều làm ít hoặc nói mà không làm thì sẽ chỉ mang lại những kết quả phản tác dụng. Nếu chính mình tham ô mà bảo người khác liêm khiết thì không được. Nếu rói rằng phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, mà bản thân mình lại lười biếng, không hoàn thành những công việc được giao, không tiết kiệm, sống hoang phí, xa hoa trong khi cuộc sống của đại đa số nhân dân còn nhiều thiếu thốn , luôn tìm cách tham ô tiền của Nhà nước và nhân dân... thì những lời nói đó sẽ không có tác dụng giáo dục. Để có một xã hội ngày càng tốt đẹp, nhân dân thực sự được hưởng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đất nước ngày càng mạnh giàu, hơn lúc nào hết lối sống mình vì mọi người, mọi người vì mình, phương châm và nguyên tắc sống "Nói thì phải làm" cần phải được thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Làm đựơc như vậy là chúng ta đã làm tốt những điều mà lúc còn sống Bác Hồ luôn mong muốn và căn dặn. - Giữ chủ nghĩa cho vững: là phẩm chất hàng đầu, là yêu cầu cốt yếu nhất của người cách mạng. Đó là phải giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, suốt đời trung thành, kiên định với lý tưởng cách mạng. Có như vậy mới xây dựng được niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng của cách mạng, không dao động trước khó khắn gian khổ, thậm chí hi sinh cả tính mạng mình. Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam". Người khẳng định dứt khoát: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin". Trong tình hình hiện nay càng phải khẳng định niềm tin đó. Nếu chúng ta để mất niềm tin sẽ mất tất cả. Trong sự nghiệp cách mạng các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, với những thủ đoạn lôi kéo, dụ dỗ, gây rối, tìm mọi cơ hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền. Vì vậy, đòi hỏi người cách mạng phải luôn giữ vững lập trường tư tưởng chính trị, kiên định với con đường đã chọn – cách mạng vô sản.
  12. - Hy sinh: Lý tưởng cộng sản vô cùng trong sáng, tươi đẹp. Nhưng để đi đến tương lai tươi sáng đó là cả một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ vượt qua bao khó khăn thử thách. Vì chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không bao giờ chịu từ bỏ quyền lợi của mình mà luôn tìm mọi cách, thủ đoạn nham hiểm, tàn bạo để thực hiện mưu đồ của chúng. Nên mỗi người khi bước vào hoạt động cách mạng phải xác định tinh thần sẳn sàng hi sinh cho lý tưởng công sản, kể cả hi sinh cả tính mạng mình. - Ít lòng tham muốn về vật chất: Là không tham danh vị, không tham tiền. Có gan chống lại những ham muốn vinh hoa, phú quý không chính đáng. Ngay từ năm 1927, khi còn đang hoạt động cách mạng ở nước ngoài, mở các lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, chuẩn bị cho công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, Bác đã nhắc tới điều này trong tác phẩm Ðường Kách mệnh. Bác rất ghét những kẻ luôn tìm cách đút túi mình tài sản của dân, bởi tham ô là thói rất xấu, rất có hại, không những phí phạm của cải của xã hội, mà còn làm vẩn đục chế độ, mất cán bộ. Tham ô là tội ác. - Bí mật: Trong cách mạng phải đề ra đường lối , xây dựng tổ chức, trong tổ chức có sự đoàn kết thống nhất cao. Giữa tổ chức và cá nhân có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau nên người cách mệnh trong quá trình hoạt động, phải luôn tuyệt đối giữ bí mật về tài liệu công tác tổ chức  Đối với người phải - Với từng người phải khoan thứ: nêu cao tình cảm cách mạng cao cả của những người cùng chí hướng, luôn khoan dung, độ lượng. Khi đồng chí mắc khuyết điểm phải góp ý chân thành với ý thức xây dựng tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng chí sửa chửa khuyết điểm, không dấu diếm khuyết điểm, nhưng cũng không ghen ghét, đố kị hoặc có ấn tượng xấu với người mắc khuyết điểm. - Với đoàn thể thì nghiêm: nêu cao ý thức tập thể,luôn đặt lợi ích tập thể lên trên hết, trước hết cách mạng không loại trừ tự do cá nhân, nhưng yêu cầu mỗi người cách mạng phải biết đặt lợi ích cá nhân trong lợi ích tập thể. Khi được tổ chức cách mạng giao nhiệm vụ thì phải tuyệt đối phục tùng, dù phải vượt qua gian khổ hoặc phải hy sinh tính mạng. - Có lòng bày vẻ cho người: thể hiện lòng vị tha, những gì mình biết người khác chưa hiểu phải luôn tìm cách giúp đỡ , bày vẽ để cùng tiến bộ và hoàn thành nhiệm vụ chung. Có lòng bày vẽ cho người hoàn toàn khác với thói ích kỷ, tự cao tự đại.
  13. - Trực mà không táo bạo: phẩm chất thẳng thắn, trung thực, quyết đoán nhưng không vội vàng hấp tấp khi giải quyết công việc nhất là khi góp ý cho người khác phải nghiên cứu, phải xem xét hoàn cảnh cụ thể, toàn diện, đúng mức. Tránh chủ quan, phiến diện, nóng vội dễ dẫn đến thất bại. - Hãy xem xét người: thể hiện tinh thần tập thể cao, đồng thời phải thường xuyên quan tâm giúp đỡ, sống chan hòa, thân ái với đồng chí đồng đội luôn học hỏi lẫn nhau những điều hay, điều tốt, góp ý chân thành những thiếu sót, khuyết điểm cùng nhau sửa chữa, cùng tiến bộ.  Làm việc phải: - Xem xét hoàn cảnh kĩ càng: trước khi thực hiện công việc phải nghiên cứu, phải đánh giá điều kiện khách quan chủ quan, thuận lợi, khó khăn, khả năng tổ chức thực hiện để có quyết định đúng đắn: tránh vội vàng, chủ quan phiến diện sẽ dẫn đến thất bại. Trước sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp, tác giả quyết định ra đi tìm đường cứu nước, Người nhận ra để được tự do cần phải lãnh đạo toàn dân đoàn kết chống giặc để làm được điều đó phải làm cách mệnh. Vậy cách mệnh trước hết là phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lí luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, dân vì không hiểu tình thế trong thế giới, không biết so sánh, không có mưu chước, chưa nên làm đã làm, khi nên làm lại không làm. Cách mệnh phải hiểu phong triều, phải bầy sách lược cho dân. Do đó để làm cách mệnh thành công phải xem xét hoàn cảnh trong và ngoài nước để từ đó tập trung lực lượng đánh giặc. Khi vừa lấy được Pari, chính quyền còn non trẻ, các thế lực phản cách mạng tìm mọi âm mưu thủ đoạn để chống phá, trong hoàn cảnh đó công xã không xem xét kĩ càng, đúng đắn, tổ chức không khéo léo đưa ra những quyết đoán sai lầm, dẫn đến việc công xã Pari tan rã. - Quyết đoán: : thể hiện tác phong, phương pháp giải quyết công việc một cách dứt khoát. Khi đã nhận nhiệm vụ cách mạng giao cho thì phải kiên quyết tìm mọi cách thực hiện; không rụt rè, bàn lùi, thoái chí sẽ dẫn đến thất bại, việc tốt, việc hay, việc có lợi cho cách mạng thì dù nhỏ cũng kiên quyết làm; việc xấu việc sai, dù có đem lại lợi ích cho bản thân thì cũng kiên quyết tránh. Làm cách mạng rất khó khăn và nguy hiểm, vì vậy người cách mạng phải suy xét hoàn cảnh và đưa ra quyết định phù hợp đối với cách mạng, phải quyết đoán không do dự làm
  14. lỡ mất thời cơ. Tại trang 403 khi nói về quyết đoán thì tác giả viết: Cuối tháng 10, đâu cũng có tổ chức cả rồi, ai cũng muộn cử sự. Nhưng ông Lê-nin bảo “Khoan đã! Chờ ít bữa nũa cho ai ai cũng phản đối chính phủ, lúc ấy sẽ cử sự”. Đến ngày 5-11, chính phủ khai hội để ban bố phép luật mới, mà phép luật ấy thì lợi cho công, nông. Ông Lênin nói với đảng viên rằng: mồng 6 cử sự thì sớm quá, vì dân chưa biết hết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ ấy thì chưa ghét chính phủ lắm. Mùng 8 cử sự thì muộn quá vì khi ấy chính phủ biết rằng dân oán và đã phòng bị nghiêm nhặt rồi. Quả nhiên ngày mồng 7 Đảng cộng sản hạ lệnh cách mệnh, thì thợ thuyền ào đến vây Chính phủ, dân cày ào đến đuổi địa chủ. Chính phủ phái lính ra dẹp thì lính ùa theo thợ thuyền mà trở lại đánh Chính phủ. - Dũng cảm: đức tính cao quý của người cách mạng, thắng không kiêu, bại không nản, tìm mọi cách để thực hiện mọi cách để thực hiện nhiệm vụ được giao, dù phải vượt qua vô vàn khó khăn, gian khổ, thậm chí hy sinh cả tính mạng cũng quyết tâm hoàn thành. Trong cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh vì vậy nếu như không có lòng dũng cảm thì không thể làm cách mạng thành công. Trong tác phẩm Hồ Chí Minh (Trang 393) có nhắc đến nhân dân Pháp trong cách mệnh Pháp; Dân Pháp tuy lương thực ít, súng ống thiếu nhưng chỉ nhờ gan cách mệnh mà trong dẹp nổi loạn, ngoài phá cường quyền. Hồi ấy lính cách mệnh gọi là “Lính không quần”, gầy bụng đói. Thế mà lính ấy đến đâu, thì lính ngoại quốc thua đấy. Thế thì biết một người cách mệnh có gan hơn một người vô chí. - Phục tùng đoàn thể: người cách mạng tham gia hoạt động trong một tổ chức đoàn thể nhất định, nên đòi hỏi phải có ý thức tập thể, tính kỷ luật cao. Khi được tổ chức, toàn thể phân công công tác thì phải tuyệt đối chấp hành; phải đặt lợi ích của đoàn thể lên trên hết, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của cá nhân vì lợi ích của đoản thể. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm. Người chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ luật, chẳng
  15. những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu cầu mọi đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công. "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác". Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ, "giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng, của tập thể trước lợi ích của cá nhân. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Trong một số trường hợp cá nhân phải biết hi sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích của tập thể. Tóm lại: “Tư cách của một người cách mệnh” là phác thảo cơ bản và hoàn chỉnh đầu tiên về đạo đức để người cách mạng có đủ uy tín tập hợp và lãnh đạo quần chúng. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh thần cách mạng tiên tiến, triệt để của giai cấp công nhân và truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng ngàn năn dựng nước và giữ nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý đúc kết và hoàn thiện đạo đức cách mạng để giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên, mà chính Người là hiện thân mẫu mực của đạo đức đó. So với những phẩm chất đạo đức nêu trong “Đường cách mệnh” thì phẩm chất đạo đức của cán bộ đảng viên trong thời đại Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển lên tầm cao mới, sâu sắc hơn, đáp ứng được yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng và phù hợp với trình độ của Đảng viên đã được rèn luyện, thử thách qua đấu tranh cách mạng và nó tạo thành khuôn mẫu đạo đức chung của khuôn mẫu đảng viên. Tác phẩm “Đường cách mệnh” vạch ra tư cách đạo đức người cách mệnh, Đặc biệt, Đường Cách Mệnh còn đặt những viên gạch đầu tiên làm nền móng xây dựng giá trị đạo đức mới đối với người cách mạng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, học tập chúng ta thấy vấn đề đạo đức xã hội nói chung và đạo đức người cách mạng nói riêng luôn luôn được Hồ Chí Minh hết sức coi trọng, trong mối quan hệ “đức-tài”, “hồng-chuyên”.
  16. Người luôn coi “đức” là cái gốc cái căn bản nhất để trên nền tảng đó nảy nở tài năng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng có tài mà không có đức thì không làm được việc gì cả thậm chí còn dẫn đến sai lầm. Trong suốt quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng lâu dài và gian khổ của dân tộc.Vị anh hùng của dân tộc Hồ Chí Minh luôn chú tâm nghiên cứu đúc kết thành những tiêu chí đạo đức cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, và chính Người là hiện thân trong sáng nhất, trọn vẹn nhất của đạo đức cách mạng là tấm gương cho cán bộ đảng viên và nhân dân ta, thế hệ mai sau học tập và làm theo.  So sánh với chủ nghĩa anh hùng cá nhân: Chủ nghĩa anh hùng cá nhân là đặt lợi ích riêng của mình lên trên tổ chức, lên trước lợi ích chung của dân tộc. Đó là bệnh chính, bệnh mẹ sinh ra nhiều chứng bệnh khác như: tự tư tự lợi, sợ khó sợ khổ, không yên tâm công tác; ham địa vị danh tiếng; lãng phí, tham ô; quan liêu, mệnh lệnh. Chủ nghĩa anh hùng cá nhân trái ngược với chủ nghĩa tập thể, nó là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chủ tịch lên án: “Chủ nghĩa anh hùng cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: Quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô lãng phí... Những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ gì đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”. (xem Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội - Nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội 1970, trang 188). Tác phẩm đã nêu lên những vấn đề cơ bản của đạo đức mới - đạo đức của người cộng sản. Đó là phải có đức và tài, trí và dũng, tư cách và năng lực theo kiểu người cộng sản. Đó là con người một lòng một dạ, có kỷ luật có tổ chức, gắn bó với tổ chức, với đoàn thể, đồng thời biết phát huy năng lực cá nhân. “Tư cách người cách mệnh” khác hẳn với chủ nghĩa anh hùng cá nhân, chủ nghĩa anh hùng cá nhân đặt mình lên trên tổ chức, đề cao cái tôi còn trong tác phẩm “đường cách mệnh”đạo đức của người đảng viên cộng sản phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc ta, đáp ứng yêu cầu của cách mạng và cũng rất đúng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức của người cách mệnh. “Tư cách người cách mệnh” đã dễ dàng chinh phục lòng người, tiếp thêm sức mạnh và định hướng phấn đấu cho tất cả những ai yêu nước, thương nòi, muốn giải phóng quê hương xứ sở ra khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng
  17. đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ những biện pháp thiết thực để mỗi đảng viên cộng sản phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng nhân cách của mình. Trước hết, mỗi đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nếu để cho chủ nghĩa cá nhân ám ảnh, chi phối, người đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự tước bỏ danh hiệu cao quý của mình. Vì vậy, muốn giữ được tư cách, đảng viên nhất thiết "phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu...sẽ bị xã hội tiến bộ sa thải". “Tư cách người cách mệnh” có giá trị khoa học và giáo dục lớn đặt cơ sở cho đạo đức học ở Việt Nam. Nội dung 2: Con đường cách mạng Hồ Chí Minh nêu ra khái niệm cách mệnh. Người đề cập đến 3 loại hình cách mệnh so sánh các loại hình ấy và rút ra kinh nghiệm cho cách mạng Việt Nam từ đó Hồ Chí Minh đã xác định con đường mà cách mạng Việt Nam phải theo; những nội dung mà cách mạng Việt Nam phải thực hiện. 1. Khái niệm cách mệnh. “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Vd: ông Galile (1633) là khoa học cách mệnh. Ngày xưa ai cũng tưởng rằng giời tròn đất vuông, nhân kinh nghiệm và trắc đạc, ông ấy mới quyết định rằng trái đất tròn và chạy chung quanh mặt trời (trang 382). 2. Các loại cách mệnh.  Có ba loại hình cách mệnh: - Tư bản cách mệnh như cách mệnh Pháp năm 1789, Mỹ cách mệnh độc lập năm 1776; Nhật cách mệnh năm 1864. - Dân tộc cách mệnh: Italia đuổi cường quyền Áo năm 1859; Tàu đuổi Mãn Thanh 1911. - Giai cấp cách mệnh như công nông Nga đuổi tư bản và giành lấy chính quyền 1917.  So sánh các loại hình cách mệnh. a) Nguyên nhân dẫn đến các cuộc cách mệnh. - Tư bản cách mệnh: Địa chủ hết sức ngăn trở tư bản mới, tư bản mới hết sức phá địa chủ, hai bên xung đột nhau làm thành ra tư bản cách mệnh.
  18. Tư bản ở thành phố là tư bản mới, nó có lò máy và làm ra hàng hóa. Có lò máy thì muốn có nhiều thợ làm công cho nó. Làm ra hàng hóa muốn nhiều người mua nó. Muốn nhiều người mua bán thì muốn giao thông thuận tiện. Tư bản ở hương thôn là địa chủ, nó muốn giữ những chế độ phong kiến, thổ địa nhân dân; ở chỗ nào chủ quyền đều về tay bọn quyền quí ở đấy cả; nó đối với nhân dân, coi như trâu nó bắt ở yên một chỗ để cày ruộng cho nó, nó đối với người đi buôn thì hàng hóa nó muốn lấy thuế bao nhiêu thì lấy, không có chừng độ tiền bạc mỗi xứ một thứ, đi lại phải xin chúng nó cho phép, nó làm nhiều cách trở ngại cho việc buôn bán mới. (Tr 383) => Mâu thuẫn về quyền lợi nên tư bản mới và tư bản ở hương thôn luôn chống đối nhau kịch liệt. Vd ở Mỹ từ 1861 đến 1865, mấy tỉnh phía Bắc (tư bản mới) cử binh đánh lại mấy tỉnh phía nam (điền chủ) như hai nước thù địch. (Tr 384) - Dân tộc cách mệnh: một nước cậy có sức mạnh đến cướp một nước yếu lấy võ lực cai trị dân nước ấy, và dành hết cả quyền kinh tế và chính trị. Dân nước ấy đã mất cả tự do độc lập, lại làm ra được bao nhiêu thì bị cường quyền vơ vét bấy nhiêu. Nói tóm lại là bọn cường quyền này bắt dân tộc kia làm nô lệ, như Pháp đối với An Nam. Đến khi dân nô lệ ấy chịu không nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi, ấy là dân tộc cách mệnh. - Giai cấp cách mệnh: trong thế giới có hai giai cấp Tư bản: không làm gì mà hưởng lợi. Công nông: làm khó nhọc mà không được hưởng lợi được hưởng. Vd như người thợ An Nam làm 11 giờ/ngày nhưng lương chỉ được hưởng 3 hào, ăn chẳng đủ ăn mặc không có mặc, đau không có thuốc chết không có hòm. Còn anh chủ mỏ không bao giờ nhúng tay đến việc gì mà nó ăn sung mặc sướng, lên ngựa xuống xe, mỗi năm lại được mấy mươi triệu đồng lời (trang 385). Nước ta như vậy các nước khác cũng vậy. Công nông cũng không chịu nổi, đoàn kết nhau đánh đuổi tư bản đi, như bên Nga ấy là giai cấp cách mệnh. Nói tóm lại giai cấp bị áp bức cách mệnh để đạp đổ giai cấp đi áp bức mình. b) Tính chất các loại hình cách mệnh. Đối với tư bản cách mệnh: tiêu biểu là cách mệnh Mỹ và cách mệnh Pháp.
  19. - Mỹ là một nước giàu có về tài nguyên. Anh thì có lòng tham, muốn hốt về cho mình cả vì vậy có bao nhiêu thổ sản Mỹ phải cung cấp cho Anh hết Mỹ không được lập ra lò máy và không được buôn bán với nước nào lại thêm thuế má nặng nề. Việc này như lửa rơi vào thuốc súng, dân tức quá thì nổ, sống chết cũng quyết đuổi được chính phủ Anh thì thôi. Kết quả ngày 4-7-1776 thì cách mệnh Mỹ tuyên bố độc lập và nước Mỹ thành ra nước cộng hòa. Tuy cách mệnh Mỹ thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Vì cách mệnh Mỹ là cách Mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi đó là cuộc cách mệnh chưa triệt để. - Cách mệnh Pháp: hồi thế kỉ thứ 18, vua thì xa hoa dâm dật; quí tộc và bọn cố đạo thì hoành hành; thuế nặng dịch phiền, dân tình khốn khổ. Tư bản mới bị tụi phong kiến ngăn trở, dân thì bị vua, quí tộc và cố đạo áp bức. Vậy nên tư bản mới liên hiệp với học trò, dân cày và người thợ để phá phong kiến. Từ năm 1792-1804 Cộng hòa lần thứ nhất. Năm 1804 Napoleong phản cách mệnh lên làm hoàng đế. Năm 1814 các nước đánh napoleong thua rồi đem dòng vua cũ lên ngôi đến 1848. Năm 1848 lại cách mệnh lần thứ 2. Năm 1852 cháu Napoleong lại phản cách mệnh lên làm vua. Năm 1870 nhân thua Đức, Napoleong thứ 3 bỏ chạy, Pháp lại lập nên cộng hòa lần thứ 3. Công xã Pari: năm 1871 vua Pháp bỏ chạy, lính Đức tới vây Pa ri. Tư bản Pháp cắt hai tỉnh cúng cho Đức để cầu hòa. Vì giặc giã mà chết nhiều người, hại nhiều của. Dân không bánh ăn, thợ không công làm. Ngày 18-3 thợ thuyền Pa-ri nổi lên làm cách mệnh cộng sản (công xã). Nhưng vị thợ thuyền còn non nớt, tổ chức không khéo, vả lại Đức giúp cho tư bản Pháp đánh lại thợ thuyền, nên cuối tháng năm thì cách mệnh thất bại. => Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Đối với giai cấp cách mệnh và giai cấp cách mệnh: cách mạng Nga - Nga là một nước rất rộng, nữa nằm về Châu Á, nữa nằm về Châu Âu. Dân Nga hơn 90 phần là dân cày không đầy 10 phần là thợ thuyền khi trước theo chế độ nông nô bao nhiêu ruộng đất và dân cày đều dưới quyền địa chủ. Địa chủ xem nông nô như súc vật, nó cho
  20. sống thì sống nó bắt chết thì chết. đến nửa thế kỷ 19 tư bản mới hơi phát đạt mở lò máy vận động dân cày tới làm cho nó bỏ chế độ nông nô. Tư bản mới và địa chủ mới sinh ra hiềm khích to phong triều cách mệnh công nông nổ ra. Được giải phóng, nông nô người thì ra thành phố làm công người thì ở lại làm ruộng. đi làm công tiền công ít, làm nhiều, nô lệ cho tư bản, ở lại cày thì đất ruộng ít trâu bò thiếu, phải chịu luồn cúi bọn nhà giàu. Dân tự do nhưng kỳ thực sống kiếp nô lệ, thợ cực khổ. Năm 1875 có đảng cách mệnh “công nhân giải phóng”, năm 1878 có đảng mới gọi là công đảng nhưng hai đảng ấy người ít sức hèn, bị chính phủ bắt bớ nhiều, sau hóa ra đảng kịch liệt chỉ lo ám sát vua và các quan. Kết quả tuy làm được nhiều sự ám sát oanh liệt nhưng vì đi sai đường cách mệnh, không có sức dân chúng làm nền cho nên bị chính phủ trị mãi đến nỗi tan. Năm 1904- 1905 Nga với Nhật đánh nhau, nhân lúc lúc dân tình xục rục, Đảng ra sức vận động cách mệnh. Cách mệnh 1905 thất bại, thợ thuyền mới hiểu rằng một là phải có tổ chức vững vàng, hai là phải liên lạc với dân cày, ba là phải vận động lính, bốn là không tin được cải lương, thỏa hiệp, năm là là phải đuổi vua và đuổi cả tư bản. Cách mệnh 1905 thất bại là gương cho cách mệnh 1917 thành công. Cách mệnh 1917 nổ ra do nhiều nguyên nhân :  Khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Anh , Pháp lợi dụng vua Nga đánh Đức nhưng bị Đức đánh thua mãi các đế quốc chủ nghĩa giận và giúp cho tư bản đẩy vua đi  Tư bản giận vua chỉ tin dùng bọn quí tộc cầm binh quyền, bọn quí tộc vô tài đánh đâu thua đó. Vậy nên tư bản cũng muốn đẩy vua.  Thợ thuyền và dân cày đối với vua như đối với thù địch.  Bọn hoạt đầu thì lợi dụng cả hai bọn này, đuổi vua cho tư bản Nga và ĐQCN Anh và Pháp. Tư bản và đế quốc lại lợi dụng bọn hoạt đầu. Cuối tháng 10 đâu cũng có tổ chức đảng ai củng muốn cử sự. Nhưng ông Lênin bảo : “Khoan đã ! chờ ít bữa nữa cho ai ai cũng phản đối chính phủ lúc ấy sẽ cử sự”. Ngày mùng 7 Đảng cộng sản hạ lệnh cách mệnh thì thợ thuyền aò đến vây chính phủ, dân cày ào đến đuổi địa chủ. Từ bữa ấy chính phủ hoạt đầu bỏ chạy, Đảng cộng sản cầm quyền tổ chức ra chính phủ công, nông, binh, phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ
nguon tai.lieu . vn