Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ­­­♦ ­­­♦ ­­­♦ ­­­ CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG  NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ĐẠI HỌC BÀI THU HOẠCH CHUYÊN ĐỀ: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG                             Học viên: PHẠM ANH XUÂN Ngày sinh: 25/02/1992                                Nơi sinh: Liên Bang Nga                                Đơn vị công tác: Công ty TNHH Thiên Tường Năm 2021 NỘI DUNG THU HOẠCH Câu 1: Vì sao nói: Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc thù của loại người? Cho ví  dụ minh họa. 
  2. Câu 2: Hãy phân tích khái niệm Giáo dục theo nghĩa rộng. Theo anh/chị Quá trình   dạy học theo nghĩa hẹp và Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp trong thực tiễn hiện   nay có những tồn tại, hạn chế gì? Cho ví dụ minh họa _________________________________________________________________ BÀI  LÀM: Câu 1: Vì sao nói: Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc thù của loại người? Cho   ví dụ minh họa. 1. Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc thù của loài người 1.1. Đặt vấn đề Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, để tồn tại con người phải tiến hành hoạt động   lao động. Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày con người tiến hành nhận   thức thế giới xung quanh, dần dần tích luỹ được một kho tàng kinh nghiệm phong   phú bao gồm các tri thức, kỹ  năng, kỹ  xảo cùng những giá trị  văn hóa xã hội như  các chuẩn mực về đạo đức, niềm tin, các dạng hoạt động giao lưu của con người  trong xã hội… Để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, con người  có nhu cầu trao đổi và truyền thụ  lại những kinh nghiệm đã tích lũy ấy cho nhau.   Sự truyền thụ và tiếp thu hệ thống kinh nghiệm đó chính là hiện tượng giáo dục. 1.2. Nội dung Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì chỉ  có trong xã hội loài người giáo  dục mới nảy sinh, phát triển và tồn tại vĩnh hằng. Xã hội loài người ngày càng biến  đổi, phát triển, giáo dục cũng phát triển và trở  thành một hoạt động được tổ  chức   chuyên biệt: có chương trình, kế hoạch, có nội dung, phương pháp khoa học… Như  vậy, giáo dục là hoạt động truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội từ  thế  hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế hệ sau tham gia lao động sản  xuất và đời sống xã hội.  Một quy luật của sự tiến bộ xã hội là thế hệ trước phải truyền lại cho thế hệ sau   những hiểu biết, năng lực, phẩm chất cần thiết cho cuộc sống của mỗi cá nhân, gia   đình, cộng đồng. Thế  hệ sau không chỉ  lĩnh hội, kế  thừa các tri thức, kỹ  năng, kỹ  xảo, giá trị… mà còn phải tìm tòi, sáng tạo và làm phong phú hơn những giá trị đó.  Nhờ lĩnh hội, tiếp thu, phát triển những kinh nghiệm mà mỗi cá nhân hình thành và  phát triển nhân cách của mình. Nhân cách mỗi người được phát triển ngày càng đầy  đủ, phong phú, đa dạng, sức mạnh về  tinh thần và thể  chất của mỗi con người  
  3. được phát huy sẽ tạo nên nguồn lực cơ bản đáp ứng các yêu cầu phát triển xã hội  trong những giai đoạn lịch sử  cụ  thể. Như  vậy, sự  truyền thụ  và lĩnh hội những   kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình phát triển xã hội loài người chính là nét   đặc trưng cơ bản của giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Giáo  dục là hoạt động có ý thức, có mục đích của con người, là hệ  thống các tác động  nhằm làm cho người học nắm được hệ thống các giá trị văn hóa của loài người và   tổ chức cho người học sáng tạo thêm những giá trị văn hoá đó. Giáo dục làm nhiệm   vụ chuyển giao những tinh hoa văn hoá, đạo đức, thẩm mỹ… của nhân loại cho thế  hệ  sau, là cơ sở giúp các thế  hệ sau nối tiếp nhau sáng tạo, nâng cao những gì mà   nhân loại đã học được. Cho nên có thể coi giáo dục như một kiểu di truyền xã hội   – giáo dục thực hiện cơ  chế  di sản xã hội: là cơ  chế  truyền đạt và lĩnh hội kinh   nghiệm đã được tích lũy trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Chúng ta  có thể  thấy nếu không có cơ  chế  di sản xã hội ­ không có giáo dục thì không có   tiến bộ  xã hội, không có học vấn, không có văn hoá, văn minh. Vì vậy, bất kỳ  xã   hội nào muốn tồn tại và phát triển được đều phải tổ chức và thực hiện hoạt động   giáo dục liên tục đối với các thế hệ con người. Giáo dục là nhu cầu tất yếu của xã   hội loài người và sự xuất hiện hiện tượng giáo dục trong xã hội là một tất yếu lịch  sử.  Tóm lại, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt chỉ có trong xã hội loài người,  giáo dục nảy sinh, biến đổi và phát triển cùng với sự  nảy sinh, biến đổi và phát  triển của xã hội loài người. Bản chất của hiện tượng giáo dục là sự truyền thụ và   lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế  hệ  loài người, chức năng trọng  yếu của giáo dục đối với xã hội là hình thành và phát triển nhân cách con người.  Với ý nghĩa đó giáo dục là nhu cầu không thể  thiếu được cho sự  tồn tại và phát   triển của xã hội loài người. 2. Các tính chất cơ bản của giáo dục và ví dụ minh họa Giáo dục tồn tại trong xã hội loài người đến nay mang những tính phổ biến và vĩnh  hằng, tính nhân văn, tính xã hội – lịch sử, tính giai cấp. Tôi xin trình bày về những   tính chất này qua từng ví dụ minh họa cụ thể như sau:  2.1. Tính phổ biến và vĩnh hằng.
  4. Giáo dục hiện diện trong tất cả  các chế  độ, các giai đoạn lịch sử  của nhân loại,  không hoàn toàn lệ  thuộc vào tính chất, cơ  cấu xã hội như  thế  nào. Trong bất kì  một chế độ xã hội hay một giai đoạn lịch sử nào thì mục đích của giáo dục vẫn là  chăm sóc, dạy dỗ, đào tạo con người, là truyền thụ một cách có ý thức cho thế hệ  trẻ  những kinh nghiệm xã hội, những giá trị  văn hoá, tinh thần của loài người và  dân tộc, làm cho thế hệ trẻ có khả năng tham gia mọi mặt vào cuộc sống xã hội. Vì  vậy giáo dục tồn tại và phát triển mãi cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội  loài người. 2.2. Tính nhân văn. Giá trị nhân văn là những giá trị  chung đảm bảo cho sự sống, tồn tại và phát triển  chung của mọi người, mọi dân tộc, quốc gia trên trái đất, là những giá trị  vì con   người, cho con người, những giá trị vì sự sống hôm nay và ngày mai. Giáo dục luôn   phản ánh những giá trị  nhân văn – giá trị  văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ  chung nhất  của nhân loại và những nét bản sắc văn hóa truyền thống của từng dân tộc, từng   quốc gia. Giáo dục luôn hướng con người đến những cái hay, cái đẹp, cái tốt, phát   huy những yếu tố tích cực trong mỗi con người nhằm phát triển và hoàn thiện nhân  cách mỗi người. 2.3. Tính xã hội – lịch sử  Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục có mối liên hệ có tính quy luật  với trình độ  phát triển của xã hội, thể  hiện tính qui định của xã hội đối với giáo  dục. Giáo dục nảy sinh trên cơ sở kinh tế – xã hội nhất định, do đó tính chất, mục  đích, nhiệm vụ, nội dung của một nền giáo dục bao giờ cũng chịu sự quy định của   các quá trình xã hội trong xã hội đó. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải  qua các hình thái kinh tế ­ xã hội khác nhau, do đó các nền giáo dục tương ứng cũng   khác nhau. Khi những quá trình xã hội biến đổi, bắt nguồn từ  những biến đổi về  trình độ sức sản xuất, tính chất của quan hệ sản xuất xã hội kéo theo những biến   đổi về chính trị ­ xã hội, cấu trúc xã hội, hệ  tư tưởng xã hội thì toàn bộ  hệ thống   giáo dục tương  ứng với hình thái kinh tế  ­ xã hội đó cũng phải biến đổi theo.   Chẳng hạn, lịch sử loài người đã phát triển qua năm giai đoạn và có năm nền giáo  dục tương ứng với năm giai đoạn phát triển của xã hội, đó là nền giáo dục công xã   nguyên thủy, nền giáo dục chiếm hữu nô lệ, nền giáo dục phong kiến, nền giáo   dục tư bản chủ nghĩa và nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
  5. Ngay trong một xã hội nhất định,  ở  mỗi thời kỳ  lịch sử  cụ  thể, giáo dục mang   những tính chất và hình thái cụ  thể  khác nhau. Mục đích, nội dung, phương pháp  giáo dục, hình thức tổ  chức giáo dục, chính sách giáo dục…tại một giai đoạn phát   triển của xã hội luôn chịu sự qui định bởi các điều kiện xã hội ở  giai đoạn xã hội  ấy. Vì vậy trong quá trình phát triển của giáo dục luôn diễn ra việc cải cách, đổi  mới giáo dục nhằm làm cho nền giáo dục đáp  ứng ngày càng cao những yêu cầu  phát triển của thực tiễn xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Từ  tính chất này của giáo dục có thể  thấy giáo dục “không nhất thành bất biến”;   việc sao chép nguyên bản mô hình giáo dục của một nước này cho một nước khác,   giai đoạn này cho giai đoạn khác là một việc làm phản khoa học. Những cải tiến,   thay đổi, điểu chỉnh, cải cách giáo dục qua từng thời kỳ phát triển xã hội là một tất  yếu khách quan. Giáo dục Việt nam hiện nay nhằm đóng góp tích cực vào sự  nghiệp công nghiệp   hoá và hiện đại hoá. Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ  của mỗi công dân, “Phát   triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự  nghiệp công   nghiệp hoá và hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người ­ yếu tố  cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Chẳng hạn, lịch sử loài người đã phát triển qua 5 giai đoạn và có 5 nền giáo dục   tương ứng với 5 giai đoạn phát triển của xã hội, đó là nền giáo dục công xã nguyên   thuỷ, nền giáo dục chiếm hữu nô lệ, nền giáo dục phong kiến, nền giáo dục tư bản   chủ nghĩa và nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. 2.4. Tính giai cấp Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp – đó là một tính   qui luật quan trọng trong việc xây dựng và phát triển giáo dục. Tính giai cấp của   giáo dục là sự phản ánh lợi ích của giai cấp đó trong các hoạt động giáo dục, thể  hiện Giáo dục cho ai? Giáo dục nhằm mục đích gì? Giáo dục cái gì? và Giáo dục ở  đâu?... Trong xã hội có giai cấp, giáo dục là một phương thức đấu tranh giai cấp,   nhà trường là công cụ của chuyên chính giai cấp, hoạt động giáo dục cũng như môi   trường nhà trường là một trận địa đấu tranh giai cấp. Tính giai cấp của giáo dục  thể  hiện trong toàn bộ  hệ  thống giáo dục và trong toàn bộ  hoạt động của nhà   trường, từ mục đích giáo dục, nội dung giáo dục đến phương pháp và hình thức tổ  chức giáo dục…
  6. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì giai cấp thống trị  bao giờ  cũng dành độc  quyền về giáo dục và dùng giáo dục làm công cụ, phương thức truyền bá tư tưởng,   duy trì vị trí xã hội, củng cố nền thống trị và sự bóc lột của nó đối với nhân dân lao   động. Do đó toàn bộ  nền giáo dục từ  mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục   đến việc tổ  chức các kiểu học, các loại trường và việc tuyển chọn người học,   người dạy…đều nhằm phục vụ cho mục đích và quyền lợi của giai cấp thống trị  xã hội. Nền giáo dục trong xã hội có giai cấp đối kháng mang tính chất bất bình   đẳng, phản dân chủ rõ rệt và tính chất phát triển phiến diện trong việc đào tạo con  người. Nền giáo dục Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục mang tính dân chủ, tính   nhân đạo sâu sắc, hướng vào việc phát triển toàn diện và hài hoà nhân cách của  mọi thành viên trong xã hội. Nhà trường của chúng ta là công cụ của chuyên chính  vô sản theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên mục tiêu chung của giáo dục là nâng  cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước; tạo cơ hội và điều   kiện cho mọi người đều được học tập, được phát triển toàn diện về nhân cách và  trở  thành người công dân,  người lao  động sáng tạo, góp phần tích cực vào sự  nghiệp phát triển đất nước giàu mạnh. Câu 2: Hãy phân tích khái niệm Giáo dục theo nghĩa rộng. Theo anh/chị  Quá  trình dạy học theo nghĩa hẹp và Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp trong thực   tiễn hiện nay có những tồn tại, hạn chế gì? Cho ví dụ minh họa. 1. Giáo dục là gì? ­ Từ  buổi bình minh của nhân loại, con người muốn tồn tại và phát triển đã phải   không ngừng tìm hiểu, khám phá và cải tạo thế  giới khách quan vì lợi ích của cá   nhân và cộng đồng. Trong quá trình nhận thức và cải tạo đó, con người tiếp thu  được những kinh  nghiệm sống và hoạt động.  ­   Đến   một   trình   độ   phát   triển   nhất   định,   khi   xã   hội  tích  luỹ   được   nhiều  kinh  nghiệm sống và hoạt động, thì các thế  hệ  sau không cần phải mò mẫm tìm kiếm   những kinh nghiệm giản đơn, rời rạc và phổ  biến nữa, mà được kế  thừa những   kinh nghiệm của thế hệ đi trước thông qua con đường dạy học và giáo dục. ­ Giáo dục là một khái niệm được hiểu theo nhiều cấp độ rộng, hẹp khác nhau. 
  7. * Theo nghĩa rộng   nhất, giáo dục được hiểu như  là quá trình hình thành và phát  triển nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các tác động từ bên ngoài (gia đình, nhà  trường, xã hội).  * Hiểu theo nghĩa rộng thứ  hai giáo dục là quá trình hình thành và phát triển nhân   cách dưới  ảnh hưởng của những tác động có mục đích, được tổ  chức một cách có  kế  hoạch, có phương pháp, có hệ  thống của các cơ  quan chuyên biệt giáo dục và  đào tạo (hệ thống trường học và các trung tâm giáo dục của xã hội như  trung tâm   giáo dục thường xuyên, trung tâm cai nghiện ma tuý v.v.).  * Hiểu theo nghĩa hẹp giáo dục là quá trình hình thành và phát triển nhân cách   người   được   giáo  dục   dưới   ảnh  hưởng  của   những   tác   động   sư   phạm   của   nhà   trường chỉ liên quan đến một mặt giáo dục như đạo đức, thể chất, thẩm mĩ và cả  lao động sản xuất.  ­ Giáo dục là quá trình truyền thụ  và lĩnh hội hệ thống kinh nghiệm xã hội từ  thế  hệ  này sang thế hệ tiếp nối nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống xã hội và  lao động sản xuất. Kinh nghiệm xã hội  + Là tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, niềm tin, hành vi và thói quen đạo đức.  + Là kĩ năng lao động và kinh nghiệm  ứng xử; là hiểu biết và thói quen về  cuộc  sống; là kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, kĩ năng thích nghi.  Tóm lại, giáo dục là một hiện tượng xã hội phức tạp bao gồm rất nhiều yếu tố: gia   đình; xã hội; nhà trường; tập thể ­ cá nhân; người giáo dục – người được giáo dục;   giáo viên – học sinh; quản lý giáo dục – tác động giáo dục; lý luận giáo dục – thực   tiễn giáo dục. Hiện tượng xã hội này xuất hiện và phát triển cùng với sự xuất hiện   và phát triển của xã hội loài người và tính phức tạp càng tăng lên theo sự phát triển   đó 2. Khái niệm Quá trình dạy học và Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp. 2.1. Bản chất của Quá trình dạy học Quá trình dạy học bao gồm quá trình dạy và quá trình học. Dạy là hoạt động lãnh   đạo, tổ  chức, điều khiển hoạt động học của học sinh. Học là hoạt động do được   sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển nên nó là hoạt động nhận thức đặc biệt. Làm sáng   tỏ luận điểm này là chúng ta đã phân tích được bản chất của quá trình dạy học. Vậy tại sao có thể nói học là hoạt động nhận thức ?
  8. Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người. Đó là sự phản ánh   tâm lý của con người bắt đầu từ  cảm giác. Sự  học tập của học sinh cũng là quá   trình phản ánh như  vậy. Sự  phản ánh đó là sự  phản ánh đi trước, có tính chất cải   tạo mà mức độ  cao nhất của tính chất cải tạo đó là sự  sáng tạo. Sự  phản ánh đó   không phải thụ  động như  chiếc gương mà bao giờ  cũng bị  khúc xạ  qua lăng kính  chủ  quan của mỗi người như qua tri thức, kinh nghiệm, nhu cầu, h ứng thú… của  chủ  thể  nhận thức. Sự phản ánh đó có tính tích cực thể  hiện  ở  chỗ  nó được thực  hiện trong tiến trình phân tích – tổng hợp của não người và có tính lựa chọn. Trong   vô số những sự vật và quá trình của hiện thực khách quan, chủ thể tích cực lự chọn  những cái trở thành đối tượng phản ánh của họ. Vì vậy, với tư cách là chủ thể có ý  thức, học sinh có khả năng phản ánh khách quan về nội dung và chủ  quan về hình   thức, nghĩa là về nội dung học sinh có khả năng phản ánh đúng bản chất và những  quy luật của thế giới khách quan, còn về hình thức, mỗi học sinh có phương pháp   phản ánh riêng của mình. Quá trình học tập của học sinh cũng diễn ra theo công thức nổi tiếng của V.I.Lênin:  “Từ  trực quan sinh động đến tư  duy trừu tượng, từ  tư  duy trừu tượng đến thực   tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực   khách quan”. (Bút ký Triết học – NXB Sự thật, Hà Nội 1963. Tr 189). Xét toàn bộ  quá trình nhận thức chung của loài người cũng như của học sinh đều thể hiệm theo  công thức đó, song trong từng giai đoạn cụ thể, tuỳ theo điểm xuất phát trong quá  trình nhận thức mà có thể đi từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể,   từ đơn nhất đến khái quát và từ khái quát đến đơn nhất. Trong thực tiễn dạy học, do không hiểu đúng công thức đó đã dẫn tới cách xây   dựng nội dung và sử dụng phương pháp dạy học không đúng, dẫn đến việc quá đề  cao vai trò của tính trực quan sinh động mà xem nhẹ vai trò của tư duy logic, tư duy   khái quát, trừu tượng…, hoặc là quá chú trọng đến nhận thức xã hội, thay thế  và   xem xét nhận thức cá nhân bằng nhận thức xã hội. Vậy tính độc đáo trong quá trình nhận thức của học sinh thể  hiện như  thế  nào?   Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học được sự  lãnh đạo, tổ  chức, điều khiển của giáo viên với những điều kiện sư phạm nhất định nên nó có   tính độc đáo, thể hiện như sau:
  9. + Quá trình nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm, thử và   sai như  quá trình nhận thức chung của loài người mà diễn ra theo con đường đã  được khám phá, được những nhà xây dựng nội dung dạy học và người giáo viên gia  công vào. + Quá trình nhận thức của học sinh không phải là quá trình tìm ra cái mới cho nhân   loại mà là tái tạo lại tri thức của nhân loại đã tạo ra, nên cái mà họ nhận thức được   chỉ là mới đối với họ mà thôi. + Trong một thời gian tương đối ngắn, học sinh có thể lĩnh hội một khối lượng tri   thức rất lớn một cách thuận lợi. Chính vì vậy, trong quá trình học tập của học sinh  phải củng cố, tập vận dụng, kiểm tra, đánh giá tri thức, kỹ  năng, kỹ  xảo nhằm  biến chúng thành tài sản riêng của bản thân họ. Trong quá trình dạy học cần phải chú ý tới tính đặc biệt đó trong quá trình nhận   thức của học sinh để tránh sự đồng nhất quá trình nhận thức chung của loài người  với quá trình nhận thức của người học sinh. Song cũng không vì quá coi trọng tính   độc đáo đó mà thiếu quan tâm đúng mức tới việc tổ chức cho học sinh dần dần tìm  hiểu và tham gia các hoạt động khoa học vừa sức, nâng cao dần qua các lớp để  chuẩn bị cho sự khai thác tri thức để tham gia nghiên cứu khoa học trong tương lai. 2.2. Bản chất của Quá trình giáo dục * Khái niệm của quá trình giáo dục:( nghĩa hẹp). Quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) là quá trình mà dưới sự  tổ  chức, lãnh đạo có mục   đích các loại hình hoạt động phong phú, các mối quan hệ  nhiều mặt của người   được giáo dục đối với người khác, với thế  giới xung quanh, các dạng giao lưu đa  dạng giữa họ  với nhau và giữa họ  vói người lớn tuổi khác nhằm hình thành cho  người được giáo dục quan điểm, niềm tin, định hướng giá trị, lý tưởng, động cơ,   thái độ, kỹ  năng, kỹ  xảo, thói quen đối xử  trong các quan hệ  chính trị, đạo đức,  pháp luật, thẩm mỹ, lao động, vệ  sinh và các hành vi  ứng xử  khác thuộc các lĩnh  vực của đời sống xã hội. *Nét bản chất của quá tình giáo dục là làm cho người được giáo dục ý thức đúng   đắn và sâu sắc về nội dung chuẩn mực và ý nghĩa xã hội của việc thực hiện những  chuẩn mực xã hội đó, giúp họ tích luỹ được kinh nghiệm thực tiễn tích cực, có nhu  cầu và thói quen hành động đúng đắn trong các mối quan hệ xã hội, đồng thời xây  
  10. dựng cho họ ý thức và năng lực xoá bỏ những tàn dư của các quan hệ cũ và khẳng   định những quan hệ mới trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. + Quá tình giáo dục là một quá trình có hai mặt: Một mặt là sự tác động có tổ chức,   có mục đích của nhà giáo dục và những  ảnh hưởng của môi trường, của các nhân  tố xã hội, của đoàn thể và của gia đình mà nhà giáo dục có trách nhiệm thống nhất  lại theo một phương hướng,  mục   đích nhất  định.  Mặt khác là  sự  đáp  ứng, sự  hưởng  ứng tích cực của người được giáo dục đối với các tác động và các  ảnh   hưởng bên ngoài, là sự  hoạt động bên trong để  chuẩn hoá những yêu cầu khách  quan của xã hội, thể hiện ở việc biến đổi các tác động và ảnh hưởng đó thành hiện   thực   sinh động,  thành những  phẩm  chất,  những năng  lực,  những nét  tính cách,  những nhu cầu của bản thân người được giáo dục. Tóm lại là sự  hưởng ứng tích   cực của người được giáo dục đối với những tác động định hướng, có tổ  chức của  nhà giáo dục nhằm hoàn thiện nhân cách của bản thân. + Quá trình giáo dục nhất thiết phải chuyển hoá thành quá trình tự giáo dục và giáo   dục lại. Điều đó mới thể hiện đầy đủ sự tích cực của người được giáo dục đối với   những tác động của người giáo dục. + Quá trình giáo dục là quá trình tác động đến các mặt nhận thức, tình cảm, hành vi   và thói quen hành vi về chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ, lao động, vệ sinh…   thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan niệm về  bản chất giáo dục như  vậy hoàn toàn đối lập với các quan niệm  phiến diện, sai lầm về quá trình giáo dục, đó là tách rời quá trình giáo dục với quá   trình xây dựng, cải tạo xã hội, hạn chế quá trình giáo dục trong việc tác động của   nhà sư phạm, trong việc chỉ tác động đến nhận thức mà xem nhẹ việc tổ chức các  loại hình hoạt động thực tế phong phú, đa dạng… 2.3. Sự  khác nhau về  bản chất của quá trình dạy học và quá trình giáo  dục *  Ở  quá trình dạy học, chức năng trội là sự  tác động về  mặt nhận thức của học  sinh nhằm hình thành cho họ sự nắm vững hệ thống tri thức và những kỹ năng, kỹ  xảo tương  ứng. Như vậy, tri thức và những kỹ  năng thực hành vận dụng tri thức   được chú ý đặc biệt ở quá trình này. * Còn ở quá trình giáo dục, chức năng trội của nó là sự tác động trên các mặt cả về  nhận thức, tình cảm, hành vi nhằm giúp cho người đựơc giáo dục ý thức đúng đắn  
  11. và sâu sắc những chuẩn mực xã hội cũng như là ý nghĩa của việc thực hiện những  chuẩn mực đó; Qua đây nhằm giúp cho họ  tích luỹ  được những kinh nghiệm thực  tiễn tích cực, có nhu cầu và thói quen  ứng xử  đúng đắn, phù hợp với các giá trị  chuẩn mực. Như  vậy, việc hiểu đúng và sâu các chuẩn mực xã hội, thể  hiện qua   hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực được đặc biệt chú ý ở quá trình giáo dục. 3.  Quá trình dạy học theo nghĩa hẹp và Quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp   trong thực tiễn hiện nay vẫn có những tồn tại, hạn chế Việt Nam chúng ta đã và đang bước vào một giai đoạn phát triển và hội nhập mới.   Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá đã được xác định là trọng tâm của chiến   lược phát triển quốc gia. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định: Giáo dục và đào  tạo, khoa học và công nghệ  là quốc sách hàng đầu trong đường lối và chiến lược  xây dựng và phát triển đất nước. Ngày 04­11­2013, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp   hành Trung ương Đảng khoá XI đã thông qua Nghị quyết số 29­NQ/TW Về đổi mới   căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp  ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện   đại hóa trong điều kiện kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa và hội   nhập quốc tế. Đảng ta đã chỉ rõ quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục là: “Chuyển  mạnh quá trình giáo dục từ  chủ  yếu trang bị  kiến thức sang phát triển toàn diện   năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn;   giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Nghị quyết   Đại hội lần thứ XII của Đảng đã khẳng định:“ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng   bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm   chất,   năng   lực   của   người   học.   Đổi  mới   chương   trình,   nội  dung  giáo  dục   theo  hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề.   Đa dạng hoá nội dung, tài liệu học tập, đáp  ứng yêu cầu của các bậc học, các   chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người” Ngày  04­5­2017, Thủ  tướng Chính phủ  đã ban hành Chỉ  thị  số  16/CT­TTg  Về  việc tăng   cường năng lực tiếp cận Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngày 27/9/2019,  Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52­ NQ/TW  về một số chủ trương, chính sách   chủ  động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ  tư,  đề  ra một số  chủ  trương, chính sách cơ  bản, quan trọng, với nhiều giải pháp thiết thực và yêu cầu   đổi mới mạnh mẽ  và bổ  sung, hoàn thiện các chính sách, nội dung, phương pháp  giáo dục nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ 
  12. sản xuất mới. Vấn đề  đặt ra cho hệ thống giáo dục nước ta là phải tập trung vào  phát triển phẩm chất và năng lực của người học thông qua việc định hướng các nội   dung, giá trị  chuẩn mực, phù hợp với các đối tượng học sinh, sinh viên khác nhau  để  giúp họ  phát huy được tiềm năng của mình để  học tập và lao động sáng tạo.  Điều này cần được áp dụng  ở  tất cả  các cấp học, các trình độ  đào tạo; đặc biệt,   đối với các ngành học của các trường đại học. Đối với giáo dục và đào tạo, cuộc  cách mạng sản xuất mới sẽ  đặt ra những yêu cầu mới và cao hơn đối với người  lao động; yêu cầu người lao động phải có đủ  kiến thức và kỷ  năng   để  làm chủ  được các công nghệ mới, hiện đại. Yêu cầu ngành giáo dục cần phải có một tầm  nhìn xa trong bối cảnh chuyển đổi liên tục của các hình thức tổ  chức và các yêu   cầu về kỹ năng. Theo đó, người lao động trong tương lai sẽ cần phải có khả năng   học tập suốt đời để  sẵn sàng, thích ứng cho các thay đổi của công nghệ  mới. Các  cơ  quan, doanh nghiệp cũng phải thích  ứng với môi trường đang thay đổi và cần   phải xác định tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân  lực hướng đến mục tiêu phát triển bền vững thông qua hợp tác với các trường đại  học, các viện nghiên cứu. Những bước nhảy vọt của cuộc cách mạng 4.0 đang đặt   ra nhiều thách thức và phát sinh thêm rất nhiều ngành nghề mới trên thị trường lao   động. Sự  thay đổi này đòi hỏi giáo dục phải đem lại cho người học tư  duy về  những kiến thức kỹ  năng mới, khả  năng sáng tạo, thích  ứng với thách thức và  những yêu cầu mới mà các phương pháp giáo dục truyền thống không thể đáp ứng  được cho sự  phát triển của mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp.... và   toàn xã hội. Để có thể đáp ứng  được những yêu cầu mới  đặt ra đối với người lao  động, cùng với các chính sách về lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y   tế....,thì các chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng cần được sửa đổi,  bổ  sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn của đất nước và của cuộc cách  mạng công nghiệp 4.0. Vài nét về  bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  tư  và sự  tác   động của nó đối với giáo dục và đào tạo Việt Nam Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được hình thành trên nền tảng của cuộc cách  mạng công nghiệp lần thứ  ba; có thể  nói đây là sự  kế  thừa và phát triển tri thức   của nhân loại; là sự hợp nhất của các loại công nghệ  và làm mờ  đi ranh giới giữa  các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí tuệ 
  13. nhân tạo (AI), Robotics, Internet kết nối vạn vật (IoT), điện toán đám mây, khoa   học vật liệu, sinh học, công nghệ di động không dây, công nghệ nano, tự động hoá  công nghệ in 3 chiều (3D), khoa học mang tính liên ngành phức hợp, sâu rộng với   nền tảng là đột phá của công nghệ  số, đáp  ứng đòi hỏi của nền kinh tế  tri thức,   của xã hội tri thức, trong xu thế toàn cầu hoá. Sáng tạo công nghệ cũng sẽ dẫn đến   sự thay đổi lớn từ phía nguồn cung, với những lợi ích lâu dài về hiệu quả và năng   suất lao động. Cuộc cách mạng này đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra  nhiều cơ  hội để  tăng năng suất lao động của các sản phẩm và dịch vụ  mới cho   phép con người và xã hội có cuộc sống tốt đẹp, văn minh, hiện đại. Tuy nhiên, khi  các công nghệ mới thay thế  các công việc sử dụng nhiều lao động có thể dẫn đến  thất nghiệp của số lớn lao động giản đơn, thậm chí là gây ra bất bình đẳng, dẫn   đến sự phân tầng trong xã hội. Vấn đề này cần phải được nghiên cứu, dự báo một  cách nghiêm túc, khách quan , khoa học trong quá trình phát triển. Một trong những  yêu cầu để chuẩn bị cho cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là làm sao để con người  có thể đáp ứng được các yếu tố về kiến thức mới và kỹ năng mới liên tục thay đổi  trong môi trường lao động mới của khoa học, kỹ  thuật tiên tiến, hiện đại ?. Điều   này đặt ra cho giáo dục và đào tạo nước ta sứ mệnh đặc biệt quan trọng, mang tính   chiến lược   là chuẩn bị  đội ngũ nguồn nhân lực mới đáp  ứng yêu cầu phát triển   nhanh, bền vững của đất nước. Chúng ta đều nhận thấy và trăn trở với vấn đề đặt   ra là chuyển từ  một nền giáo dục nặng về  trang bị  kiến thức, kỹ năng cho người   học sang một nền giáo dục giúp phát triển tư  duy, năng lực, thúc đẩy đổi mới và  sáng tạo cho người học, học đi đôi với hành; lý luận gắn liền với thực tiễn. Với sự  xuất hiện của nhiều mô hình học tập mới, sáng tạo, hiệu quả gắn liền cùng với sự  phát triển của khoa học công nghệ, truyền thông, internet, mạng xã hội ... đã làm   cho các phương pháp giáo dục truyền thống đang chịu nhiều thách thức, áp lực đối   với cả người dạy và cả người học. Một trong những điểm nổi bật là sự  phân hóa  đến từng ngành học, từng trường học, từng đối tượng người học. Mỗi học sinh,  sinh viên có nhu cầu và khả năng học tập khác nhau. Các tiến bộ về công nghệ cho   phép các nhà giáo dục có thể thiết kế lộ trình học tập riêng biệt phù hợp với từng   ngành học, từng trường hợp cụ thể. Các phần mềm giáo dục đã được đưa vào sử  dụng có khả  năng thích nghi với năng lực của mỗi học sinh, sinh viên và cho phép   họ theo học với tốc độ  phù hợp với nhu cầu của bản thân. Việc tiếp cận thông tin 
  14. trở  nên dễ  dàng hơn bao giờ  hết dẫn đến một câu hỏi mà các nhà giáo dục cần   phải trả  lời là xác định kiến thức cốt lõi mà người học cần được trang bị  trong  tương lai. Vì vây, các nhà giáo dục ngày nay quan tâm nhiều hơn đến việc dạy,   hướng dẫn người học cách tự  học, cách tư  duy, cách đánh giá các tình huống, các   vấn đề  phức tạp trong cuộc sống của xã hội, qua đó hình thành phẩm chất, năng  lực giải quyết vấn đề  một cách khách quan, khoa học và phù hợp với thực tiễn,   đem lại kết quả thực sự cho cuộc sống của con người và xã hội trong thời đại mới. Để  có thể  tận dụng được hiệu quả của các cơ  hội, vượt qua những thách thức từ  cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thời gian tới, hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục  đại học nước ta cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau đây: Một là, cần tiếp tục củng cố và tăng cường, bảo đảm các yếu tố cơ bản nền móng   và đổi mới tư  duy về  phát triển giáo dục, đào tạo trong tổng thể  chiến lược phát  triển kinh tế ­ xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Mục tiêu là đào  tạo đội ngũ lao động chất lượng cao đáp  ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững  của đất nước; cụ thể là chuyển từ biệt lập, tự phát về số  lượng sang chất lượng,   có kết nối giữa đào tạo và sử  dụng lao động, từ  cách đào tạo làm cho người học   thụ  động sang chủ  động sáng tạo, không ngại đương đầu với những khó khăn,  thách thức trong sự  phát triển mạnh của khoa học công nghệ, thông tin, truyền   thông và hội nhập quốc tế. Hai là, Nhà nước cần kịp thời bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý tạo môi trường  thuận lợi để  phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích phát triển thị  trường nguồn   nhân lực chất lượng cao; thị trường sản phẩm khoa học công nghệ  phải phản ánh  đầy đủ quan hệ cung ­ cầu, qua đó, làm căn cứ hoạch định chiến lược và chính sách  trọng tâm, trọng điểm phù hợp cho sự  phát triển lâu dài của đất nước; đồng thời,  cần có chính sách hỗ  trợ  hình thành và phát triển các vườn  ươm khởi nghiệp, đổi  mới sáng tạo trong các trường đại học đào tạo về khoa học, kỹ thuật và công nghệ;  Gắn kết chặt chẽ giữa các vườn  ươm khởi nghiệp với các trường đại học và các  doanh nghiệp, các khu kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ  cao. Ba là, cần phát triển mô hình giáo dục đại học 4.0. Đây là mô hình giáo dục thông   minh, liên kết giữa nhà trường với nhà quản lý và doanh nghiệp. Cho nên, các cơ sở  giáo dục đại học cần tăng cường liên kết với các doanh nghiệp, các trường đại học  
  15. quốc tế để xây dựng các phòng thí nghiệm đủ tiêu chuẩn với các thiệt bị, kỹ thuật   hiện đại của một số ngành kinh tế mũi nhọn trọng điểm mà nước ta có ưu thế theo  hình thức hợp tác công – tư; xây dựng mô hình giáo dục 4.0 theo kịp với xu hướng   công nghệ hiện đại trong sự hình thành nền kinh tế số.  Nghiên cứu và phát triển là  chìa khoá quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế ­ xã hội;cần gắn kết chặt chẽ  có hiệu quả giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất, giữa sản xuất với nghiên cứu  khoa học trong quá trình tạo ra các sản phẩm phục vụ thiết thực cho cuộc sống của   con người và xã hội. Bốn là, các trường đại học cần tập trung xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ  nghiên cứu có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, nhất là tiếng anh; cần có chính sách  thu hút cán bộ  giỏi, có trình độ  kỹ  thuật cao, các chuyên gia trong và ngoài nước   hợp tác với nhà trường. Đổi mới cơ chế quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học, tăng   cường đầu tư cơ sở vật chất, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại   đội ngũ giảng viên là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định đối với nâng cao chất  lượng giáo dục, đào tạo của đất nước trong điều kiện của cuộc cách mạng công   nghiệp 4.0 Năm là, đối với các nội dung, chương trình đào tạo về lĩnh vực khoa học xã hội và  nhân văn cần sử dụng các công nghệ  thông tin, truyền thông hiện đại để  làm sáng   tỏ  thêm những kiến thức khoa học cơ  bản về  quy luật phát triển của xã hội, về  mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên, con người và xã hội trong sự phát triển của  nhân loại phù hợp với xu hướng của thời đại mới. Tăng cường và đổi mới nội  dung, chương trình đào tạo, nghiên cứu về khoa học Mác­ Lênin, tư  tưởng Hồ Chí  Minh, về lịch sử, văn hoá dân tộc, con người Việt Nam  gắn liền với thực tiễn của  cách mạng công nghiệp 4.0 và công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và chủ động  hội nhập quốc tế, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam   xã hội chủ nghĩa. Tài liệu tham khảo: 1. Hà Thị Đức, (2002) Giáo dục h c đại cương, Đại học Huế. 2. Trần Thị Tuyết Oanh (2006), Giáo trình giáo dục học tập 1,2 ,  NXB ĐHSP
  16. 3. Hà Thị Mai (2013) Giáo trình giáo dục học đại cương, ĐHĐL,  tài liệu lưu hành nội bộ 4. Hà Thế Ngữ (2001) Giáo dục học – Một số vấn đề lý luận và  thực tiễn, NXB ĐHQG Hà Nội. 5. Suy nghĩ về  hệ  thống giáo dục và đào tạo nước ta trong bối  cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  tư  ­  TS. Nguyễn  Văn Hùng ­ Hội đồng Lý luận Trung ương (2019)
nguon tai.lieu . vn