Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA KINH TẾ
BÀI THẢO LUẬN
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG NGÀNH
CÔNG NGHIỆP ÔTÔ Ở VIỆT NAM
DANH SÁCH NHÓM:
1. BÙI ĐÌNH LUÂN - Nhóm trưởng
2. NGUYỄN THỊ ANH
3. PHẠM XUÂN ĐƯỜNG
4. VŨ THỊ LÝ
5. PHAN BÁ PHƯƠNG
6. TRẦN THỊ QUỲNH
7. NGUYỄN VÕ TOÀN
8. NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
Vinh, tháng 8 năm 2010
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
Mục lục
A - Mở đầu ……………………………………………………… 3
B - Phần nội dung ………………………………………………. 4
I – Những vấn đề về chuyển giao công nghệ đối với ngành công
nghiệp ô tô ………………………………………………….. 4
1.1 – Khái quát về chuyển giao công nghệ ………………………. 4
1.1.1 – Khái niệm …………………………………………………... 4
1.1.2 - Các yếu tố thuộc bên nhận và nước nhận …………………... 4
1.1.3 - Các yếu tố thuộc bên giao và nước giao ……………………. 5
1.1.4 - Các phương thức chuyển giao ……………………………… 5
1.2 – Vai trò của chuyển giao công nghệ …………………………. 5
1.3 – Vai trò của ngành công nghiệp ô tô ………………………… 6
II - Hoạt động chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam .. 7
2.1 - Chính sách phát triển trong ngành công nghiệp ôtô Việt Nam ... 7
2.1.1 - Định hướng phát triển trong ngành công nghiệp ôtô Việt Nam . 7
2.1.2 - Những nguyên tắc cơ bản của chính sách nội địa hoá ………... 9
2.2 - Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ vào ngành công
nghiệp ôtô Việt Nam …………………………………………. 10
III - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ
vào Việt Nam trong ngành công nghiệp ô tô những năm tới ….. 15
3.1 - Phát triển nguồn nhân lực ……………………………………. 15
3.2 - Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính ……………………... 16
3.3 - Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp - bản quyền ……………… 16
C - KẾT LUẬN …………………………………………………... 17
Tài liệu tham khảo ……………………………………………. 18
Lập và phân tích dự án đầu tư
2
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
A – MỞ ĐẦU
Khi nói đến đầu tư quốc tế, người ta luôn nói đến công nghệ và chuyển
giao công nghệ. Vì khi nhà đầu tư đến một nơi nào đó để đầu tư, ngoài việc
chuyển vốn đến địa điểm đầu tư, nhà đầu tư còn mang theo công nghệ để áp
dụng vào công việc sản xuất công việc kinh doanh của mình nhằm rút ngắn thời
gian khởi động và duy trì nguồn cung cấp cho bạn hàng truyền thống.
Chuyển giao công nghệ là một trong những đặc điểm nổi bật của sự phát
triển kinh tế thế giới trong những thập kỷ gần đây. Do yªu cÇu b¶o vệ và
xây dựng đất nước, ô tô đã được sử dụng ở Việt Nam khá sớm và có nhu cầu
ngày càng mạnh. Những năm gần đây, Việt Nam đã tự sản xuất và cung cấp
được khá nhiều loại xe sử dụng trong nước, giảm số lượng xe nhập khẩu, tiết
kiệm cho Nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể. Tuy nhiên, mục tiêu chính mà
Việt Nam đặt ra không phải chỉ cung cấp một lượng xe cho thị trường hay tiết
kiệm ngoại tệ cho đất nước mà là xây dựng một ngành công nghiệp ô tô độc lập.
Muốn thực hiện được mục tiêu này, Việt Nam cần mở cửa thị trường ô tô nội địa
cho các nhà đầu tư nhằm vào các mục đích sau:
- Thu hút vốn.
- Nhận chuyển giao công nghệ
- Tiếp thu phương thức sản xuất mới
- Tạo việc làm.
Ở giai đoạn hiện nay, cả 4 mục tiêu trên đều rất quan trọng với Việt Nam,
nhưng nếu xét về lâu về dài và tính toán cả lợi ích của ngành công nghiệp ôtô thì
mục tiêu công nghệ có ý nghĩa hàng đầu.
Lập và phân tích dự án đầu tư
3
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
B – PHẦN NỘI DUNG
I – Những vấn đề về chuyển giao công nghệ đối với ngành công
nghiệp ô tô
1.1 – Khái quát về chuyển giao công nghệ
1.1.1 – Khái niệm
Theo luật quốc tế về chuyển giao công nghệ: Chuyển giao công nghệ là
việc tiếp nhận công nghệ mới giữa bên giao và bên nhận. Chuyển giao công
nghệ có thể diễn ra:
- Từ một ngành công nghiệp sang một ngành công nghiệp khác
- Từ một tổ chức này sang một tổ chức khác ở quy mô quốc tế
- Giữa các nước phát triển
- Giữa các nước đang phát triển
- Giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển
- Các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển giao công nghệ
1.1.2 - Các yếu tố thuộc bên nhận và nước nhận
- Tình hình chính trị
- Hệ thống hành chính, pháp luật và việc chấp hành pháp luật được phép
chuyển giao công nghệ theo những quy định nào. Ba hệ thống hỗ trợ trong việc
tiếp nhận công nghệ là : cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp
- Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ : 4 cơ sở pháp luật để chống lại sự
truyền bá không hợp lệ công nghệ: thiết lập hệ thống luật về sở hữu trí tuệ, hiện
đại hóa hệ thống luật về sở hữu trí tuệ, thi hành và áp dụng luật nhanh chóng và
đơn giản, tham gia vào các hiệp ước và công ước quốc tế
- Tình hình kinh tế
- Cơ sở hạ tầng và nhân lực KH – CN
- Chính sách công nghệ và chuyển giao công nghệ : nâng cao nhận thức
của người dân về lợi ích của công nghệ thông qua phương tiện thông tin đại
Lập và phân tích dự án đầu tư
4
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
chúng, giới thiệu lợi ích của công nghệ qua các buổi hội thảo và hội chợ, xuất
bản các tạp chí công nghệ, khuyến khích đổi mới
1.1.3 - Các yếu tố thuộc bên giao và nước giao
- Kinh nghiệm
- Chính sách chuyển giao công nghệ
- Vị thế thương mại và công nghệ
1.1.4 - Các phương thức chuyển giao
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài kết hợp với phương tiện sản xuất, các kiến
thức được cấp patent, các know - how, quản trị và marketing
- Hợp đồng license sử dụng patent, tên hãng, nhãn hiệu và các đối tượng
khác
Hỗ trợ kỹ thuật và dịch vụ kỹ thuật
- Các hợp đồng quản lý
- Các hợp đồng marketing
- Cung cấp dịch vụ kỹ thuật và tư vấn, các nghiên cứu khả thi và các dịch
vụ khác cho hoạt động đầu tư và tái đầu tư
- Các hợp đồng chìa khóa trao tay
- Bán và mua phương tiện SX
- Các hoạt động R & D
1.2 – Vai trò của chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ có vai trò to lớn đối với nền kinh tế thế giới nói
chung và nền kinh tế của mỗi nước nói riêng. Chuyển giao công nghệ có lợi cho
cả hai bên bên giao và bên nhận.
Ngày nay trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới cùng với trình độ
phân công lao động, chuyên môn hoá ở tầm chuyên sâu đến từng chi tiết sản
phẩm. Hoạt động chuyển giao công nghệ góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế
phát triển cho phép khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Mặt khác nó còn
làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế thế giới theo hướng gia tăng tỷ trọng dịch vụ và
công nghiệp.
Lập và phân tích dự án đầu tư
5
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
Công nghệ tạo năng xuất lao động cao hơn cùng sự phong phú về chủng
loại sản phẩm phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của thị trường. nó là vũ khí
cạnh tranh của các doanh nghiệp, các nền kinh tế, có vai trò to lớn đối với vấn
đề môi trường trong quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và quá
trình chế tác, sử dụng.
1.3 – Vai trò của ngành công nghiệp ô tô
Ôtô là sản phẩm hàng tiêu dùng, vừa là phương tiện sản xuất, có giá trị cao
nhất trong đời sống xã hội của con người (chỉ sau các bất động sản) và được sản
xuất với số lượng lớn. Trong tương lai, khi nhu cầu sản lượng tới vài trăm ngàn
xe ôtô một năm thì ngành công nghiệp ôtô cùng các ngành sản xuất phụ tùng sẽ
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước.
Chính vì vậy, công nghiệp ôtô tuy chỉ là ngành sản xuất phương tiện giao
thông, nhưng sự phát triển của nó lại thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành
khác, nên công nghiệp ôtô sẽ cung cấp việc làm trên diện rộng và sự tăng trưởng
cao cho cấu trúc công nghiệp, góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một chương trình do đại hội 8 của Đảng
Cộng sản Việt Nam đề ra nhằm đưa nước ta từ nước kinh tế nông nghiệp là
chính chuyển sang nước có nền công nghiệp hiện đại trong vòng 20 năm tới.
Đất nước Việt Nam với diện tích 331211,6 và dân số hiện nay là hơn 85
triệu người, có tỷ lệ tăng dân số gần 2%. Nếu chúng ta giảm được tỷ lệ tăng dân
số xuống còn 1,5% thì sau 20 năm nữa, dân số Việt Nam sẽ là khoảng 95 triệu
người. Còn với mức tăng dân số như hiện nay, sau 20 năm nữa, dân số Việt Nam
sẽ là khoảng trên 100 triệu người. Một quốc gia công nghiệp với dân số trên 100
triệu người thì không thể không có công nghiệp ôtô riêng của mình.
Hiện nay, các nước thành viên ASEAN (trừ Singapore do dân số nhỏ bé)
đều đã xây dựng ngành công nghiệp ôtô của riêng mình. Và theo dự tính, trong
tương lai ASEAN sẽ phát triển thành một trung tâm công nghiệp ôtô của thế kỷ
21 sau Nhật, Mỹ và Tây Âu.
Lập và phân tích dự án đầu tư
6
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
Bởi vậy, để tránh tụt hậu thì Việt Nam cũng sẽ phải xây dựng và phát triển
công nghiệp ôtô của mình thành một ngành công nghiệp trọng yếu, góp phần
thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước và nhanh chóng hội nhập
với khu vực và thế giới.
II - Hoạt động chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
2.1 - Chính sách phát triển trong ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
2.1.1 - Định hướng phát triển trong ngành công nghiệp ôtô Việt Nam
Nghiên cứu và tìm hiểu quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp ôtô
của các nước phát triển trên thế giới, ta thấy công nghiệp ôtô của các nước phát
triển với tốc độ khác nhau, có nhiều mô hình quản lý khác nhau. Như xét về
bước đi và phân chia giai đoạn của các nước sau:
Các bước phát triểncủa công nghiệp ôtô các nước ASEAN và châu Á
Bước 1 Bước 2 Bước 3 Bước 4
Phát triển công Bắt đầu sản xuất Đẩy mạnh sản Coi trọng tự do
nghiệp lắp ráp ôtô chi tiết và bộ phận xuất các chi tiết và cạnh tranh và thị
trong nước ở trong nước bộ phận trong trường tự do
nước
Giai đoạn của chính sách bảo hộ và phát triển Giai đoạn khuyến
khích tự do cạnh
tranh
Nguồn: Quy hoạch ngành ôtô Việt Nam đến năm 2010 (Tài liệu Bộ Thương mại)
Để tiến nhanh và vững chắc, Việt Nam đã chọn một mô hình quản lý của
riêng mình: nhập công nghệ tiên tiến của các nước công nghiệp phát triển, hạn
chế số lượng nhà sản xuất, duy trì sự cạnh tranh nhưng có bảo hộ cho ngành
công nghiệp non trẻ này bằng các biện pháp thuế và phi thuế. Đặc biệt, chính
sách nội địa hoá là một trong những công cụ chủ yếu để thúc đẩy và phát triển
công nghiệp ô tô, đồng thời là một biện pháp nhằm cụ thể hoá chiến lược của
ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010.
Lập và phân tích dự án đầu tư
7
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
Theo dự báo trong quy hoạch thì đến năm 2010, VN cần bổ sung khoảng
274.000 xe ôtô các loại mới đáp ứng đủ nhu cầu. Ngoại trừ loại xe con đến 5 chỗ
ngồi và loại xe 26 - 46 chỗ ngồi không cần đầu tư thêm do đã đủ sản lượng, còn
tất cả các loại xe khác đều phải đầu tư thêm và nhiều nhất là các loại xe tải (cần
bổ sung hơn 110.00 xe). Vì vậy, mục tiêu cụ thể mà quy hoạch đưa ra đối với
các loại xe thông dụng như xe tải, xe khách, xe con phải đáp ứng trên 80% nhu
cầu thị trường trong nước về số lượng và đạt tỷ lệ sản xuất trong nước 60% vào
năm 2010 (riêng động cơ phải đạt tỷ lệ sản xuất trong nước 50%, hộp số 90%).
Tương tự đối với các loại xe chuyên dùng là 60% vào năm 2010. Tổng sản
lượng của các nhà máy sản xuất động cơ vào khoảng 100.000 chiếc cho năm
2010 và 200.000 chiếc vào năm 2020, trong đó các loại động cơ từ 100 - 400 mã
lực chiếm tới 70% và tỷ lệ sản xuất trong nước đạt 50%. Tương tự là bộ hộp số,
cụm truyền động nhưng tỷ lệ sản xuất trong nước phải đạt 90% vào năm 2010.
Một vấn đề quan trọng đối với bản quy hoạch là việc giao cho 4 doanh nghiệp
nhà nước gồm Tổng Công ty CN ôtô VN, Tổng Công ty máy động lực và máy
nông nghiệp (Veam), Tổng Công ty Than, Tổng Công ty Cơ khí giao thông vận
tải Sài Gòn đảm nhiệm vai trò nòng cốt trong ngành công nghiệp ôtô VN, xây
dựng và triển khai các dự án theo các hướng riêng rẽ và các dự án này phải đáp
ứng các tiêu chuẩn doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô do Bộ Công nghiệp soạn
thảo, ban hành, tỷ lệ sản xuất trong nước phải cao hơn mức định hướng chung.
Đối với các doanh nghiệp trong nước khác nếu muốn sản xuất, lắp ráp ôtô, các
dự án phải phù hợp với Chiến lược và Quy hoạch, đáp ứng các tiêu chuẩn doanh
nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô, khuyến khích các dự án có quy mô đầu tư lớn, có
sản phẩm xuất khẩu, các dự án sản xuất động cơ, hộp số, cụm truyền động.
Trước thực tế ngành Công nghiệp ô tô nước ta không hoàn thành mục tiêu,
các sản phẩm ô tô mới chỉ dừng lại ở hạng mục lắp ráp, giá xe vẫn cao hàng đầu
thế giới, người tiêu dùng không bằng lòng với thái độ của các hãng xe. Sau khi
gia nhập WTO các ngành kinh tế nội địa hoá khó để đứng vững Nhiều chuyên
gia cho rằng, định hướng mới cho ngành công nghiệp ô tô là rất cần thiết để cải
Lập và phân tích dự án đầu tư
8
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
thiện thực trạng hiện nay. Theo đó, nhiều ý kiến đồng tình với việc phải để
ngành công nghiệp ô tô “tự bơi” bằng chính thực lực của mình. Cụ thể, các hãng
xe nội địa phải cạnh tranh trực tiếp với xe nhập khẩu. Bộ Tài Chính và Bộ Công
Thương cần phải có sự liên thông, vừa giảm thuế nhập khấu xe nguyên chiếc
vừa giảm thuế nhập khẩu các linh kiện, thiết bị, phụ tùng để đầy nhanh lộ trình
gia nhập WTO như cam kết.
2.1.2. Những nguyên tắc cơ bản của chính sách nội địa hoá
Chính sách nội địa hoá được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thành lập
theo pháp luật Việt Nam, trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động trong các lĩnh vực:
- Chế tạo ô tô (bao gồm cả lắp ráp).
- Chế tạo phụ tùng ô tô
- Xuất nhập khẩu, kinh doanh ô tô và phụ tùng phục vụ cho nội địa hoá
Để nhanh chóng xây dựng và phát triển công nghiệp ô tô, Việt Nam cần
phải nhanh chóng nội địa hoá các phụ tùng ô tô từ đơn giản đến phức tạp, tức là
phải tự sản xuất được trong nước các phụ tùng ô tô cơ bản với tỷ lệ ngày càng
cao. Chính sách nội địa hoá được thực hiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nhà nước chỉ đạo và kiểm soát ngành công nghiệp ô tô nhằm thúc đẩy sự
phát triển theo đúng mục tiêu đã đề ra cho từng giai đoạn.
- Sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô theo quy mô lớn, mở rộng hợp tác, hội
nhập thị trường khu vực và quốc tế.
- Phát triển tối đa sản xuất trong nước, đồng thời phải đảm bảo chất lượng
và hiệu quả kinh tế, trong đó, lấy chất lượng là mục tiêu hàng đầu. Ưu tiên cho
việc khai thác năng lực sản xuất sẵn có trong nước.
- Trong giai đoạn đầu, cho phép tự lựa chọn các chi tiết nội địa hoá và chưa
quy định phụ tùng bắt buộc nội địa hoá, chỉ áp dụng tỷ lệ nội địa hoá quy định:
tỷ lệ nội địa hoá sau 5 năm là 10%, sau 10 năm là 30%.
Tỷ lệ nội địa hoá được xác định như sau:
N = (Z -I)/Z x 100%
Trong đó:
Lập và phân tích dự án đầu tư
9
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
N: Tỷ lệ nội địa hoá loại sản phẩm hoặc phụ tùng.
Z: Giá trị nhập khẩu (CIF) của sản phẩm hoặc phụ tùng nguyên chiếc
I: Giá trị nhập khẩu (CIF) của bán thành phẩm, chi tiết, cụm chi tiết và bộ
phận
2.2 - Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ vào ngành công
nghiệp ôtô Việt Nam
Trước thập kỷ 90, có thể nói Việt Nam chưa có một ngành công nghiệp ô
tô. Gần 20 năm hình thành và phát triển, đến nay chúng ta đã có 11 liên doanh
và trên 160 doanh nghiệp lắp ráp và sửa chữa xe ô tô ra đời, với hơn 20 hợp
đồng chuyển giao công nghệ đã được thực hiện kèm với các dự án đầu tư. Trung
bình nỗi năm, 11 liên doanh đã lắp ráp dạng CKD 2 cung cấp cho thị trường nội
địa 80.000 xe/năm. Hiện nay hơn 40 DN lắp ráp được khoảng 8 vạn xe/năm, làm
giảm nhập khẩu, tiết kiệm nhiều tỉ USD, giải quyết việc làm cho hàng chục vạn
lao động trong ngành này và các ngành CN phụ trợ. Dự kiến năm 2010 có thể sẽ
có hơn 1,2 triệu ô tô và năm 2020 có hơn 3 triệu ô tô hoạt động. Đặc biệt là các
hãng đã tìm tòi và xuất xưởng các xe có chủng loại khá đa dạng theo tiêu chuẩn
của nhà sản xuất ôtô gốc. Cụ thể là đến nay, các xe sản xuất lắp ráp nội địa được
tung ra thị trường Việt Nam gồm 50 kiểu xe các loại, các cỡ, thuộc 15 nhãn mác
xe tên tuổi trên thế giới, trong đó có 18 kiểu xe chở người loại 4-5 chỗ ngồi và
32 kiểu xe thương dụng.
Như vậy nhờ có hoạt động chuyển giao công nghệ, Việt Nam đã tự sản
xuất và cung cấp được khá nhiều loại xe sử dụng trong nước, giảm số lượng xe
nhập khẩu, tiết kiệm cho Nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể.
Tuy nhiên, mục tiêu chính của chuyển giao công nghệ mà Việt Nam đặt ra
không phải chỉ cung cấp một lượng xe cho thị trường hay tiết kiệm ngoại tệ cho
đất nước mà là xây dựng một ngành công nghiệp ôtô độc lập. Hiện nay, mục tiêu
theo quy hoạch phát triển công nghiệp phụ trợ với ô tô mà Hà Nội là một trung
tâm lớn thì đến 2010 phải hoàn thiện các mẫu xe tải, xe khách với tỷ lệ sử dụng
linh kiện trong nước đạt 65%, đến 2020 là 75% cho xe khách, 85% xe tải, từng
Lập và phân tích dự án đầu tư
10
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
bước tham gia xuất khẩu linh kiện... Cho đến nay, nhìn chung, việc chuyển giao
công nghệ của ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu
và đồng thời vẫn còn một số hạn chế.
Không thể phủ nhận, các doanh nghiệp (DN) ô tô như Trường Hải, Xuân
Kiên, Tổng công ty Công nghiệp ô tô, Toyota VN… gần đây đã cố gắng đầu tư
và trở thành những DN có sản lượng tiêu thụ và doanh thu lớn nhất trong số 54
DN đang sản xuất, lắp ráp ô tô tại VN (gồm 12 DN có vốn đầu tư nước ngoài và
42 DN trong nước). Đáng chú ý trong bối cảnh thị trường ô tô thế giới sụt giảm
liên tiếp, ngành công nghiệp ô tô VN đã vượt qua thời kỳ khủng hoảng và phát
triển khá ổn định, với sản lượng sản xuất lắp ráp và nhập khẩu ô tô từ đầu năm
2008 và tính đến hết tháng 4/2010 liên tục tăng từ 6 - 10%. Với đà này, mục tiêu
tới năm 2030 sẽ có 3 triệu xe, trong đó một nửa là xe con được sử dụng tại VN
là hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tế, ngành công nghiệp hỗ
trợ cho sản xuất, lắp ráp ô tô VN mới hình thành và đang phát triển. Mặc dù đến
thời điểm này đã có trên 60 DN sản xuất phụ tùng phục vụ công nghiệp ô tô tại
VN, song phần lớn có quy mô đầu tư nhỏ. Tổng giá trị tài sản của mỗi DN
không quá 20 tỷ đồng, với sản phẩm chủ yếu là các linh kiện giản đơn, hàm
lượng công nghệ cao còn ít và có giá trị thấp trong cơ cấu nội địa hoá sản phẩm.
Nhiều doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư chuyển giao công nghệ nhằm
nâng cao tỉ lệ nội địa hóa, tăng sức cạnh tranh. Điển hình là trong thời gian qua
Vinaxuki đã đầu tư 450 tỷ đồng cho sản xuất xe tải với các dự án như tạo khuôn
mẫu dập ca-bin và gầm bệ xe... Xe tải của Vinaxuki hiện đã có tỷ lệ nội địa hoá
40%. Hay như công ty Trường Hải cũng tăng mạnh vốn đầu tư cho sản xuất ô tô
trong năm 2008. giai đoạn I công ty đầu tư sản xuất xe con với sự chuyển giao
công nghệ của hãng Kia (Hàn Quốc) với số vốn 300 tỷ đồng đã hoàn tất, vào
tháng 1/2008 sắp tới mẫu xe Kia Morning sẽ được xuất xưởng và tung ra thị
trường. Năm 2008 tiếp tục đầu tư giai đoạn II với số vốn 350 tỷ đồng để hoàn tất
toàn bộ dự án với các dây chuyền tự động và cho ra đời thêm nhiều mẫu xe mới
mang thương hiệu trong và ngoài nước. Ngoài ra Trường Hải cũng đang đầu tư
Lập và phân tích dự án đầu tư
11
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
380 tỷ đồng cho hệ thống dập thân xe, gầm bệ dành cho xe tải. Tổng vốn đầu tư
của các dự án này là hơn 1.000 tỷ đồng sẽ hoàn tất vào cuối năm 2008. Đặc biệt
xe Innova của Toyota có tỷ lệ nội địa hoá cao (33%). Toyota Việt Nam cho biết
sẽ quyết tâm đưa Innova trở thành “chiếc xe Việt Nam” bằng việc tiếp tục gia
tăng tỷ lệ nội địa hóa của chiếc xe này lên mức cao nhất lên 37% vào năm 2008
và 40-45% trong tương lai gần.
Hoạt động chuyển giao công nghệ trong các hợp đồng liên doanh ôtô
Trong tất cả các hợp đồng liên doanh ô tô của Việt Nam đều có chứa hợp
đồng chuyển giao công nghệ. Các hợp đồng này đều quy định rõ nội dung và
hạch toán thời điểm chuyển giao công nghệ sản xuất các chi tiết hoặc cụm chi
tiết ô tô nhằm làm tăng tỷ lệ nội địa hoá của ô tô được lắp ráp tại Việt Nam. Bên
cạnh đó, trong hợp đồng còn quy định về các tài liệu kỹ thuật để lắp ráp và chế
tạo ô tô. Nếu chương trình này được thực hiện đúng như trong hợp đồng quy
định thì kết quả sẽ rất khả quan. Nó sẽ vượt xa mức tỷ lệ nội địa hoá mà Nhà
nước đặt ra. Trong các công ty đã đi vào hoạt động, Công ty Toyota Việt Nam
đã thực hiện được tốt nhất các hoạt động chuyển giao công nghệ ô tô vào Việt
Nam, tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm của mình.
Ngay từ khi đầu tư vào Việt Nam, Công ty Toyota Việt Nam (TMV) đã rất
coi trọng vấn đề nội địa hóa. Với số vốn đầu tư ban đầu trên 49 triệu USD TMV
đã đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất lắp ráp hiện đại với 3 trong tổng số 4
công đoạn chính trong quy trình sản xuất một chiếc xe hơi hoàn thiện đó là Hàn,
Sơn và Lắp Ráp. Tháng 3 năm 2003, với việc đưa Xưởng Dập chi tiết thân xe
vào hoạt động, TMV đã chính thức hoàn tất cả 4 công đoạn trong quy trình sản
xuất xe. Bên cạnh đó, TMV còn thực hiện sản xuất, chế tạo nhiều linh kiện, phụ
tùng khác ngay tại nhà máy như: Khung xe, Ống dầu, Ống xả…
Bên cạnh việc nội địa hóa ngay tại nhà máy, TMV cũng rất chú trọng đến
việc mở rộng hợp tác với các đối tác tại Việt Nam. Tính cho tới nay con số các
nhà cung cấp hiện đang cung cấp chi tiết ô tô cho TMV đã lên tới con số 17,
chủ yếu tập chung ở hai miền Bắc - Nam. Kể từ ngày thành lập đến nay, số nhà
Lập và phân tích dự án đầu tư
12
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
cung cấp của TMV ngày càng tăng mạnh theo thời gian với số đầu chi tiết đã
nên tới trên 300 với chủng loại cung cấp đa dạng bao gồm cả chi tiết thường và
chi tiết chức năng đòi hỏi về mặt kỹ thuật và chất lượng. Trong tương lai gần,
TMV sẽ có thêm một số nhà cung cấp mới với những chủng loại chi tiết mới.
Tiến trình phát triển các nhà cung cấp kể từ khi thành lập:
(Nguồn: webside toyota Việt Nam, http://www.toyotavnom.vn)
Với những nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và
phát triển mạng lưới các nhà cung cấp, TMV tự hào là nhà sản xuất ô tô dẫn đầu
thị trường về tỷ lệ nội địa hóa, đạt từ 19% lên đến 37% tùy theo từng mẫu xe
(theo phương pháp tính giá trị của ASEAN). Đặc biệt, với việc đầu tư và đưa
vào hoạt động Xưởng Sản Xuất Khung Gầm Xe đầu tiên tại Việt Nam đi vào
hoạt động, tỷ lệ nội địa hóa của Innova đã tăng từ 33% lên 37% trong năm 2008.
Trong tương lai, với sản lượng gia tăng, TMV cũng đã xây dựng kế hoạch
4 bước để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa Innova, đạt mức 50%-60% vào năm 2018,
khi doanh số bán của dòng sản phẩm này đạt khoảng 50.000 xe/năm.
Hiện tại TMV đang sản xuất lắp ráp 6 model xe tại Việt Nam: Vios,
Corolla, Camry, Innova, Fortuner & Hiace. Tất cả các model xe trên đều có linh
kiện, phụ tùng nội địa với tỷ lệ nội địa ở mức cao.
Lập và phân tích dự án đầu tư
13
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
Hiện tại chúng tôi vẫn không ngừng nghiên cứu để đưa thêm nhiều chủng
loại chi tiết vào sản xuất chế tạo ngay tại nhà máy TMV, góp phần nâng cao tỷ
lệ nội địa hóa của công ty và góp phần vào sự phát triển chung của ngành công
nghiệp Việt Nam.
Tóm lại, qua 20 năm tồn tại và phát triển hoạt động chuyển giao công nghệ
ô tô từ nước ngoài vào Việt Nam đã có những hiệu quả nhất định song chưa
nhiều. Để có thể đạt được mục tiêu do ngành đề ra, các doanh nghiệp cũng như
liên doanh cần cố gắng nhiều hơn nữa, tiếp tục nghiên cứu, hợp tác chuyển giao
thêm các dây chuyền công nghệ có giá trị cao và hiệu quả để có thể sản xuất
thêm nhiều linh kiện quan trọng nhằm tăng tỉ lệ nội địa hóa trong ô tô.
Hạn chế
Qua 20 năm phát triển, ngành ô tô của Việt nam nói chung và chuyển giao
công nghệ ô tô nói riêng nhìn chung vẫn chưa có bước tiến nào đáng kể.
Trước tiên, đó là việc hoàn thành mục tiêu tăng tỉ lệ nội địa hóa khi sản
xuất xe ô tô vào năm 2020. Thời gian không còn nhiều mà công nghiệp ô tô tại
Hà Nội vẫn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Hầu hết các
doanh nghiệp của Việt Nam đều có công nghệ trình độ gần như nhau với tỷ lệ
nội địa hoá chưa được bao nhiêu so với cam kết theo dự án ban đầu (mới được
từ 2 đến 10%), giá trị gia tăng chủ yếu ở các khâu hàn, sơn, lắp ráp còn lại từ
70% - 90% linh kiện phụ tùng là nhập khẩu từ các công ty mẹ hoặc bạn hàng
của các công ty mẹ. Còn các phần nội địa hóa mới chỉ dừng lại ở những chi tiết
đơn giản, giá trị thấp như săm, lốp, ghế ngồi, dây điện, ăng ten...
Thêm vào đó, số lượng DN tham gia sản xuất linh kiện còn rất ít, sản phẩm
rất giản đơn như gương, kính, ghế, radio, dây điện, săm lốp, ắc quy... Quy mô
sản xuất nhỏ, năng lực hạn chế và giá thành cao, chất lượng, mẫu mã còn nhiều
hạn chế, không cạnh tranh được với linh kiện nhập khẩu.
Điều này chứng tỏ là việc chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt
Nam chưa đáp ứng được với yêu cầu phát triển của ngành. Các công nghệ được
chuyển giao nhìn chung mới chỉ sản xuất được những linh kiển nhỏ, giá thành
Lập và phân tích dự án đầu tư
14
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
không cao trong khi những linh kiện giá trị cao khác thì Việt Nam vẫn chưa sản
xuất được và phải nhập khẩu.
III - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công
nghệ vào Việt Nam trong ngành công nghiệp ô tô những năm tới
3.1 - Phát triển nguồn nhân lực
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực đều cho thấy sự thiếu hụt, yếu
kém của lực lượng quản lý, cán bộ kỹ thuật trong nước là nguyên nhân hàng đầu
cản trở việc nhập khẩu và tiếp thu công nghệ mới (Malaysia, Thái Lan,
Indonesia mỗi năm vẫn thiếu hàng chục ngàn kỹ sư - kỹ thuật viên).
- Tiếp tục cải cách hệ thống đào tạo và R&D theo hướng gắn liền nghiên
cứu đào tạo - sản xuất. Đào tạo lại đội ngũ giáo viên, cải tiến giáo trình, phương
pháp, tăng cường đào tạo các kiến thức và kỹ năng kinh doanh theo hướng hiện
đại để có thể "nói cùng một ngôn ngữ" với các đối tác nước ngoài...
- Tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để thu hút một số chuyên gia Việt Kiều
có thể yên tâm về nước sống, làm việc, tham gia đào tạo nhằm chuyển giao một
số công nghệ mà ta đang cần nhưng không thể có được bằng các con đường
khác
- Sớm tổ chức hoặc khuyến khích, hỗ trợ thành lập một số trung tâm tư vấn
đủ mạnh về chuyển giao công nghệ, trung tâm đào tạo những kiến thức cơ bản
về đàm phán, ký kết các hợp đồng chuyển giao công nghệ, về quản trị kinh
doanh, về giám sát quá trình chuyển giao công nghệ, định giá công nghệ v.v...
- Cần có thái độ và các biện pháp tỉnh táo hơn khi đề cập đến "nguy cơ
chảy máu chất xám tại chỗ" (tình trạng người Việt Nam làm việc cho các văn
phòng, chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam). Đứng ở góc độ chuyển giao công
nghệ, người Việt Nam làm việc trong các chi nhánh là cơ hội để học hỏi được
một số yếu tố cốt lõi của công nghệ nước ngoài (kể cả quản lý).
Lập và phân tích dự án đầu tư
15
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
3.2 - Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính
- Hàng năm Nhà nước công bố danh mục các dự án phát triển nhập công
nghệ mới kêu gọi vốn. Doanh nghiệp nào muốn áp dụng, thử nghiệm công nghệ
mới hoặc muốn thu lợi từ việc bán bản quyền công nghệ (nếu thành công) có thể
tham gia góp vốn cổ phần từ đầu (áp dụng nguyên tắc góp vốn đầu tư trong phát
triển nhập công nghệ mới).
- Có chính sách khuyến khích chi tiêu các loại chi phí "tích cực" nhằm tăng
cường năng lực công nghệ nội sinh của từng doanh nghiệp bởi năng lực công
nghệ quốc gia xuất phát từ năng lực công nghệ của từng doanh nghiệp.
- Có chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế đối với một số doanh nghiệp được
coi là trọng điểm đối với sự nghiệp phát triển công nghệ của quốc gia (chẳng
hạn như cac doanh nghiệp áp dụng công nghệ ưu tiên, tư vấn, hỗ trợ chuyển giao
công nghệ).
3.3 - Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp - bản quyền
Phương hướng lâu dài là phải cho các tài sản trí tuệ giá trị thực hiện trên
thị trường của nó. Điều này có thể gây thêm một chút cho các cơ quan, doanh
nghiệp, những cái lợi cơ bản làm cho mọi người trong xã hội biết thấy hết được
giá trị to lớn của "chất xám", biết nâng niu quý trọng tài sản vô hình, từ đó tạo ra
động lực mạnh mẽ cho công việc sáng tạo của công nghệ của riêng mình, tạo
thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam.
Lập và phân tích dự án đầu tư
16
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
C - KẾT LUẬN
Công nghiệp ôtô là một ngành công nghiệp còn rất non trẻ của Việt Nam.
Được xây dựng trên nền trang là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sử dụng
lao động thủ công là chính, năng suất thấp, hiệu quả thấp, vốn đầu tư thiếu thốn,
ngành cơ khí chế tạo quá tho sơ và có trình độ kỹ thuật công nghệ yếu kém cùng
hệ thống hạ tầng nghèo nàn, việc phát triển công nghiệp ôtô gặp rất nhiều khó
khăn. Cân nhắc đến các lợi thế và yếu điểm của mình, chính phủ Việt Nam đã
xác định con đường thích hợp nhằm mục tiêu lâu dài là xây dựng một ngành
công nghiệp ôtô độc lập của riêng mình: khuyến khích các hãng ôtô nước ngoài
đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, đặc biệt là trong hợp đồng liên doanh phải có hợp
đồng chuyển giao công nghệ và chương trình nội địa hoá sản phẩm.
Hoạt động chuyển giao công nghệ ôtô từ nước ngoài vào Việt Nam đã có
những kết quả nhất định. Ngành công nghiệp ôtô được nâng cao trình độ công
nghệ sản xuất và lắp ráp, trang thiết bị tiên tiến hơn, làm tăng số lượng, chất
lượng và đa dạng hoá sản phẩm ôtô và phụ tùng ôtô
Tuy nhiên, cần nhận thất một thực trạng là hoạt động chuyển giao công
nghệ còn rời rạc, nội dung công nghệ được chuyển giao có hàm lượng khao học
công nghệ thấp, và những hoạt động của ngành công nghiệp ôtô hiện nay thì
chưa thể gọi là sản xuất mà chỉ là lắp ráp các linh kiện nhập khẩu, thực hiện một
số các công đoạn sản xuất đơn giản như hàn, sơn và tinh chỉnh xe ôtô mà thôi.
Bên cạnh đó, chương trình nội địa hoá sản phẩm được thực hiện thiếu tập trung
với hiệu quả chưa cao, và dẫn đến kết quả tất yếu là tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm
ôtô rất thấp. Ngoài ra, Việt Nam còn có những điểm chưa hàon thiện trong các
chính sách về đầu tư nước ngoài, quản lý và khuyến khích hoạt động chuyển
giao công nghệ cũng gây nên những khó khăn cho hoạt động chuyển giao công
nghệ ôtô vào Việt Nam
Bởi vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là Nhà nước cần sửa đổi các chính sách
một cách hợp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công nghiệp
ôtô nói chung và hoạt động chuyển giao công nghệ trong ngành nói riêng. Nếu
Lập và phân tích dự án đầu tư
17
- Chuyển giao công nghệ trong ngành ô tô Việt Nam
trong thời gian tới, chúng ta tìm ra và thực hiện được các giải pháp để tiến hành
hoạt động chuyển giao công nghệ ôtô từ nước ngoài vào Việt Nam một cách có
hiệu quả thì chắc chắn công nghiệp ôtô hiện nay còn đang ở dạng tiềm năng sẽ
thực sự phát triển, trở thành ngành công nghiệp chủ chốt của nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Lập và phân tích dự án đầu tư, trường ĐH Kinh tế Quốc dân
2. Giáo trình Chuyển giao công nghệ, trường ĐH Ngoại Thương
3. Webside Toyota Việt Nam, http://www.toyotavn.com.vn
4. Diễn đàn doanh nghiệp, http://dddn.com.vn/8157cat100/quy-hoach-
phat-trien-cong-nghiep-oto-den-nam-2010-tam-nhin-2020-chua-giup-
dn-ro-duong.htm
5. Webside http://www.wattpad.com
Lập và phân tích dự án đầu tư
18
nguon tai.lieu . vn