Xem mẫu

  1. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 MÔN: VĂN HỌC TRUNG QUỐC TÁC PHẨM: TAM QUỐC DIỄN NGHĨA - LA QUÁN TRUNG Câu 1: Vấn đề tác giả và văn bản tác phẩm: a. Tác giả: (vắn tắt) b. Tam quốc diễn nghĩa: từ truyền thuyết dã sử đến tác phẩm văn học mang dấu ấn cá tính sáng tạo. Bài làm: I. Tiểu sử tác giả La Quán Trung tên là Bản, tên chữ là Quán Trung, lại có biệt hiệu là "Hồ Hải tản nhân" có thểLUẬN TÁC PHẨM: TAMrằng ông BÀI THẢO là người Thái Nguyên (còn có thuyết cho làQUỐC Lăng Tiền NGHĨA - Nguyên. v. v ...). Ông sinh vào cuối người Lư DIỄN Đường, Đông LA QUÁN TRUNG đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh, ước chừng vào khoảng năm 1300 đến năm 1400 giữa thời thống trị của nhà Nguyên Thuận Đế (Thỏa Hoàn Thiếp Mộc Nhĩ) và Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương). Có thuyết còn nói rõ rằng ông sinh năm 1328 và mất năm 1398. Ông rất có tài văn chương, rất giỏi về từ khúc, câu đối, lại viết cả các loại kịch, nhưng nổi tiếng nhất là về tiểu thuyết. Ông là tác giả của cuốn tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa và còn có thuyết cho rằng: La Quán Trung cũng là một người tham gia soạn và chỉnh biên tác phẩm Thủy hử, đó là hai cuốn tiểu thuyết trong Tứ đại danh tác – bốn tác phẩm nổi tiếng nhất trong văn học cổ điển Trung Hoa. Nhiều sử gia văn học không chắc chắn rằng hai người này là một, hay là tên Thi Nại Am được dùng làm bút danh của Thủy BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 1
  2. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Hử vì tác giả không muốn bị dính líu vào việc chống chính phủ như trong tác phẩm này. Ông là người đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử đời Minh-Thanh. Theo Vương Kỳ đời Minh thì La Quán Trung học rộng, biết nhiều, tính tình thích cô độc, có chí đồ vương bá. Ông đã từng làm mạc khách trong cuộc khởi nghĩa của Trương Sĩ Thành. La Quán Trung xuất thân từ một gia đình quý tộc. Tuổi thanh niên ông nuôi chí phò vua giúp nước; song lúc đó, triều đình nhà Nguyên đang suy tàn, ông bỏ đi phiêu lãng nên có biệt hiệu là Hồ Hải tản nhân. Ông là một trong những người "có chí mưu đồ sự nghiệp bá vương". Tiếc rằng tình hình tường tận thế nào nay không thể biết rõ được. La Quán Trung tương truyền từng tham gia cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyên của Trương Sĩ Thành. Sau khi Trương Sĩ Thành thất bại, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lên ngôi, thống nhất đất nước, ông lui về ở ẩn, sưu tầm và biên soạn dã sử. II. tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa còn có tên khác là Tam quốc, Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung viết vào thế kỷ 14 kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (220-280). Tiểu thuyết này được xem là một trong bốn tác phẩm cổ điển hay nhất của văn học Trung Quốc. Đây là bộ tiểu thuyết dài 75 vạn chữ, nổi tiếng của Trung Quốc, căn cứ vào tài liệu lịch sử và truyền thuyết dân gian mà viết ra. Từ đời Đường BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 2
  3. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA (618-907), những câu chuyện Tam quốc đã được lưu hành rộng rãi trong nhân dân. Đến đời Tống (960-1279), những câu chuyện và những nhân vật thời Tam quốc được chọn làm đề tài cho sáng tác truyền miệng và các hình thức biểu diễn nghệ thuật khác nhau. Đến đời Nguyên (1271-1368), có trên 30 vở kịch lịch sử lấy đề tài từ chuyện Tam quốc, quán triệt tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào”, khẳng định tập đoàn Thục Hán. Cuối đời Nguyên, đầu đời Minh (1368-1644), La Quán Trung dựa trên cơ sở sáng tác tập thể của quấn chúng nhân dân, kế thừa tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào”, tham khảo những vở kịch nổi tiếng, những bản ghi chép của các nhà viết sử, và bằng tài năng văn học kiệt xuất của mình, ông đã chỉnh lý Tam Quốc diễn nghĩa thành tác phẩm văn học ưu tú được quảng đại quần chúng nhân dân ưa thích và đời đời truyền tụng. câu chuyện gần một trăm năm, sự việc nhiều nhưng không rối là do ngòi bút có khuynh hướng của La Quán Trung. Tác giả đứng về phía Lưu Thục lên án Tào Ngụy, còn Tôn Ngô chỉ là lực lượng trung gian. Mặc dù còn dấu ấn khá đậm của tư tưởng chính thống và sự thực lịch sử không hẳn như thế, nhưng truyền thuyết “ủng Lưu phản Tào” là khuynh hướng vốn có của hầu hết các truyền thuyết về thời Tam Quốc lưu hành trong nhân dân. Nó phản ánh nguyện vọng có một “ông vua tốt” biết thương dân và vì dân, một triều đình thực hiện “nhân chính”, một đất nước thống nhất và hoà bình. Sau khi tác phẩm ra đời, lần lượt có nhiều bản in khắc khác nhau. Đến cuối đời Minh đã có 20 bản, nhưng nội dung không khác bản của La Quán BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 3
  4. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Trung là bao, chỉ thêm vào một số chú thích, tranh vẽ, phê bình hoặc khảo chứng. Bản lưu hành rộng rãi cho tới ngày nay là bản Tam Quốc diễn nghĩa do hai cha con nhà phê bình văn học đời Thanh (1644-1911) là Mao Luân, Mao Tôn Cương tu sửa, chỉnh lý lại các hồi mục, thêm bớt sử liệu, bài thơ, xen vào những lời bình. Công việc này hoàn thành năm 1679. Theo trí tưởng tượng của tác giả truyện Trọng Tương vấn Hán thì Hán Cao Tổ đã đầu thai thành hoàng đế cuối cùng nhà Hán là Hán Hiến Đế, và ba vị tướng được luân kiếp thành vua ba nước khác nhau: Hàn Tín hoá thành Tào Tháo; Bành Việt hoá thành Lưu Bị; và Anh Bố thành Tôn Quyền. Lần này hoàng đế nhà Hán phải chịu sự trừng phạt qua bàn tay Tào Tháo. Bộ Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung trong quá khứ có tới 20 bản. Tiểu thuyết chương hồi Tam Quốc diễn nghĩa 120 hồi mà ngày nay nhiều người trong chúng ta biết đến do La Quán Trung viết ra vào khoảng những năm 1330 và 1400 (khoảng cuối nhà Nguyên đầu nhà Minh), do cha con nhà phê bình Mao Tôn Cương đời nhà Minh chỉnh lý, hoàn thành vào khoảng năm 1522. Tiểu thuyết này được viết bằng thứ chữ Hán dễ đọc và được xem là tác phẩm chuẩn mực trong suốt 300 năm. La Quán Trung đã sử dụng phần lớn tư liệu lịch sử trong Biên niên sử Tam Quốc do Trần Thọ biên soạn bao gồm các sự kiện từ thời Loạn Khăn Vàng vào năm 184 cho tới lúc thống nhất ba nước dưới thời nhà Tấn vào năm 280. La Quán Trung đã kết hợp những kiến thức lịch sử này cùng với tài năng kể chuyện hấp dẫn của mình để tạo ra một loạt tính cách nhân vật tiêu biểu. BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 4
  5. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Tam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết sử thi nên giọng điệu chủ yếu là ca ngợi hay châm biếm hài hước để phê phán. Khoa trương phóng đại để ca ngợi những kỳ tích của các anh hùng hảo hán như phóng đại những khó khăn hiểm trở để thử thách tài năng võ nghệ của các anh hùng. Các nhân vật luôn có vóc dáng khác người, những hành động phi thường và tâm hồn họ cũng khác với người thường. Có lẽ vì thế, có thể có nhiều trận đánh ác liệt tử vong rất nhiều nhưng không gây không khí bi thảm. Ngôn ngữ của Tam quốc diễn nghĩa là sự kết hợp giữa văn ngôn và bạch thoại, sử dụng được ngôn từ thông dụng trong nhân dân. Ngôn ngữ kể lấn át ngôn ngữ miêu tả, và trong ngôn ngữ miêu tả rất ít sử dụng định ngữ và tính từ. Người Trung Quốc gọi loại miêu tả ngắn gọn như vậy là lối bạch miêu, nhưng nhờ lối kể chuyện khéo léo, đối thoại sinh động và sử dụng rộng rãi khẩu ngữ, các truyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, chuyện lịch sử v.v... nên đã tạo cho tác phẩm một vẻ đẹp hấp dẫn vừa bác học và dân dã. Tam quốc diễn nghĩa tuy có nhiều phần hư cấu, nhưng được xây dựng trên cơ sở của sự thật lịch sử thời tam Quốc (220-280). Câu chuyện xảy ra từ cuối đời Đông Hán đến đầu đời Tấn, nhưng đã phản ánh giai cấp, mâu thuẫn dân tộc phức tạp thể hiện nguyện vọng thống nhất đất nước chống ngoại xâm của nhân dân thời Tống Nguyên. La Quán Trung phác họa bộ mặt phá hoại ghê gớm của các tập đoàn quân phiệt Như vậy, từ truyền thuyết dã sử đến tác phẩm văn học, Tam Quốc diến nghĩa đã mang dấu ấn cá tính sáng tạo của nhiều tác giả, nổi bật nhất là La Quán Trung. Vì vậy, tên gọi của tác phẩm gắn liền với tên tuổi của ông. Các nhân vật trong tác phẩm được tác giả khác họa rõ nét có nhiều điểm khác với nhân vật trong lịch sử BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 5
  6. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Câu 2: Dựng lại sơ đồ cốt truyện của Tam quốc diễn nghĩa theo trục thời gian từ năm 184 đến năm 280 theo các mốc chính sau đây: 184, 189, 190, 196, 208, 220-265, 221, 222, 234, 263, 279, 280 Bài làm Tam quốc diễn nghĩa là bộ tiểu thuyết ưu tú sống mãi trong lòng người đọc. La Quán Trung có tài văn chương giỏi từ khúc, có khả năng sáng tác kịch nhưng thành tựu chủ yếu của ông là tiểu thuyết. Chuyện phân tranh giữa ba nước Nguỵ, Thục Ngô bắt đầu từ năm 220 khi tào Phi phế Hán Hiến để lập nhà Nguỵ cho đến năm 280. Trong khuôn khổ bài tập nhóm chúng tôi xin được nêu tóm tắt sơ đồ các sự kiện gắn với các năm theo trục thời gian sau: (từ năm 184 đến năm 280 sau công nguyên). Mốc thời gian Sự kiện Năm 184 Cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng do ba anh em Trương Giác, Trương Bảo, Trương Lương lãnh đạo đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia với khí thế lừng lẫy Vào thời Hán hoàng đế Lưu Chí Hán Linh Đế Lưu Hoàng, nền chính trị nhà Hán mục Ruỗng, nhà vua tin dùng lũ hoạn quan cấm cố những hiền sĩ . Các tập đoàn vũ trang của giai cấp địa chủ ra sức đàn áp nghĩa quân, đồng thời tìm cách tiêu diệt lẫn nhau chính sự trong triều ngày càng đổ nát, cảnh chết chóc xảy ra khắp nơi. Khởi nghĩa Khăn Vàng thất bại BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 6
  7. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA nhưng chính quyền cũng suy yếu và sụp đổ hoàn toàn. Năm 189 Vua Hán Linh Đế mất, quyền lực nằm trong tay Hà Tuấn. Bất chấp lời khuyên của Tào Tháo, Hà Tuấn triệu tập quân khắp nơi về kinh tiêu diệt bọn hoạn quan. Đổng Trác đem quân tới hộ giá, nhưng sau đó hắn không thực hiện lời hứa. tại bữa tiệc ở Ôn Minh trác rắp tâm thực hiện chí lớn phế thiện đế Lưu Biện lập Hiến đế Lưu Hiệp lên làm vua tác yêu tác quái trong chiều Năm 190 Mười báy đạo quân địa phương: Viên Thuật, Hàn Phức, Khổng Du, Lưu Đại, Vương Khuông, Trương Mặc, Kiều Mạo, Viên Di, Pháo Tín, Khổng Du, Trương Siêu, Đào Khiêm, Mã Đằng, Công Tôn Toản, Trương Dương, Tôn Kiên, Viên Thiệu họp thành quan Đông quân do Viên Thiệu cầm đầu tiến quân vào Lạc Dương đánh Đổng Trác. Năm 196 Loạn Đổng Trác bị dập tắt. Vì loạn lạc, nền kinh tế nông nghiệp bị tổn hại nghiêm trọng, kinh thành Trường An, Lạc Dương bị phá hủy tan tành. Các tập đoàn vũ trang không ngừng tăng cường trong đó mạnh nhất là: Viên Thiệu, Viên thuật và tào Tháo Năm 208 Đại bại ở Xích Bích, tham vọng vượt Trường Giang, nuốt Đông Ngô, thống nhất Nam Bắc của Tào Tháo sụp đổ. Lực lượng của Tôn Quyền ở Giang Nam và Lưu Bị ở Kinh Châu được củng cố và lớn mạnh. Thế chân vạc hình thành. Từ năm 220 đến Lưu Bị xưng đế ở Hán Trung lập nên Thục hán . Tôn Quyền năm 265 hàng Ngụy và được nhận tước vương. Lưu Bị cất quân đánh Đông Ngô để báo thù cho Quan Vũ rồi thất bại tại Hào Đình, BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 7
  8. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA phải rút chạy về thành Bạch Đế và mất tại đây. Con Lưu Bị là Lưu Thiện nối ngôi. Gia Cát Lượng chịu sự ủy thác của Lưu Bị quyết xoay chuyển tình thế bằng chủ trương Bắc phạt vào năm 227, sáu lần ra Kì Sơn và chính sách Liên Ngô Kháng Tào nhưng không thành Gia Cát Lượng bỏ mình tại Ngũ Trượng Nguyên. 263 Lưu Thiện hàng Ngụy, nhà Thục Hán bị diệt vong. 265 Tư Mã Viêm diệt Ngụy, xưng vua và lập nên nhà Tấn. Năm 221 Đại bại ở Hào Đình, Lưu Bị chạy về thành Bạch Đế . Tào Phi cất quân đánh Đông Ngô thất bại. Ngô , Ngụy từ đó không hòa nhau. Năm 222 Lưu Bị mất, giao phó con và đất nước cho Gia Cát Lượng. Lưu Thiện nối ngôi, niên hiệu là Kiến Hưng Năm 234 Gia Cát Lượng cất quân ra Kì Sơn đánh Ngụy lần thứ năm, giết được tướng Ngụy là Trương Cáp. Năm 263 Tướng Ngụy là Đặng Ngải, diệt Thục, Lưu Thiện đầu hàng. Nhà Ngô có địa thế Giang Đông hiểm yếu, có binh hùng tướng mạnh, lấy thủ làm công, nhiều lần đánh bại Ngụy, Thục. Sau khi Tôn Quyền chết, Đông Ngô thế yếu dần. Năm 279 Tư Mã Viêm cất quân đánh vào Kiến Nghiệp Nhà Ngô bị diệt,Nhà Tấn thống nhất Trung Quốc Năm 280 Quân Ngô thất bại, Ngô chủ Tôn Hạo trói mình xin hàng. Tư Mã Viêm thống nhất Trung Quốc. Thế chân vạc kết thúc từ đấy. BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 8
  9. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Câu 3: Gía trị hiện thực của tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa Bài làm: - Tác phẩm kể lại quá trình hình thành, phát triển và diệt vong của ba tập đoàn phong kiến cát cứ Ngụy, Thục, Ngô trong thời gian 97 năm từ năm 184, năm nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Hoàng Cân (Khăn vàng) đến năm 280 họ Tư Mã thống nhất Trung Quốc lập ra nhà Tấn. Với thời gian gần trăm năm, không gian trải trên đất nước Trung Quốc rộng lớn, nội dung Tam Quốc Chí vô cùng phong phú. Trước hết đó là bức tranh cụ thể và sinh động về đời sống chính trị của xã hội phong kiến thời Tam quốc, một xã hội phong kiến điển hình phương Đông với hai đường nét cơ bản là cát cứ phân tranh và cá lớn nuốt cá bé. Cát cứ phân tranh là một hiện tượng quen thuộc của lịch sử Trung Quốc, từ Đông Chu liệt quốc, Xuân thu Chiến quốc, đến Hán – Sở tranh hùng nay lại vào thời Tam Quốc kéo dài gần trăm năm. Chỉ riêng tên gọi của tác phẩm đã nói lên điều này. Mở đầu tác phẩm người đọc đã thấy một quy luật “thế lớn trong thiên hạ hợp lâu tất phân, phân lâu tất lại hợp”. Quy luật này chi phối các đế chế Trung Hoa. Các tập đoàn quân phiệt coi chiến tranh là nguồn sống duy nhất, là phương tiện để tranh quyền đoạt lợi. Chính vì vậy mà chúng không từ một thủ đoạn nào. Hậu quả của cuộc tranh đoạt này là biết bao kinh đô phồn vinh, biết bao giá trị văn hóa vật chất và phi vật chất của nhân dân bị thiêu hủy và hơn cả là xương máu của hang vạn nhân dân Trung Hoa phơi đầy đồng nội. - Tác phẩm đã vẽ nên một bức tranh lịch sử sống động , tạo dựng được những nhân vật lịch sử có xương thịt, có lời ăn tiếng nói riêng, có diện mạo BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 9
  10. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA riêng và tính cách không lẫn với ai, trở thành những nhân vật lịch sử điển hình chịu được sử thử thách của thời gian. - Tác phẩm cung cấp cho chúng ta một cái nhìn khâm phục về chiến lược, sách lược các bên tham chiến, trong gần 100 năm đã có biết bao trận chiến xảy ra có những trận chiến đẫm máu nhưng cũng có những trận chiến không tốn một giọt máu nào. - Tác phẩm cũng nói lên nguyện vọng tha thiết của nhân dân mong muốn được sống một cuộc đời thanh bình và thống nhất, đồng thời vạch trần tội ác của bọn vua quan phong kiến đã gây nên cuộc chiến tranh đẫm máu và chia cắt đất nước lâu dài. Đầu tiên tác giả phê phán vương triều nhà Hán đã “cấm cố những bậc hiền sĩ, tin dung bọn hoạn quan” làm cho “triều đình đổ nát”, làm rối lòng người thiên hạ, khiến giặc dã nổi lên”. Trong tác phẩm tuy cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân bị miêu tả thành bọn cường khấu, nhưng tác giả không che giấu một sự thật là số nghĩa quân của họ đã tăng lên đến mấy chục vạn người, trừng trị không chút thương xót bọn tham quan ô lại và “rất được lòng dân” =>Tam Quốc đã tái hiện được bức tranh nước Trung Hoa thời Tam Quốc phân quyền loạn lạc vì chiến tranh. Tác giả đã thể hiện được long căm ghét của quần chúng đối với nạn cát cứ phân tranh, đối với bọn quân phiệt trí trá, tàn bạo, nham hiểm. Mặt khác bày tỏ nguyện vọng của quần chúng về một vị vua sáng tôi hiền với các nhân vật anh hùng trí dũng. Chính vì vậy tác phẩm vừa có tính hiện thực vừa có tính nhân dân sâu sắc. BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 10
  11. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Câu 4:Phân tích các nhân vật trong truyện Tam quốc diễn nghĩa Bài làm Trong tiểu thuyết Tam Quốc hệ thống các nhân vật được tác giả phân định rất rạch ròi với 2 bên chính tà ,thiện ác ,trắng đen.Chính bởi vậy tính cách của từng nhân vật được khắc hoạ một cách chi tiết và đặc sắc 1.TÀO THÁO Bản thân nhân vật Tào Tháo trong lịch sử có nhiều điểm khác với nhân vật trong tác phẩm.Xét về tài năng Tào Tháo không chỉ là nhà quân sự ,nhà chinh trị mà còn là một nhà thơ nổi tiếng “Kiến An thất tử” (bảy nhà thơ lớn thời Kiến An ).Nhưng sau mấy thế kỷ khi đi vào Tam Quốc thì tính cách nhân vật này lại tượng trưng cho sự gian hung ,nham hiểm ,tàn bạo, ích kỷ ,hại nhân…hoàn toàn đối lập với Lưu Bị. -NGOẠI HÌNH : Được miêu tả có dáng cao 7 thước ,mắt nhỏ dâu dài -TÍNH CÁCH: Dẫu bản thân là con người tàn ác nhưng không ai có thể phủ nhận tài năng đặc biệt của Tào Tháo trong việc chiêu hiền đãi sĩ ,tầm nhìn bao quát toàn thiên hạ .Cuộc đấu tranh chính trị phức tạp giữa 3 nước Nguỵ Thục Ngô đã đúc kết nên tính cách phức tạp của Tào Tháo. “Đa nghi như Tào Tháo” đã trở thành câu nói ám chỉ những người nham hiểm.Trong truyện có những chi tiết như trước khi chết Tháo dặn vợ con đắp 72 cái mộ ngoài thành phòng sau này có kẻ đào trộm. Tào Tháo có tài có kiến thức nên bản tính nham hiểm tàn bạo của y lại càng trở nên đáng sợ .Nễ Hành chưi Tào trước đám đông Tào không giết nhưng Dương Tu chưa chửu Tào lần nào nhưng lại bị giết vì theo Tháo “người chửu ta ai cũng biết cả,không giết họ ,ta đựơc mọi người cho là độ lượng ,nhưng người rõ được ý nghĩ riêng của ta mà không giết là nguy” Thế nên sau khi xuất hiện trên vũ đài chính trị Tào Tháo lấy câu châm ngôn “thà ta phụ người chứ quyết không để người phụ ta” lam phương châm xử thế. Đó là chiết lý nhân sinh biểu hiện tính cách ích kỷ hại nhân của tập đoàn phong kiến thống trị BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 11
  12. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA -TÀI NĂNG: Không ai có thể phủ nhận Tào Tháo là con người cơ mưu ,dũng cảm và sảo trá,tàn bạo đã thống nhất với nhau nhưng nhiều lúc âm mưu thâm độc ấy lại được che đậy bởi tài năng và phong độ của một nhà chính trị. Tác giả để cho Tào Tháo nói về tài “kinh bang tế thế” của mình: “anh hùng trong thiên hạ bây giờ chỉ có Sứ Quân( Lưu Bị) và Tháo mà thôi” Tào Tháo biết nhìn xa trông rộng, có tài phán đoán thời thế. Khi Hà Tiến định rước quân phiệt Đổng Trác vào kinh, Tào Tháo biết đây là việc “rước voi giày mả tổ”, nên can ngăn. Hà Tiến không nghe, Tào Tháo bỏ đi còn nói: “Làm loạn thiên hạ ắt Hà Tiến”. Quả thế không sai, sau đó không lâu. Cơ nghiệp trên 400 năm của nhà Hán bị sụp đổ tan tành Bị núp dưới bóng là nhân vật phản diện nhưng trong suốt quá trình sáng tạo hình tượng nghệ thuật này La Quán Trung không mạt sát tính cách đáng khẳng định của Tào Tháo- một chính trị gia thời tam quốc.Người biết dựa thời cơ,nhìn thấy tài năng của người khác nên đã tập hợp được hàng nghìn viên tướng giỏi suốt đời tận tuỵ với sự nghiệp của mình. Vì muốn củng cố quyền lực của mình sự tàn ác của Tào Tháo là không tránh khỏi .Những việc như “chèn ép vua Hiến Đế”, “giết thái y Cát Bình”, “treo cổ Đổng Quý Phi đang mang long thai”, “hay đánh phục Hoàng Hậu đến chết”…tất cả cũng vì mưu đồ nghiệp lớn của kẻ hùng tài đại lược -Tào Tháo là tiêu biểu cho tính cách phản diện, là sự phát triển cao hơn, sâu hơn cái tàn bạo bất nhân của một Đổng Trác, tính tráo trở hai lòng “hữu dũng vô mưu” của Lã Bố. 2.GIA CÁT LƯỢNG Trong mấy trăm năm qua,khi bạn đọc nhắc đến nhân vật này vẫn thường nói đến sự khâm phục,trí tuệ của một vị hiền triết học rộng tài cao. -XUẤT HIỆN: Gia Cát Lượng xuất hiện phần nào bí ẩn như cuộc đời bí ẩn của ông vậy. Độc giả làm quen với ông qua lời giới thiệu của Từ Thứ trước khi từ biệt Lưu Bị trở về với Từ mẫu bên doanh trại Tào: “trong vùng này có một bậc kỳ sĩ ở Long Trung ,cách Tương Dương hai mươi dặm …nếu được người đó không khác gì nhà Chu được Lã Vọng ,nhà Hán được Chương Lương”.Rồi lời khen của Tư Mã Huy: “Khổng Minh co thể so sánh với Khương Tử Nha làm nên cơ nghiệp tám trăm năm của nhà Chu và Chương Tử Phòng làm nên cơ nghiệp bốn trăm năm của nhà Hán”.Tuy những lời nói về hình ảnh Gia Cát Lượng còn phần nào mờ nhạt,và ấn tượng chưa sâu nhưng đã phần nào hé mở chân dung của một hiền sĩ đại tài . BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 12
  13. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA -QUÊ HƯƠNG: Là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông,quận Lang Nha , đời Thục Hán). Đó là một mảnh đất có “ phong cảnh Long Trung núi không cao nhưng thanh nhã ,nước không sâu mà trong suốt, đất chẳng lấy gì làm to tát thế mà rậm rạp.Vượn hạc quấn quýt,thông trúc um tùm ngắm mãi không chán…”.Quê hương xứ sở ấy đã sinh ra người hiền sĩ ẩn dật,một nhân vật của lịch sử . -NGOẠI HÌNH: Mình cao tám thước ,mặt như ngọc dát nhũ , đầu đọi khăn lượt ,mình bận áo cánh hạc,hình dung thanh thoát như tiên -TÀI NĂNG: Khổng Minh có tầm nhìn xa trông rộng ,học vấn uyên bác,biết địch biết ta nhiều mưu mẹo,giỏi dự đoán vạch ra những chiến thuật để dành chiến thắng Khổng Minh xứng đáng là người quân sư tài năng,tỉnh táo trong mọi tình huống,nhất là cuộc đấu trí giữa 3 tập đoàn Nguỵ ,Ngô,Thục,Khổng Minh luôn được miêu tả vượt nhiều đối thủ xuất sắc (hồi 56,103…) Trong quân sự chính Khổng Minh là người chủ động tạo ra nhiều chiến thuật: trận Bát Đồ,Liên Nỏ,Mộc Ngu Lưu Mã…và đều phát huy thế trận dành chiến thắng. Chính sách pháp trị của ông là: “nhân chính và pháp tri” .Vì thế mà được lòng dân .Tác giả La Quán Trung gửi gắm trong hình ảnh Khổng Minh ý tưởng về một nhà Nho một hiền sĩ,một nhân vật trí tụê hơn người , đại diện cho nhân dân hết lòng vi công việc chung. -TÍNH CÁCH: Cả cuộc đời của ông gắn liền với sự nghiệp Thục Hán,từ khi ra khỏi lều tranh Khổng Minh không quản ngại gian nan nguy hiểm đích thân sang tận Đông Ngô thực hiện khẩu hiệu “liên Ngô kháng Tào” Khổng Minh với tấm lòng trung thành tận tụy, ý chí sắt đá, quyết tâm xây dựng nhà Thục Hán. Mặc dù biết vận nhà Hán đã suy nhưng Khổng Minh vẫn cúc cung tận tụy dẫu chết vẫn không đổi ý. Điều này càng thể hiện rõ tính chất chính nghĩa của tập đoàn Luu Thục BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 13
  14. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Trong Chiến đấu, trong việc xây dựng sự nghiệp Thục Hán, Khổng Minh đã đạt được những kì công rực rỡ, nhưng không bao giờ ông tỏ ra kiêu ngạo nịnh kẻ trên khinh kẻ dưới. Khổng Minh không tham vàng bỏ ngãi như Lã Bố, cũng không có tính tự phụ mất trí khôn như Quan Công. -HẠN CHẾ Vì khi xây dựng Gia Cát Lượng tác giả quá chú trọng miêu tả trí tuệ vô cùng tận của ông nên dường như có nhiều hạn chế. Nhân vật này “đa trí nhi tử yêu” (nhiều mưu mẹo như yêu quái). Như lời của Lỗ Tấn đã nói “tác giả gán cho Khổng Minh một số phép thuật không thoả đáng làm cho ông có lúc không còn là nhà chính trị, nhà quân sự có những tiên đoán khoa học mà là thầy phù thuỷ “rắc đậu thành binh”, “gọi gió hú mưa”, khiến hình tượng nhân vật này kém giá trị chân thực trọn vẹn”. 3. LƯU BỊ: Tư tưởng xuyên suốt trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là “ủng Lưu phản Tào” trên cơ sở đó mà khẳng định chính quyền Thục Hán. Hình ảnh Lưu Bị là ông vua anh minh biết yêu thương trăm họ, là nhân vật gửi gắm nhiều ước vọng của tác giả. - XUẤT THÂN: Gia đình xuất thân là dòng dõi vua quan nhưng đến đời Lưu Bị thì gia đình đã phá sản, ông làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn. Lưu Bị mồ côi cha từ sớm. - HÌNH ẢNH Được tác giả miêu tả là người có dáng dấp ánh hùng hứa hẹn làm nên việc lớn. Con người đó mình cao tám thước, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son. Ấn tượng về Lưu Bị là người anh hùng không thích đọc sách, tính ôn hoà, ít cười nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, có trí lớn, thích kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Bởi thế Lưu Bị tuy mới xuất hiện trên vũ đài chính trị chưa làm nên công trạng gì nhưng được Tào Tháo quả quyết: “anh hùng trong thiên hạ chỉ có Sứ quân (Lưu Bị) và Tháo mà thôi”. -Với tài thu phục nhân tâm, Lưu Bị thu nạp được rất nhiều người tài. Thuở lập nghiệp, ông dù tay trắng nhưng 2 mãnh tướng Quan Vũ, Trương Phi vẫn bất chấp khó khăn phụng sự ông. Ông có ba quân sư tài giỏi là Từ Thứ, Gia BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 14
  15. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Cát Lượng và Bàng Thống. Tất cả mọi người cùng rất trung thành dưới trướng của Lưu Bị. TÍNH CÁCH: Phương châm quán triệt mọi hành động của Lưu Bị là “dĩ nhân vi bản” (lấy nhân làm gốc). Bởi Lưu Bị từng nói “thà ta chết, chứ không làm điều phụ nghĩa” đối lập hẳn với quan điểm sống của Tào Tháo Lưu Bị nhờ có lòng nhân từ rộng lượng, thương dân yêu lính cho nên từ hai bàn tay trắng ông làm đến Hán Trung Vương, lên ngôi Hoàng đế và chia ba thiên hạ. Nhân tố chủ yếu để Lưu Bị giành thắng lợi chính là đạo “nhân hoà”. Hình tượng nhân vật Lưu Bị trong tác phẩm đã vượt qua con người Lưu Bị trong lịch sử thể hiện lý tưởng, nguyện vọng của nhân dân về một ông vua chân chính, về một người anh em bằng hữu hết lòng vì bạn bè. HẠN CHẾ: Nhân vật Lưu Bị được La Quán Trung xây dựng vượt xa bộ mặt thật của lịch sử và đặc điểm thời đại cho nên có phần mơ hồ và tính chân thực bị giảm sút. Cũng chính Lỗ Tấn nhận định “muốn Lưu Bị là người có nhân có đức mà hình như giả dối”. Thêm nữa Lưu Bị dù làm vua nhưng tình cảm riêng tư còn nhiều bởi vậy mà muốn báo thù cho em vứt bỏ chủ trương “liên Ngô kháng Tào” dẫn đến việc 40 doanh trại tại Hào Đình phút chốc ra tro, cơ nghiệp Thục Hán sụp đổ từ đó. Tác giả La Quán Trung bị chi phối bởi điều kiện lịch sử xã hội lúc bấy giờ cho nên không thể xây dựng được một ông vua nhân từ đức độ trong xã hội đen tối. Trái lại ông lại có thể xây dựng hàng trăm nghìn nhân vật điển hình như Tào Tháo, vì hiện thực xã hội lúc bấy giờ cho phép ông khái quát hết sức chân thực bộ mặt tàn ác giả dối của tập đoàn phong kiến thống trị. 4.TRIỆU VÂN: XUẤT THÂN Triệu Vân (168 - 229) tự là Tử Long người vùng Thường Sơn, là một vị tướng thời kì cuối nhà Đông Hán vào thời Tam quốc. ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục. Ông được phong chức Hổ Uy Tướng BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 15
  16. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA quân, và đứng thứ ba trong Ngũ Hổ Tướng của nhà Thục (Vân Trường, Trương Phi,Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu). NGOẠI HÌNH Viên tướng mặc áo giáp trắng, cỡi ngựa trắng, cầm cây thương múa tít đi lại giữa trăm vạn hùng quân. TÀI NĂNG -Triệu Vân là một mãnh tướng vô địch, từ khi còn trẻ tới lúc về già, 70 tuổi vẫn đủ sức giết 5 người con của Hàn Đức trong một trận chiến. TÍNH CÁCH -Con người không hề kiêu căng như Quan Vũ, cũng không nóng nảy như Trương Phi, điều này đã thể hiện bản lĩnh phi thường mà kiêm tốn, điềm đạm của một Triệu Tử Long. -Triệu Vân hội tụ đủ các bản chất của những anh hùng trong thời đại ông. Tr -Trong tác phẩm, La Quán TRung chỉ đặc biệt miêu tả Triệu Vân võ công cao cường, mà thực ra ông còn có tài thao lực khôn khéo, lòng trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn và lòng dũng cảm phi thường HẠN CHẾ Do vị chí thứ yếu trong Ngũ Hổ Tướng cho nên bút mực dành cho nhân vật này hơi ít, có lúc thật kỳ diệu lớn lao, có lúc lại mất hút trong tác phẩm dài bề bộn sự kiện. 5.QUAN CÔNG THÂN THẾ -Quan Công (162?-220) hay còn được gọi là Quan Vũ, tự là Vân Trường, là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và Thời Tam Quốc. Quan Vũ người Giải châu. Ông là người đóng góp công lớn vào việc thành lập nhà BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 16
  17. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Thục Hán với vị hoàng đế đầu tiên là Lưu Bị. Ông là anh em két nghĩa của Lưu Bị và Trương Phi NGOẠI HÌNH -Hình ảnh Quan Vũ với bộ mặt đỏ như gấc, bộ râu dài hai thước, tay cắp thanh long đao, cưỡi ngựa Xích thố ngày đi nghì dặm, oai phong lẫm liệt… TÀI NĂNG -Quan Vũ xuất hiện từ hồi 1- “kết nghĩa vườn đào” đến hồi 77- “bỏ mạng ở Mạch Thành. Suốt 77 hồi, tác giả đã thêu dệt nhiều chiến công lẫy lừng của vị anh hùng chiến trận này. Chém đầu Hoa Hùng, quay trở doanh trại về khi chén rượu còn nóng (hồi 5), chém Nhan Lương, giết Văn Sú- hai viên tướng của Viên Thiệu, dùng Thuỷ Chiến đánh bại Bàng Đức kiêu hùng. TÍNH CÁCH -Ông là người vũ dũng, hào hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu. Do bênh vực người khác mà ông phạm tội giết người, phải bỏ quê hương đến nương náu ở quận Trác.Tại quận Trác, Quan Vũ đã gặp gỡ và trở nên thân thiết với Lưu Bị và Trương Phi -Tác giả tô đậm với lòng dũng cảm phi thường của một Quan Vũ ung dung đánh cờ để Hoa Đà rạch tay bị tên độc, cạo xương rắc thuốc (hồi 75), một khí phách anh hùng, thân ở doanh trại Tào mà tâm vẫn ở bên Lưu Bị. Bên cạnh lòng dũng cảm La Quán Trung còn muốn tô đậm cái nghĩa khí của Quan Vũ. +Trung nghĩa ở đây được xét theo quan hệ trên dưới. Tác giả lặp đi lặp lại một số sự kiện nhằm nhấn mạnh lòng trung nghĩa dũng cảm vô bờ của Quan Công: “Gương trung vằng vặc soi trời bể-Nghĩa khí âm thầm nổi gió mưa…”. Trước sau trung thành với nhà Thục Hán, đó lảtung nghĩa của Quan Công. Khi thất thế về với Tào Nguỵ, dù được đối đãi hậu hĩnh Quan Vân Trường vẫn hướng về Lưu Bị, cho đến khi sa cơ lỡ vận bọn Đông Ngô dụ BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 17
  18. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA hàng, Quan Công vẫn một lòng một dạ “Ngọc khả toái nhi bất khả cải kì bạch, trúc khả phần nhi bất khả huỷ kì tiết” (Ngọc tuy đập vụn được nhưng không sao đổi được sắc trắng, trúc đốt cháy được nhưng không huỷ được gióng thẳng). +Tín nghĩa là yếu tố được xét theo quan hệ hàng ngang, thể hiện quan hệ anh em bạn bè, quan hệ xã hội.Kết nghĩa vườn đào, không thay lòng đổi dạ, sống chết có nhau là tín nghĩa cuả Quan Vũ. Quan Vũ trung thành với Lưu Bị, trung thành với lời thề kết nghĩa vườn đào nhưng lại quy thuận tào Tháo trong những điều kiện nhất định. Quan Vũ giải cứu Tào Tháo tại Bạch Mã, chém hai tướng của Viên Thiệu, suýt nữa làm Lưu Bị bỏ mạng tại doanh trại họ Viên; nhưngQuan Vũ lại hết lòng với chị dâu, qua năn cửa quan chém sáu tướng giỏi của Tào Tháo. Chữ tín cũng có mặt tích cực khi thê hiện kết nghĩa huynh đệ, đó là lúc con người cần hợp sức nhau trong thời đại tao loạn, song nó sẽ là tiêu cực khi quan hệ con người dựa trên ân oán các nhân, đặt lợi ích cộng đồng xuống dưới. HẠN CHẾ - Trong Tam Quốc chí Trần Thọ cho Quan Vũ là kẻ kiêu căng. Trong Tam Quốc diễn nghĩa La Quán Trung nhấn mạnh đặc điểm tính cách này của Quan Vũ. Đánh giá của Trần Thọ về Quan Vũ được đời sau ghi nhận là công bằng: “Quan Vũ sức địch vạn ntgười, hổ thần một thời. Vũ báo ơn Tào công…có phong độ quốc sĩ. Nhưng Vũ cương và tự phụ…lấy sở đoản mà chuốc lấy thất bại, là lẽ thường vậy”. -Vì tính kiêu căng tự phụ mà làm mất hoà khí giữa Đông Ngô, Tây Thục, tổn hại chính sách”Liên Ngô kháng Tào” của Gia Cát Lượng, để mất Kinh Châu, tạo nguy cơ đầu tiên cho sự sụp đổ của cơ nghiệp nhà Thục Hán -Cũng chỉ vì kiêu căng, tự phụ mà Quan Vân Trường bị khốn tại Mạch Thành, kết thúc cuộc đời khá bi thảm. BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 18
  19. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA 6.TRƯƠNG PHI THÂN THẾ -Trương phi (?-221) Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Trương Phi tự là Dực Đức ,quê ở Trác Quận nước Yên.. Trương Phi đã cùng với Lưu Bị và Quan Vũ kết bái làm huynh đệ trong vườn đào. Ông là em út trong ba người. Ông được Chiêu liệt hoàng đế tức Lưu Bị phong làm một trong ngũ hổ đại tướng. NGOẠI HÌNH -Trương Phi thân dài tám thước, đầu báo, mắt tròn, râu hùm, hàm én, tướng như sấm động, không có đôi môi tô son, mắt phượng mày tằm, oai phong lẫm liệt như Quan Công, cũng không giống Lã Bố, Chu Du là võ tướng có thân hình cân đối, đẹp đẽ; nhưng con người ấy đã làm nên những việc lẫy lừng trong thiên hạ, không chịu sự ràng buộc nặng nề bởi tư tưởng chính thống như Lưu Bị, bởi thứ đạo đức “đại nghĩa” chung chung như Quan Công. TÀI NĂNG -Trương Phi là người có tấm lòng cương trực, lòng dạ thẳng ngay. Ông đã đóng góp rất nhiều cho sự ra đời của nước Thục. Ông nổi tiếng với võ nghệ siêu phàm cùng với sự dũng cảm coi thường cái chết. Ông thật sự là nỗi khiếp đảm của quân thù. Như trận đánh cầu Trường Bản, ông đã quát mấy tiếng khiến Tào Tháo hoảng sợ mà lui quân. Khi ấy ông chỉ có vài mươi kị sĩ còn Tào Tháo có trăm vạn hùng binh. Trong trận ấy, viên quan theo hầu Tào Tháo là Hạ Hầu Lan đã hoảng sợ đến mức vỡ mật mà chết. -Ông là một trong 2 tướng đã từng đơn độc giao chiến với Lã Bố mà chưa bị thua chạy hoặc bị giết (người còn lại là Hứa Chử). Trong trận Hổ Lao, để BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 19
  20. TAM QUỐC DIỄN NGHĨA cứu Công Tôn Toản, ông đã đấu với Lã Bố hơn 50 hiệp bất phân thắng bại trước khi Quan Vũ và Lưu Bị ra trợ chiến. Tổng cộng ông đã đấu với Lã Bố 2 trận, tất cả gần 150 hiệp và đều bất phân thắng bại (trong khi Hứa Chử chỉ giao chiến với Lã Bố được 20 hiệp bất phân thắng bại trước khi Tào Tháo sai 5 tướng khác ra trợ chiến) -Trương Phi trong mắt nhiều người là một vì tướng có vẻ như hữu dũng vô mưu nhưng không có chuyện như vậy. Ông cũng là một tướng có mưu lược dù không nổi bật như tài năng võ nghệ của mình. Những hành động như tha cho Nghiêm Nhan thu phục cho Thục một danh tướng, hay mẹo cộtu cành cây vào đuôi ngựa quét cho đất cát tuing mù làm quân Tào nghi ngờ có phục binh tại cầu Trường Bản chứng tỏ ông cũng là người có mưu lược. TÍNH CÁCH - La Quán Trung say sưa khi viết về tính tình khẳng khái, bộc trực và rất nóng nảy của Trương Phi. Ngòi bút của La Quna Trung không hề vướng vấp khi viết về tài năng của Gia Cát Lượng, về Triệu Tử Long là hình ảnh của một tướng tài trong thời chinh chiến, cũng không quanh co khi viết về tấm lòng trong sáng của Trương Phi. +Trương Phi nổi giận đùng đùng, toan đánh quân áp giải Lư Thực, vì Trương Phi hiểu rõ hoàn cảnh của Lư Thực, bị Tả Phong bức hại. Hành động cứu Lư Thực là chí khí của người anh hùng: “Lộ kiến bất bình.bạt đao tương trợ” chứ không như Lưu Bị chỉ nghĩ đến chuyện “ sẽ có công luận của Triều đình”. +Trương Phi muốn giết Đổng Trác, vì Trác kiêu ngạo khinh ba anh em Huyền Đức “đã vào đất chết cứu nó ra, nó không ơn thì chớ, lại còn làm phách khinh người, nếu không giết nó không sao hả giận này”. -Lòng cương trực quyết định lối sống cương trực. TỶương Phi sống ngay thẳng, đường hoàng, không dung hoà nhân nhượng, không quanh co BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 20
nguon tai.lieu . vn