- Trang Chủ
- Ngôn ngữ học
- Bài tập môn Lý luận văn học: Suy nghĩ của mình về số phận của văn học trong thời đại của bùng nổ văn hóa nghe nhìn
Xem mẫu
- BÀI ĐIỀU KIỆN MÔN LÝ LUẬN VĂN HỌC
Họ và tên: Lê Thị Thảo
Lớp C: Khoa Ngữ Văn
Giảng viên: Đỗ Văn Hiểu
Đề bài: “Anh chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về số phận của văn học trong
thời đại của bùng nổ văn hóa nghe nhìn. Trong tương lai con người có cần đến
văn học nữa hay không? Vì sao?”
Bài làm
I. Đặt vấn đề
“Tác phẩm văn học vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây
truyền cho người đọc sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Hẳn vậy mà văn
học đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển, hoàn thiện nhân cách,
phẩm giá con người. Đôi lúc, nhờ có văn học mà cứu dỗi tâm hồn cằn cõi, hun
đúc, nảy mầm sự sống cho trái tim bầm dập bao vết thương về tinh thần. Ta tìm
đến văn học như một con cừu non khát sữa mẹ, tìm đến nó để thanh lọc, gột
rửa tâm hồn, để hái trái thơm kiến thức, để gặt hái vựa lúa của tình người ấm
áp. Có thể thấy rằng: “Văn học như một bước đi song hành cùng với sự hình
thành, phát triển của xã hội loài người”. Tuy nhiên, trong bối cảnh bùng nổ của
văn hóa nghe nhìn thì văn học còn giữ vững được vai trò, vị thế của mình nữa
hay không? Trong tương lai con người có cần đến văn học nữa hay không? Đó là
một vấn đề lớn cần được giải đáp. Song ta vẫn khẳng định một điều rằng: Văn
học chắc chắn sẽ vẫn tiếp tục và tồn tại cho dù đứng trước thách thức của các
loại hình nghệ thuật khác đang ngày càng bùng nổ và chiếm ưu thế. Để lý giải
vấn đề này tôi xin bàn về chức năng và chất liệu của văn học trong tương quan
với các loại hình nghệ thuật khác. Từ đó, làm rõ nét khác biệt, nổi trội, ưu thế
của văn học mà không một loại hình nghệ thuật nào có thể thay thế được.
II. Nội dung
1. Khái niệm văn học là gì?
- Trước tiên, ta phải khẳng định rằng có rất nhiều quan điểm xoay quanh khái
niệm văn học là gì. Có ý kiến cho rằng văn học là một loại hình sáng tác, tái
hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Có ý kiến khác lại cho
rằng văn học cũng chỉ là hiện thực đời sống. Song, tựu chung lại, văn học là
một loại hình ý thức xã hội thẩm mĩ thuộc kiến trúc thượng tầng, là tác phẩm
bằng ngôn từ đây cũng là bản chất của văn học, nhằm phân biệt văn học với
các loại hình nghệ thuật khác.
2. Vị trí của văn học trước khi bùng nổ văn hóa nghe nhìn
Như chúng ta đã thấy, văn học đối với đời sống con người là vô cùng quan
trọng. Nếu như trước kia người ta coi văn chương như một phương tiện để
truyền tải đạo lí “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”, văn chương dùng để nói
trí, để tuyên truyền đạo đức, ứng xử ở đời. Văn học đóng vị trí vô cùng quan
trọng. Trong thời phong kiến để tuyển chọn người tài người ta tổ chức các
cuộc thi về văn. Quan văn – quan võ ngang bằng nhau trong xã hội, đây là hai
yếu tố được đề cao với một bậc quân tử, người tài. Người ta tìm đến văn
chương như một người bạn, là nguồn tri thức khổng lồ để hoàn thiện nhân
cách, trí tuệ bản thân. Và dường như văn học là nguồn cung cấp kiến thức,
tìm kiếm sự giải trí, sự đồng điệu về cảm xúc duy nhất. Sự hạn chế về công
nghệ, các loại hình giải trí khác chưa được đề cao và phát triển rực rỡ như
ngày nay thì vị trí của văn học càng được đề cao.
Tuy nhiên, ngày nay với sự bùng nổ của văn hóa nghe nhìn thì số phận, vai trò
của văn học cũng ít nhiều thay đổi. Người ta tìm đến nhiều nguồn khác nhau
để giải trí, giáo dục, thưởng thức: hội họa, ca nhạc, nhảy múa,… Vậy câu
hỏi đặt ra và cần được giải quyết là: điều gì làm cho văn học có thể tiếp tục
tồn tại và con người vẫn luôn cần đến văn học. Để minh chứng cho vấn đề
trên tôi sẽ đi làm sáng rõ giá trị, sự khác biệt trong chất liệu và chức năng của
văn học so với các loại hình nghệ thuật khác.
3. Chất liệu của văn học (ngôn từ) trong tương quan chất liệu với các
loại hình khác. Từ đó, thấy được sự khác biệt, cũng như giá trị của
việc dùng ngôn từ trong biểu đạt giá trị tác phẩm và tư tưởng của
nhà văn.
Văn học không chỉ là một loại hình thái ý thức xã hội mà còn là một loại hình
nghệ thuật. Do đó phải tiến lên so sánh với các loại hình nghệ thuật khác. Đặc
- trưng của các loại hình nghệ thuật xét đến cùng cũng là bắt nguồn từ chất liệu
của nó. Nếu như chất liệu của hội họa là màu sắc, đường nét, của âm nhạc là
âm thanh và tiết tấu, của vũ đạo là hình thể và động tác,… đều là vật chất với
những trạng thái của nó. Thì chất liệu của văn học chính là ngôn từ, không phải
là bản thân vật chất mà chỉ là một hệ thống những kí hiệu mà thôi. Nói văn học
là nghệ thuật của ngôn từ nhưng không phải là những ngôn từ logic chỉ tác động
chủ yếu vào lý tính như chính trị, triết học,… mà phải là ngôn từ giàu hình ảnh
và tình cảm, tác động chủ yếu vào tâm hồn con người. Dưới đây, tôi sẽ làm rõ
nét độc đáo, giá trị trong việc sử dụng ngôn từ trong tương quan với chất liệu
của các loại hình nghệ thuật khác:
a. Ngôn từ có khả năng biểu đạt thế giới chủ quan của con người cả
về cảm xúc, tư tưởng, cảm giác
Do ngôn ngữ là cái “vỏ bọc trực tiếp của tư duy” (theo quan điểm của Mác), là
kí hiệu của tư duy cho nên những suy nghĩ, cảm xúc hoặc bất cứ trạng thái tư
tưởng tình cảm nào của con người dù không nói ra cũng phải thông qua ngôn
ngữ để tư duy. Chính vì ngôn ngữ là vỏ bọc của tư duy nên để giải phóng khả
năng tư duy người ta phải hướng tới cách tân và mở rộng ngôn ngữ.
Thứ nhất, văn học lấy ngôn ngữ làm chất liệu nên có thể bộc lộ trực tiếp
cảm xúc, tình cảm của nhân vật hay của chính nhà văn.
Trong thơ Xuân Diệu, tiếng lòng của một hồn thơ khát khao sự sống, khát khao
tình yêu được thể hiện một cách rõ nét:
“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đắm đắm”
Trong tình yêu làm sao để không có nỗi nhớ. Nỗi nhớ đã trở thành một hương vị
quen thuộc không thể thiếu trong tình yêu. Nỗi nhớ cháy bỏng, cồn cào đang gào
thét trong trái tim dường như muốn nổ tung vì nhớ em. Trong thơ Xuân Diệu nỗi
nhớ càng được đẩy lên cao trào. Khi yêu nhau họ nhớ nhau từ hình bóng, mái
- tóc, đôi mắt long lanh đang rực cháy ngọn lửa của tình yêu. Có gì đâu nếu con
người ta bộc lộ nỗi nhớ, ca dao xưa cũng có câu:
“Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Cái hay của văn học là tình cảm của nhân vật, cảm xúc của họ không phải được
thể như: tiếng nấc, gào thét tuyệt vọng như trong phim, không phải là giai điệu
trầm lắng hay cao vót trong âm nhạc, có thể dùng tai, mắt để cảm nhận. Mà
trong văn học cảm xúc nhân vật tuy được bộc lộ trực tiếp qua ngôn từ, nhưng
để hiểu và thấu cảm được ta phải lắng nghe tiếng lòng đồng cảm của chính
mình và tưởng tượng, liên tưởng.
Thứ hai, văn học với chất liệu là ngôn từ còn thể hiện quá trình tư duy.
Hình tượng văn học có được là một quá trình đọc và nghiền ngẫm của bạn đọc.
Nếu các loại hình nghệ thuật khác quá trình tư duy gần như rất ít, bởi đó là các
loại hình vật chất, tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Ngược
lại, khi đọc một tác phẩm văn học đòi hỏi bạn đọc phải đọc toàn bộ tác phẩm,
mỗi chương, mỗi phần là sự chuyển mình trong thế giới nội tâm nhân vật. Hình
tượng nhân vật chỉ hoàn thiện khi ta khép lại trang cuối của cuốn sách.
Khi đọc “Ngàn mặt trời rực rỡ” chắc hẳn chúng ta mới thấu hiểu cuộc sống,
tâm tư của con người bị vùi dập cả thể chất lẫn tinh thần do mảnh vỡ chiến
tranh ở Afghanistan. Và phải đọc từng trang sách, thông qua cả một quá trình tư
duy ta mới xây dựng được hình tượng của nhân vật Mariam trong trí tưởng
tượng. Một Mariam mạnh mẽ, đầy sự đau khổ, bất hạnh với diễn biến tâm lý
vô cùng phức tạp. Mariam là con gái ngoài giã thú của một trong những doanh
nhân thành đạt nhất ở thành phố Herat, Jalil. Cô lớn lên trong một túp lều nhỏ
bên ngoài thành phố cùng với người mẹ. Cuộc sống xa cách với xã hội, không
được hưởng một nền giáo dục, không bạn bè, tuổi thơ của cô bé bị ám ảnh bởi
sự xấu hổ với thân phận một harami. Sự xấu hổ, đau đớn, giằng xé hơn khi cô
tin rằng mình là nguyên nhân khiến mẹ tự tử. Xấu hổ khi cảm thấy mình không
là gì, không quan trọng với cha. Rồi đau thương chồng chất đau thương khi
chồng cũng xa lánh vì cô không thể sinh cho anh ta một đứa con trai.
“Hãy nhớ lấy điều này và nhớ kĩ con gái ạ. Giống như chiếc kim la bàn luôn chỉ
về hướng Bắc, ngón tay buộc tội của người đàn ông luôn trỏ tay vào người phụ
- nữ. Luôn luôn là như vậy.” Cuộc đời của Mariam được đánh dấu bởi cái chết
chăng: Cái chết của mẹ Nana, cái chết của đứa con còn chưa kịp cất tiếng khóc
chào đời, cái chết của chồng và cuối cùng là cái chết của chính mình nhằm bảo
vệ Laila và những đứa con của cô – vợ thứ hai của chồng mình và đó cũng là
người cô yêu thương duy nhất còn sống sót. Mariam như một tảng đá dưới suối
không chai sạn, vô cảm mà càng mặn nồng yêu thương hơn trước sóng gió cuộc
đời, một người phụ nữ đầy nghị lực, niềm tin và lòng nhân ái.
Có lẽ, phải đọc đến trang cuối cùng hình ảnh của một Mariam mới hoàn thiện
trong ta với tất cả phẩm chất, thế giới nội tâm, dòng suy tưởng, quá trình đấu
tranh tâm lý mãnh liệt của người phụ nữ trong xã hội đầy rẫy áp bức, bất công.
b. Ngôn ngữ là hiện tượng phi vật thể xuất hiện trong tưởng tượng,
liên tưởng của người đọc
Chất liệu của tất cả các loại hình nghệ thuật như hội họa, âm nhạc, phim ảnh
đều là các vật chất, vật thể có thể tác động trực tiếp đến các giác quan của con
người, tạo sự tập trung, thu hút lớn. Như chúng ta có thể trực tiếp xem được
tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay, chùa Dâu,… Tất nhiên nghe nhìn xong, công
chúng cũng tha hồ tưởng tượng thêm nhưng vốn đã có hình ảnh trực quan ban
đầu.
Trái lại, ngôn ngữ không phải là vật thể cụ thể mà chỉ là một hệ thống kí hiệu.
Cho nên hình tượng mà thơ văn xây dựng lên không thể nghe nhìn một cách trực
quan mà phải thông qua tưởng tượng, liên tưởng.
Vẻ đẹp của nàng Vân, nàng Kiều trong thơ Nguyễn Du chỉ sống cùng năm
tháng, sống trong trái tim bạn đọc khi đọc tác phẩm kết hợp với liên tưởng để
hình dung vẻ đẹp của hai nàng:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Thuý Vân hiện lên với những gì đẹp đẽ nhất, đặc sắc nhất, thiêng liêng
nhất của tinh hoa đất trời: Hoa, trăng, ngọc, mây, tuyết. Đó là sự quy tụ của vẻ
đẹp trời đất, của thiên nhiên. Đó cũng là chuẩn của vẻ đẹp con người cần
- hướng đến trong thi pháp văn học trung đại. Mỗi câu thơ, là một nét vẽ tài hoa
về bức chân dung giai nhân. Cử chỉ, dáng đi đứng rất trang trọng, quý phái. Cách
xử sự rất đúng mực, đoan trang. Đây là vẻ đẹp toàn bích của một thiếu nữ trong
sáng, dịu hiền, không vướng một chút bụi trần.
Tác giả miêu tả khuôn mặt của Thuý Vân đầy đặn, sáng trong như khuôn
trăng tròn vành vạnh. Tiếng nói trong như ngọc. Miệng cười tươi như hoa. Tóc
mềm bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng làm cho tuyết phải “nhường”.
Rõ ràng, ở nàng Vân là cái đẹp phúc hậu, đoan trang, cái đẹp chinh phục được
xung quanh.
Nếu vẻ đẹp của Vân là thuần phác, dịu hiền, đằm thắm, thì Kiều hiện lên với
sự sắc sảo, mặn mà hiếm có.
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hơn kém xanh”
Cái “thần” trong bức chân dung của Thúy Kiều nằm ở đôi mắt. Mắt nàng Kiều
xanh trong như nước mùa thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ, nét núi mùa
xuân . Thế là đủ cho một tuyệt sắc. Trong nhân tướng học Trung Hoa, phàm ai
có đôi mắt vậy thì rất đa đoan và nặng tình. Chính “làn thu thủy” ấy đã dự cảm
cho số phận nghiệt ngã của nàng Kiều trong suốt 15 năm trời lưu lạc sau này.
Như vậy, hình ảnh nhân vật không trực tiếp tác động đến các giác quan của con
người mà ta chỉ có thể cảm nhận bằng năng lực cảm thụ, liên tưởng mà thôi.
Đây là nét đặc trưng, riêng biệt của văn học mà không loại hình nghệ thuật nào
có thể có được.
c. Khả năng biểu hiện không gian – thời gian
Chất liệu của các loại hình nghệ thuật khác, mặc dù là vật chất, vật thể, nhưng
hiển nhiên hoàn toàn có khả năng chuyển hóa thành những kí hiệu tượng trưng
cho các sự vật khác. Tuy nhiên, cho dù có gộp tất cả những chất liệu như: âm
thanh, tiết tấu, màu sắc, đường nét, hình thể,... cũng không thể nào tượng trưng
cho mọi sự vật, hiện tượng trong nhân sinh và vũ trụ này. Chính vì thế các loại
hình nghệ thuật khác đều mang những hữu hạn trong việc biểu hiện không gian,
thời gian ở những mức độ và hình thức khác nhau. Mặt khác, với tư cách là vật
thể, những chất liệu ấy cho dù có thứ nhẹ như lông hồng thì tác phẩm cũng rất
cồng kềnh. Một bức tranh không thể vẽ hết được một cánh rừng bất tận, một
bài hát không thể nói hết được khói bụi chiến tranh,…
- Trái lại, với tư cách là những kí hiệu phi vật thể, ngôn ngữ hay ngôn từ có thể
cố kết lại trong văn bản cực kì gọn nhẹ. Và đúng như một câu đố Nga: “Không
phải là mật nhưng lại dính với tất cả”, ngôn ngữ hay ngôn từ có thể hình dung
bất kì sự vật nào trong thế giới vĩ mô cũng như vi mô, hữu hình cũng như vô
hình. Lấy ngôn từ làm chất liệu văn học mang tính cực trị và cực tiểu về không
gian, cực lâu và cực nhanh về thời gian là như vậy.
Thứ nhất, văn học tái hiện được cả không gian vật lý với cây đa, bến
nước, sân đình:
“Đầu làng cây duối
Cuối làng cây đa
Cây duối anh để làm nhà
Cây đa bóng mát này ra anh chào”
Hay:
“Hỏi đâu trúc mọc bờ ao
Ai xinh ai đứng nơi nào cũng xinh
Hỏi đâu táo rụng sân đình”
Cây đa, bến nước sân đình là biểu tưởng của làng quê Việt Nam, là nơi hò hẹn
của những đôi trai gái yêu nhau, nơi tụ tập sum họp, lễ hội của người dân, là
nơi dừng chân nghỉ ngơi sau ngày làm đồng vất vả, cùng nhau trò chuyện vui vẻ,
cùng hát cũng câu ca, điệu hò, điệu lí dân ca. Hiện thực cuộc ấy đi vào trong thơ
ca như một người tình yêu dấu tram năm không lỡ lời thề.
Thời gian trong văn học cũng vô cùng độc đáo, đó là ánh nắng dịu ngọt của mật
vào buổi sáng bình minh, là ánh nắng vương vấn cuối ngày của buổi hoàng hôn.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Thứ hai, văn học không chỉ tái hiện không gian, thời gian vật lý, mà khung
thời gian tâm lý, tâm linh được diễn tả sâu sắc:
“Dạo hiên vắng thầm reo từng bước
Ngoài rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
- Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Giữa không gian tĩnh mịch và vắng vẻ người chinh phụ bồn chồn, thấp thỏm
chờ tin chồng trở về. Nỗi cô đơn, buồn tủi phủ khắp bầu không gian để người
thiếu phụ cô đơn, lẻ bóng suốt đêm thâu bao tháng ngày. Nếu tiếng yêu thúc
giục nàng Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” thì ở đây trước hiên
vắng người chinh phụ lại “thầm gieo từng bước”. Không gian nghệ thuật mà
người nghệ sĩ gợi ra chính là “hiên vắng” nhỏ hẹp trước nhà. Nàng lo lắng đi đi
lại lại trong vô thức như muốn reo rắc vào lòng người đọc những thanh âm của
khổ sầu. Thẳm sâu trong tâm hồn đang chất chứa bao nỗi khổ đau không nơi
giãi bày. Cả không gian “trong rèm” và “ngoài rèm” đều nặng nỗi buồn, bao phủ
một lớp bụi hiu quạnh, cô đơn. Phải chăng là:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Sự chia lìa của thời gian trong thơ Hàn Mặc Tử mới chua xót làm sao:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thui hoa bắp lay”
Không gian gió mây chia lìa như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Trong thiên nhiên
gió mây vốn là người bạn tâm giao, tri âm tri kỉ chẳng bao giờ chia lìa. Vậy mà
trong thơ Hàn Mặc Tử gió mây lại chia cắt đôi ngả như tình và lòng người bấy
lâu, như chính mối tình của Hàn Mặc Tử.
Nhìn lại quan niệm về thời gian, không quan qua các thời kì và thông qua lăng
kính của người nghệ sĩ là vô cùng khác nhau. Nếu thời gian trong thi ca trung đại
là “thời gian tuần hoàn” nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn
quay liên tục, tái diễn, hết vòng này đến vòng khác. Đã là vòng tròn tuần hoàn thì
thời khắc, thời đoạn có qua đi thì cũng có thể quay trở lại. Quan niệm thời gian
tuần hoàn xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để
làm thước đo thời gian.
Ngược lại, thời gian trong thơ Xuân Diệu là “thời gian tuyến tính” nghĩa là thời
gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì
vậy mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên tâm trạng của con
người trước cuộc đời vì thế cũng không còn an nhiên, chậm rãi mà sống nhanh,
sống vội, sống gấp hơn.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
- Xuân Diệu nhìn cuộc đời bằng đôi mắt xanh non biếc rờn nhưng cũng không
tránh khỏi những hoài nghi, mất mát. Điều thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi
già mau tới, bởi thời gian là tuyến tính nên thời gian như một dòng chảy mà mỗi
một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Bởi vậy, cách sống Xuân Diệu lựa
chọn là sống nhanh để tận hưởng, tận hiến thời gian.
“Nhanh lên chứ, vội vàng lên mới chứ
Em ơi em, tình non sắp già rồi”
d. Tính phổ thông của văn học trong sáng tác, truyền bá, tiếp nhận, lưu
trữ
Ngôn ngữ có một đặc điểm tuyệt diệu là vốn sở hữu chung của mọi người
nhưng đồng thời cũng là sở hữu riêng trọn vẹn không cần phải chia cho từng
người. Do đó, là một phương tiện vừa để tự biểu hiện lại vừa để giao tiếp với
người khác. Từ đó, về mặt sáng tác, nếu quả mỗi người đều có mầm mống
nghệ sĩ thì nghệ sĩ ngôn từ dễ nảy mầm nhất. Và dễ dàng nhận thấy việc sáng
tác, xuất bản, lưu trữ, phát hành, tiếp nhận,… của văn học ít phải đầu tư về
phương diện vật chất hơn nhiều so với các loại hình nghệ thuật khác. Chỉ cần
nhắc tới việc xuất bản một số lượng lớn những tác phẩm văn học mà vẫn đưa
được bản chính đến tận tay từng người đọc, chứ chưa cần đề cập đến vốn đầu
tư cho một cuốn phim lớn như thế nào. Đó là chưa kể tùy theo sở thích và hoàn
cảnh của mình người đọc được tự do tuyệt đối trong việc thưởng thức: đọc
nhanh, đọc chậm, liền mạch hay nhảy cóc, đọc dở dang hay đọc đi đọc lại.
Tiểu kết:
Tác phẩm văn học không chỉ phụ thuộc vào chất lượng mà còn phụ thuộc vào
rất nhiều điều kiện khác nhau trong quá trình truyền bá, tiếp nhận của bạn đọc.
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, bùng nổ của văn hóa nghe nhìn đầy hấp dẫn,
thú vị, mới mẻ, tính chất phi trực quan của văn học ngày càng tỏ ra ít thuận tiện
và ưu thế. Tuy nhiên, do văn học là nghệ thuật ngôn từ, văn học bao giờ cũng
bộc lộ khuynh hướng tư tưởng sâu sắc hơn và phản ánh hiện thực toàn diện
hơn với cách tiếp nhận và cảm nhận bằng chính sự liên tưởng của người đọc.
4. Chức năng của văn học
Để làm rõ được luận điểm: “Trong tương lai con người có cần đến văn học nữa
hay không? Vì sao?”, chúng ta phải làm rõ giá trị của văn học trong tương quan
với các loại hình nghệ thuật khác.
Xuất phát từ nhu cầu giáo dục, giải trí, thẩm mỹ, mà văn học ra đời nhằm đáp
ứng những nhu cầu đó. Như vậy, nhận xét từ phía cá tính sáng tạo, từ bản chất
văn học, từ góc độ tiếp nhận thưởng thức có thể thấy văn học mang nhiều chức
năng trong bản thân nó như một hành động ý thức xã hội từ sáng tạo đến tiếp
nhận. Tính đa chức năng của văn học được quyết định bởi tính thống nhất đa
- dạng của đối tượng nghệ thuật và tính đa nhu cầu của đời sống xã hội và chủ
thể sáng tác.
Chức năng của văn học thường vận động, biến đổi theo sự đổi thay nhu cầu
của con người trong đời sống xã hội. Mỗi một thời đại, một dân tộc tùy hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của mình mà có những yêu cầu khác nhau đối với hoạt động
văn học và mỗi cộng đồng, mỗi giai cấp, mỗi cá nhân lại tùy vào điều kiện thực
tại của mình, mục đích thực tiễn của mình để có thể khai thác, tận dụng các
khả năng tiềm tàng khác nhau của văn học.
Khi cuộc sống thanh bình người ta thích ngâm thơ, vịnh nguyệt tìm thú vui trong
thưởng thức văn chương. Lúc cả xã hội dồn sức đấu tranh chống giặc ngoại
xâm thì chức năng, nhận thức giáo dục của văn học được đề cao: “Văn chương
là vũ khí chiến đấu”.
a. Chức năng thẩm mỹ (chức năng bản chất của văn học)
Tình cảm thẩm mỹ là đặc trưng bản chất của văn học nghệ thuật. Nó cho phép
văn học thể hiện chức năng tình cảm thẩm mỹ. Chức năng này là chức năng bao
chum đặc trưng của văn học.
Thẩm mỹ là một phạm trù mang đặc điểm vừa có nét khách quan, vừa có nét
chủ quan. Trong tiếp nhận, đánh giá theo một cách nhìn nào đó mang quan hệ
người thì trăng sao, cây cỏ, cái chết, sự sống,… lại có thể trở thành cái đẹp, cái
xấu, cái cao cả anh hùng hay cái bi, cái hài, trở thành những xúc động có thể làm
con người thỏa mãn, thích thú, sung sướng, hay khó chịu, khổ đau.
Cái thẩm mỹ tồn tại rất nhiều ở dưới các dạng cụ thể khác nhau. Giá trị thẩm
mỹ không chỉ là cái đẹp mà ngay cả cái xấu, cái thấp hèn. Đó là những khách
thể thẩm mỹ gắn với con người chủ thể thẩm mỹ, cái thẩm mỹ hiện ra với
nhiều cung bậc, cấp độ khác nhau: xúc động thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, ý
thức thẩm mỹ. Trong tác phẩm nghệ thuật thì hình tượng thẩm mỹ là đặc trưng
bản chất thể hiện sức sáng tạo của nghệ thuật, không có các phương diện thẩm
mỹ thì không thành hoạt động văn học nghệ thuật.
Như vậy, thẩm mỹ trong văn học là tiếng nói của tình cảm thẩm mỹ (hay tình
cảm của con người xã hội mang tính thẩm mỹ) nghệ thuật như một hoạt động
từ sáng tạo đến tiếp nhận đều khởi đầu bằng xúc động thẩm mỹ. Khi xúc động
thẩm mỹ kéo dài sẽ thành tình cảm thẩm mỹ. Ngược lại, không có xúc động
thẩm mỹ, tình cảm nghệ thuật thì không có hoạt động nhận thức, sáng tạo nghệ
thuật.
Thứ nhất, chức năng thẩm mỹ thể hiện ở việc phản ánh cái đẹp ngay cả
những cái xấu (thẩm xú). Trước hết, phản ánh và nhận biết cái đẹp trong văn
chương không phải là sao chép, chụp ảnh một cách nguyên xi mà phải chọn lọc,
khái quát một cách công phu, thực hiện điển hóa nghệ thuật. Nghĩa là làm cho
- cái đẹp trong hiện thực hiện lên rõ hơn, sâu sắc hơn, xúc động hơn. Nhờ nghệ
thuật mà cái đẹp trong cuộc sống thực vốn dễ trôi qua với dòng chảy liên tục
của cuộc sống được cố định, lưu giữ. Đời sống được bổ sung, giàu có thêm bởi
cái đẹp của thế giới nghệ thuật, giúp con người có điều kiện chiêm ngưỡng,
suy ngẫm cái đẹp thiên hình vạn trạng như vĩnh hằng, như thoảng qua của vũ
trụ, trái đất, con người,…
Cái đẹp của tạo hóa thiên nhiên được đưa vào trong thơ đầy lãng mạn, thi vị
trong thơ của Nguyễn Khuyến:
“ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như từng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
Mùa thu của vùng đồng bằng Bắc Bộ có cái dịu ngọt, nhè nhẹ, khoan thai rất
hợp với lòng người. Một màu “xanh ngắt” chứ chẳng phải mang màu xanh lục,
xanh dịu, màu xanh ấy không chỉ đơn thuần là nền màu của bầu trời mà nó còn
mang cả cái tình tha thiết của thi nhân đối với mùa thu. Không gian mở ra theo
cả chiều sâu biết “mấy tầng cao”, và nổi bật lên cùng những hình ảnh ấy là
những “cần trúc” đang khẽ đung đưa trong gió thu. Từ láy “lơ phơ” không làm
cho khung cảnh trở nên vắng vẻ đìu hiu, mà nó lại hòa hợp với tiết trời sang thu
đến lạ kì. Xuân đến mang những mầm non mới mọc cho đến ngày thu về,
những thân măng đã trở thành thân tre, có hình dáng cong cong như chiếc cần câu
cùng với những chiếc lá xanh non thưa thớt. Làn gió hắt hiu, nhè nhẹ sự có mối
liên kết với những cành trúc nhỏ, mang đến một cảm giác rất ấm áp, sâu kín,
nhẹ nhàng và tinh tế. Thu trong thơ Nguyễn Khuyến khiến lòng người tê dại,
khung cảnh của một vùng quê thanh bình, giản dị, mộc mạc.
Văn chương còn phản ánh cái đẹp trong xã hội, cách ứng xử giữa con người với
con người. Giữa cuộc sống mưu sinh, vật lôn với cơm áo gạo tiền của những
cậu bé trong “Chiến binh cầu vòng” vẫn giàu nghị lực, khát vọng vươn lên trong
cuộc sống. Mười một em với mười một cá tính, ước mơ, hoàn cảnh riêng nhưng
trong đôi mắt đều rực cháy khát vọng được đến trường, được ánh sáng của con
chữ soi sáng cuộc đời. Cuộc sống của những cô cậu bé phải làm culi để kiếm
sống vẫn luôn yêu thương, giúp đỡ nhau tiến bộ trong học tập. Người nọ truyền
lửa cho người kia. Cứ thế các em viết lên câu chuyện tuổi thơ của riêng mình
tuy nghèo khổ nhưng ngập tràn tình yêu thương.
Đến với văn chương chúng ta tìm thấy những xúc cảm, giá trị của tình người từ
hiện thực cuộc sống. Những cung bậc cảm xúc dường như khó diễn tả mà qua
- ngôn từ của nghệ thuật văn chương bỗng trở nên chân thực, chạm đến cảm xúc
của lòng người.
Nếu hiểu giá trị thẩm mỹ chỉ là cái tốt thì hơi phiến diện mà giá trị thẩm mỹ
còn đề cập đến cả cái ác, cái xấu, cái đê hèn, thấp kém. Nhưng đề cập đến
những khía cạnh ấy không phải làm hạ thấp giá trị văn học mà nói đến cái xấu,
cái ác, để hủy diệt cái xấu, hướng tới những điều tốt đẹp. Trong đời sống nói
chung, cái đẹp và cái xấu, “ánh sáng” và “bóng tối” không phải bao giờ cũng
phận biệt rạch ròi. Chẳng những thế, con người có một đặc tính mà như L.
Tôn xtôi gọi là tính “lưu luyến” (fluidité). Khi thông minh, khi lại ngu dốt, khi
mạnh mẽ, khi lại yếu đuối, khi ác, khi thiện, khi vui, khi buồn… Chính con
người cần đến văn chương để bồi đắp lí tưởng thẩm mĩ, dùng cái nhìn của văn
học để nhận thức, phân biệt thiện – ác, tốt – xấu. Quan trọng hơn, văn nghệ,
văn học giúp người ta ghét cái ác, yêu cái thiện, ghê cái xấu, mến cái tốt. Hoặc
bằng thái độ phê phán hoặc châm biếm, có khi cả hai, văn chương giúp con
người tránh xa cái xấu, vươn tới cái đẹp, cái thiện.
Có thể nói, văn chương chân chính từ xưa đến nay, ngay cả khi nói về cái xấu,
cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện của con người.
Trong văn học Việt Nam, từ truyện cổ tích, từ ca dao đến thơ ca ngày nay đều
mang đặc tính ấy. Truyện Tấm Cám xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập thuộc
hai thái cực hoàn toàn trái ngược nhau. Mẹ con Cám là các nhân vật phản diện,
là hiện thân của cái ác. Ở đây, tác giả dân gian khai thác, thể hiện sự tăng tiến
của cái ác. Từ việc đối xử không công bằng với Tấm đến những âm mưu và
hành động hãm hại Tấm, thậm chí lấy mạng cô Tấm. Chính sự gia tăng tội ác
này mới đáng sợ. Qua quá trình gia tăng ấy, tác giả dân gian muốn hình thành ở
người đọc sự căm ghét và phản đối ngày một quyết liệt hơn. Quan trọng hơn,
khát vọng về cái đẹp, cái thiện được đề cao. Cụ thể qua hai tình tiết. Thứ nhất,
mặc dù mẹ con Cám hết lần này đến lần khác hãm hại Tấm, thậm chí ngày một
tàn độc hơn, cô Tấm vẫn bền bỉ, vẫn tiếp tục hóa thân để chuẩn bị cho sự trở
lại. Nhân dân thể hiện niềm tin vào cái đẹp, cái thiện, công lí. Rằng chúng là
bất diệt, cái ác không bao giờ chiến thắng được hoàn toàn cái thiện. Thứ hai,
với sự “lên ngôi” của cô Tấm và việc mẹ con Cám bị trừng phạt, tác giả dân
gian thể hiện khát vọng về chiến thắng cuối cùng của cái đẹp, cái thiện cũng
như sự diệt vong của cái ác, cái xấu! Mặc dù trong phần lớn câu chuyện, cái ác,
cái xấu liên tục thắng thế, chèn ép cái thiện, cái đẹp. Nhưng khi truyện kết thúc,
độc giả vẫn hài lòng với sự bất diệt tất yếu của cái đẹp.
Văn học chân chính qua bao thời đại vẫn giữ nguyên lập trường về cái xấu, cái
ác. Không bao giờ và không ở đâu cái xấu, cái ác lại được đề cao, trân trọng.
- Văn chương trung đại đã có biết bao bản cáo trạng bằng thơ đanh thép tố cáo
tội ác của quân xâm lược như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỗ xuống dưới hầm tai vạ.
Những tội ác mà “trúc Lam Sơn không ghi hết tội” ấy, nghìn đời không thể
dung thứ. Và tác giả của áng “thiên cổ hùng văn” đã thể hiện rất rõ thái độ căm
hận đối với tội ác quân thù, giống như Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn
khi xưa mang mối hận “chưa xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu” quân thù. Cái
khát vọng bình yên no ấm cho nhân dân, khát vọng tự do cho dân tộc đã được
thể hiện qua cách mà các nhà thơ, cũng như những viên tướng trực tiếp chiến
đấu chống ngoại xâm, gửi gắm trong thơ ca. Cái ác trong văn chương của họ
hiện lên làm bất cứ người dân Việt Nam nào cũng phải trào sôi nỗi căm hận
quân thù và xót thương cho số phận nhân dân ta.
Có thể nói văn học viết về cái xấu, cái ác còn là trên góc độ những nạn nhân
của chúng. Tức là khai thác mâu thuẫn giữa cái đen tối và cái tốt đẹp cũng như
với thân phận con người. Từ việc chỉ ra cái xấu, cái ác và sự xâm hại của nó
đến cái đẹp, đến những giá trị cao cả, văn học đem đến cho con người cảm
nhận về cái bi (tragic). Cái bi cũng hướng tâm hồn con người đến cái đẹp, cái
thiện. Và cũng như Arítxtốt nói, có khả “thanh lọc” (catharsis) tầm hồn con
người. Ông viết trong Thi học: “… Với những tình tiết làm thức tỉnh tình thương
và sự sợ hãi, và qua đó, thực hiện sự thanh lọc đối với những cảm xúc ấy”.
Từ góc độ mĩ học, có thể nhìn nhận cái xấu, cái ác như những phạm trù thẩm
mĩ cục bộ – với cái đẹp – mang ý nghĩa khái quát, là hạt nhân của mĩ học, cái mà
để chính xác nên gọi là cái thẩm mĩ (aesthetic). Có thể nói, cái xấu, cái ác cũng là
một phần tạo nên cái thẩm mĩ, là mặt biện chứng của cái đẹp (cục bộ). Do đó
hoàn toàn có thể xuất hiện trong nghệ thuật. Cố nhiên, nói về cái xấu, cái ác
cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện. Nếu viết về cái tiêu
cực mà không có điểm tựa lí tưởng thẩm mĩ và nhất là định hướng thẩm mĩ, tác
phẩm sẽ rơi vào chủ nghĩa tự nhiên hoặc chủ nghĩa dung tục. Chức năng thẩm
mĩ là chức năng quan trọng nhất của văn chương, nó làm cho nghệ thuật trở
thành hoạt động tinh thần không thể thay thế được.
Nhà văn phải có con mắt tinh đời để phát hiện ra bản chất cuộc sống, những
bản chất không hiện lộ ra ngoài ở những điều dễ thấy. Nhà văn cần phải có tài
năng để xây dựng một thế giới hình tượng hấp dẫn và có tâm huyết để phản
ánh đúng sự thật cuộc sống mà không thoát li, ảo tưởng.
Thứ hai, văn học không chỉ phản ánh cái đẹp mà còn sáng tạo cái đẹp (cái
cần có, nên có trong hiện thực cuộc sống). Văn chương đồng nghĩa với sự
- sáng tạo. Mỗi “sáng tạo nghệ thuật chân chính” luôn phải toát ra ở nội dung tư
tưởng, một thái độ suy nghĩ của người viết ẩn sâu trong đó, và một tình cảm,
tấm lòng mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm đến bạn đọc. “Mỗi sáng tạo nghệ
thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh họa đơn giản cho tư tưởng
này hoặc tư tưởng khác, cho dù ấy là tư tưởng rất hay”. Bởi mỗi tác phẩm được
xem là thành công, có chỗ đứng trong lòng bạn đọc cũng như trụ vững với thời
gian không bao giờ đồ chiếu y nguyên hiện thực cuộc sống, cũng không bao giờ
là lời lên gân cho những tư tưởng trong tác phẩm. Rõ ràng, để thể hiện suy nghĩ,
thái độ, cũng như tư tưởng trong sáng tác của mình, người nghệ sĩ phải sáng tạo
ra những hình tượng độc đáo, và qua hình tượng ấy để nói lên quan niệm suy
nghĩ, thái độ bản thân. Mỗi một “sự minh hoạ giản đơn” sẽ không bao giờ làm
nên sức sống của tác phẩm, sẽ bị đào thải cùng với thời gian, đúng như nhà văn
Nam Cao đã từng nói: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay
làm nên một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết
đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
Người nghệ sĩ trong quá trình lao động nghệ thuật luôn luôn phải tìm tòi sáng
tạo, có khi là dùng nhân vật hình tượng để gửi gắm tâm tư tình cảm của mình,
có khi phát biểu tư tưởng ấy bằng một hình thức nghệ thuật độc đáo, riêng biệt,
chính điều đó sẽ góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Ở Việt Nam ta không thể không nhắc đến Nam Cao nhà văn nhân đạo lớn. Tại
sao nói ông là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy? Những trang viết của Nam Cao về
người trí thức nghèo trước cách mạng tháng Tám cũng chính là những suy tư,
trăn trở của chính con người Nam Cao. Trong đó bi kịch của nhân vật Hộ trong
“Đời thừa” thể hiện rõ nhất những trăn trở, suy tư của ông với tư cách con
người và nghệ sĩ. Hộ vấp phải bi kịch đầu tiên đó là bi kịch về những giấc
mộng văn chương. Đối với anh, văn chương là trên hết, là khát vọng lớn nhất
của anh. Anh muốn viết tác phẩm “lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn
khởi. Nó ca tụng lòng thương tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần
người hơn”. Một giấc mơ cao cả và chính đáng, anh có quyền mơ như thế với
tư tưởng lớn như vậy. Thế nhưng đớn đau thay “cơm áo không đùa với khách
thơ”. Anh không thể sống ích kỷ cho riêng mình, anh còn có mẹ già và vợ con,
anh phải sống có trách nhiệm. Chính những nỗi âu lo về tiền bạc đã níu kéo
giấc mộng văn chương của đời trai trẻ. Làm thế nào đây khi mai lại đến hạn
nộp tiền? Sống sao khi đàn con thơ chưa ăn được bữa no? Anh phải viết, bắt
buộc phải viết thật nhanh và vội để không chết đói. Cái nghèo đói và trách
nhiệm gia đình đã đẩy anh vào bi kịch văn chương. Anh không khóc nhưng có lẽ
- ta có thể thấu những những giọt nước mắt chua xót bất lực của anh. Có người
cho rằng anh chính là hình ảnh của Nam Cao thời kỳ trước cách mạng. Không,
Nam Cao đã có có thể bị áo cơm ghì chặt nhưng ông vẫn hơn Hộ, ông đã viết
nên những áng văn hay nhất về cuộc đời và những kiếp lầm than như Chí Phèo,
Làng, Đời thừa... Nam Cao đã thể hiện tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo
trong Đời thừa. Đó là ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ và sự cảm thông sâu sắc
với người trí thức nghèo. Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư tình cảm
con người thì Nam Cao mới viết nên những câu văn lay động lòng người như
thế. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ dường như
lãnh đạm ấy lại chính là một tấm lòng sôi nổi, nhiệt thành, một trái tim của tình
nghĩa.
Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:
“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật
Một giọt mật thành, đời vạn chuyến ong bay
Nay rừng nhãn non Đoài, mai vườn cam xứ Bắc
Ngọt mật ở đồng bằng mà hút nhụy tận miền tây.”
Người nghệ sĩ phải hút lấy chất mật ngọt tinh túy nhất của “quặng” cuộc đời,
chưng cất những chất liệu hiên thực để tạo nên tác phẩn thật sự có giá trị ở đời.
Sáng tạo nghệ thuật là một hành trình lao động miệt mài và thấm đẫm những
giọt nước mắt. Để trở thành nhà văn không khó nhưng một nhà văn chân chính
lại không hề dễ dàng. Người nghệ sĩ phải sống thật với đời, “cảm” sâu những
tiếng nói tình cảm vẫn ngày đêm thổn thức giữa chốn bộn bề, không ngừng
sáng tạo và bồi dưỡng tâm hồn mình để tư tưởng tình cảm tốt đẹp có thể lan
tỏa muôn nơi. Văn học dẫu cho cùng vẫn là câu chuyện của những trái tim đồng
điệu, của những tiếng nói đồng tình, đồng chí, đồng ý vì thế bạn đọc phải nâng
cao nhận thức cũng như không ngừng bồi đắp trái tim cho đẹp, cho tốt. Khi ấy
văn học đã hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng của mình: hướng con người đến giá
trị đích thực Chân – Thiện – Mỹ.
Văn chương muôn đời là mảnh đất bí ẩn cần được khai thác. Chắt chiu từng
những hạt bụt vàng giữa cuộc đời để đúc nên “bông hồng vàng”, nhà văn thực
sự đem lại hạnh phúc cho cuộc sống và chính mình. Tác phẩm văn học dù cho
viết về cái xấu hay cái tốt, lương thiện hay tàn ác nhưng một khi đã bắt rễ vào
hiện thực và chất chứa những giá trị nhân văn to lớn thì mãi mãi văn học sẽ sống
và bầu bạn với con người dẫu “mọi lý thuyết là màu xám, chỉ cầy đời mãi mãi
xanh tươi” (Gớt)
- Thứ ba, văn học giúp chúng ta bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ. Nhờ tiếp xúc
với các tác phẩm nghệ thuật, con người dễ nhận ra cái hay, cái đẹp của văn
chương, có được những kinh nghiệm thẩm mỹ để nhìn ra cái đẹp của đời sống
xã hội và tâm hồn con người. Văn học nghệ thuật là nơi nuôi dưỡng tình cảm
thầm mỹ, gìn giữ và phát triển chất nghệ sĩ nơi tâm hồn, làm con người biết yêu
thương, chân quý cái tốt, cái đẹp, biết căm ghét cái xấu, cái ác. Chính ở chỗ này
văn học giúp con người vươn đến cái đẹp, cái hoàn thiện, nhân đạo hóa con
người, làm con người trở thành Người hơn.
b. Chức năng nhận thức
Xuất phát từ nhu cầu khác nhau của con người mà văn học ra đời nhằm thỏa
mãn những nhu cầu đó. Như vậy, chức năng nhận thức cũng nhằm thỏa mãn yêu
cầu của con người. Chức năng nhận thức thể hiện ở vai trò phản ánh hiện thực
của văn học. Nó có thể đem đến cho người đọc một thế giới tri thức mênh mông
về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay; về vẻ
đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp thế giới. Văn học là bộ bách khoa
toàn thư về cuộc sống. Ăngghen cho rằng đọc tiểu thuyết của Banzắc, người
ta có thể hình dung và hiểu về xã hội nước Pháp hơn là đọc sách của nhiều
ngành khoa học xã hội cộng lại. Được như vậy là nhờ chức năng nhận thức của
văn học.
Mặt khác, văn học còn giúp con người nhận thức về bản thân mình. Từ bao
nhiêu thế kỉ nay, con người thường băn khoăn trước những câu hỏi lớn:
“Mình từ đâu đến?”; “Mình sống để làm gì?”; “Vì sao đau khổ; “Làm thế nào để
sung sướng, hạnh phúc ?”… Toàn bộ văn học cổ kim, đông tây đều thể hiện sự
tìm tòi, suy nghĩ không mệt mỏi của con người để giải đáp những câu hỏi đó. Ở
nước ta, văn học dân gian và các tác phẩm của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh, Ngô Tất
Tố, Nam Cao, Tố Hữu… đều cho thấy cái gì là đáng yêu, đáng ghét trong xã hội,
giúp chúng ta có khả năng phân tích, đánh giá để nhận ra chân giá trị của mỗi
con người. Nguyễn Du miêu tả những cảnh đời, những số phận bị vùi dập, khổ
đau để thấy khát vọng về quyền sống của cọn người mãnh liệt biết chừng nào.
Văn học cách mạng thể hiện quan điểm sống chết của nhiều thế hệ sẵn sàng hi
sinh cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Thậm chí, từ những chi tiết tưởng chừng
nhỏ nhặt trong cuộc sống được nhà văn đưa vào tác phẩm cũng giúp người đọc
soi mình vào đó để sống tốt hơn. (Đi đường, Tự khuyên mình, Ốm nặng – Hồ
Chí Minh; Con cá chột nưa, Trăng trối – Tố Hữu…).
- Bộ sử thi Mahabrahata cho ta thấy toàn cảnh xã hội Ấn Độ thời kì cổ đại,
những giá trị, quan niệm về đạo đức, đạo lý, về tình yêu, sức mạnh,… Không
những vậy, văn học giúp ta nâng cao nhận thức, hiểu biết về chính đời sống tinh
thần của con người và của chính mình. Đó là những chấn thương tâm lý, những
ẩn ức, nỗi đau thầm kín hay do ảnh hưởng bởi chấn thương tâm lý khi còn nhỏ
đã ám ảnh, day dứt con người như thế nào. Đến với “Nỗi buồn chiến tranh” ta
càng thấm thía hơn điều đó. Chiến tranh qua đi nhưng đau thương còn mãi.
Người lính được trở về gia đình, quê hương, trở lại cuộc sống thanh bình, rời xa
khói lửa của chiến trường, của chết chóc, của những thây xác đồng đội ngã
xuống không manh chiếu che thân, không mảnh vải đắp lên người,…Nhưng khi
trở về cuộc sống thực họ vẫn luôn bị ám ảnh những kí ức của chiến tranh, đặc
biệt là sự chết chóc, thương tâm, đau xót từ những người anh em đồng đội.
Thậm chí, họ không thể ngủ bởi giấc mơ kinh hoàng, cuộc sống họ bị đảo lộn
và thực tế cho thấy việc hòa nhập lại với cuộc sống của cộng đồng thời bình
cũng gặp vô vàn khó khăn.
Văn học đã khai thác ngay cả những góc khuất tưởng chừng như sâu kín nhất
của con người. Đến với cuốn sách “Báu vật cuộc đời” ta có thể nhìn thấu được
xã hội Trung Hoa một thời với những hủ tục trà đạp lên người phụ nữ đầy tàn
nhẫn. Báu vật ở đời của ông đã khái quát trọn vẹn cả một giai đoạn lịch sử hiện
tại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa thông qua số phận các thế hệ trong gia
đình Thượng Quan. Ngẫu nhiên ta sẽ bắt gặp chút nét đẹp mà buồn như
Kawabata từng viết trong “Người đẹp ngủ mê”. Chỉ cần khơi gợi chút ít thôi
cũng đủ sức ảnh hưởng dữ dội đến tâm hồn ta. Hình ảnh những người phụ nữ
ấy, các biểu tượng phồn thực như những thiên thể có hình dáng ngực và mông
tràn đầy sức sống nhưng bị trói nhốt bởi các hủ tục nặng nề: tục bó chân, bạo
lực phụ nữ, bởi tuổi tác, bởi chính bản thân con người họ đã thâu tóm tròn đầy
linh hồn bộ tiểu thuyết đồ sộ hơn một nghìn trang.
Như vây, văn học đã cung cấp tri thức để chúng ta tự nhận thức. Đây là
điểm rất khác biệt của văn học so với các loại hình nghệ thuật khác. Bởi đó là
cả một quá trình nhận thức, tư duy để tìm hiểu cuộc sống, thế giới với muôn
hình vạn trang, tìm hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán và ngay cả thế giới nội
tâm, những ẩn ức cá nhân của mỗi con người. Văn học thường thể hiện đời
sống tinh thần qua trường hợp, mối quan hệ cụ thể. Người nghệ sĩ sẽ thiết lập
một ranh giới của thế giới nghệ thuật và người đọc sẽ trải nghiệm trong thế
giới nghệ thuật mà người nghệ sĩ tạo ra, từ đó chiêm nghiệm, tự rút ra cho mình
bài học, kĩ năng, tri thức. Đây cũng là cách ghi nhớ vô cùng sâu sắc, giúp ta thu
nạp thêm nhiều tri thức. Tuy nhiên, năng lực nhận thức của mỗi người là khác
- nhau, nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như năng lực cảm thụ cái đẹp, vào
cách nhìn, cách lý giải, năng lực cảm thụ cái đẹp của người tiếp nhận và người
sáng tác. Nhờ tính cá thể trong quá trình tiếp nhận văn học mà chiều sâu nhận
thức cũng rất đa dang, phong phú, nhiều màu sắc, cung bậc. Đó là cái đẹp riêng
của văn chương mà các hình thức nhận thức khoa học không thể có được. Với
những tác phẩm văn học lớn, giá trị nhận thức, thẩm mỹ của nó như mãi trường
tồn và sâu rộng thêm cùng thời gian và các thế hệ người đọc khác nhau.
c. Chức năng giáo dục
Bắt nguồn từ nhu cầu sống về nhiều phương diện, văn học nghệ thuật trong
hoạt động của nó có mục đích truyền đạt tri thức, kinh nghiệm sống nói chung,
trong đó có phương diện thẩm mỹ cho người tiếp nhận. Chức năng giáo dục
của văn học cũng xuất phát từ đó. Ở mỗi thời kì, văn học lại thực hiện những
chức năng giáo dục riêng. Từ cổ xưa, Kinh Thi đã rất chú ý giáo dục lễ giáo,
phẩm hạnh con người. Arixtot nhận mạnh tác dụng thanh lọc của hài kịch. Văn
học phong kiến Trung Hoa, Việt Nam trong nhiều thế kỉ đề cao nhiệm vụ “Văn
dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”. Văn chương giáo huấn đạo đức phong kiến thấm sâu
trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Mỗi nhân vật đều biểu tượng cho
phẩm chất đạo đức nhất định: người anh hùng trượng nghĩa, cương trực, khảng
khái, người anh hùng lý tưởng của dân, gần dân, sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ
quyền lợi cho nhân dân – Lục Vân Tiên. Một Kiều Nguyệt Nga thủy chung son
sắt, mang vẻ đẹp của người con gái công – dung – ngôn – hạnh,…
Văn học thế kỉ XVIII ở châu Âu coi trọng nhiệm vụ khai sáng. Letxing cho rằng
sân khấu phải trở thành trường học đạo đức và tất cả các thể loại thơ ca đều
phải uốn nắn chúng ta. Văn thơ yêu nước, cách mạng Việt Nam luôn thấm
nhuần chức năng giáo dục tinh thần yêu nước, yêu dân, chí khí anh hùng bất
khuất:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
Nguyễn Đình Chiểu coi thơ văn là phương tiện dùng để chiến đấu, để cổ vũ sự
nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân, cổ vũ tinh thần anh dũng trong các
cuộc chiến.
Thứ nhất, từ bản chất thẩm mỹ của mình văn học có điều kiện thực hiện
chức năng giáo dục thẩm mỹ. Đó là quá trình nâng cao năng lực thẩm mỹ của
con người trong đó có việc bồi dưỡng các cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ
và lý tưởng thẩm mỹ. Từ đó, con người có khả năng tiếp cận và tiếp nhận cái
đẹp một cách có hiệu quả hơn.
- Các tác phẩm ở những thời đại khác nhau cho chúng ta biết được sự đánh giá về
cái đẹp của giai đoạn đó. Từ những nhân vật cụ thể trong tác phẩm mà người
đọc xây dựng cho mình lý tưởng thẩm mỹ cho phủ hợp.
Hình tượng Từ Hải trong “Truyện Kiều” ngoài ý nghĩa là mơ ước tự do và công
lí của Nguyễn Du, nó còn có tác dụng khơi dậy ở người đọc ý chí độc lập tự do,
ý thức không cam tâm làm nô lệ, ý thức tháo củi sổ lồng đạp bằng mọi bất công
ở con người. Hình tượng Kiều lại giáo dục con người ta lòng hiếu nghĩa với cha
mẹ, lòng chung thủy vợ chồng, ý thức luôn luôn khơi dậy trong cuộc sống.
Trong khi đó thì Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh … là những hình tượng làm
cho người đọc căm ghét thì Từ Hải lại là nhân vật làm cho người ta thương yêu,
trân trọng, đấy chính là mặt trái và mặt phải của tác dụng thẫm mĩ của hình
tượng văn học.
Thứ hai, văn học khêu gợi tư tưởng, tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn, niềm
tin vào con người. Văn học có khả năng hướng thiện: luôn hướng con người
đến cái thiện thông qua việc hình thành quan điểm đạo đức, khơi gợi tình cảm
đạo đức cho con người thông qua hình tượng nhân vật điển hình. Từ những hình
tượng như Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, cô Tấm, Thạch Sanh,… trong
truyện cổ tích; hình tượng Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga,… trong
văn học chữ Nôm đến hình tượng mẹ Tơm, mẹ Suốt, anh hùng Núp, Tnú,…
trong văn học hiện đại đã ảnh hưởng ít nhiều đến quan niệm đạo đức của lớp
lớp thế hệ người Việt Nam.
Thứ ba, văn học là nơi nuôi dưỡng tình cảm nhân ái. Những tác phẩm văn
học ưu tú luôn có khả năng khơi dậy trong chúng ta khả năng đồng cảm; làm
cho ta biết yêu, biết buồn; dậy cho ta biết yêu, biết ghét, biết khinh bỉ sự phản
trác, cái tẹp nhẹp, tầm thường, lười biếng,… Ta thương Sọ Dừa vì hình dáng
tội nghiệp nhưng luôn luôn cố gắng vươn lên; ta thương Cô Tấm vì luôn bị kẻ
xấu hãm hại; ta thích Thạch Sanh vì luôn chiến đấu vì người khác, bảo vệ nhân
dân; ta mến Gióng vì nhỏ tuổi nhưng có quyết tâm đánh giặc cứu nước,…Ta
ghét mẹ con nhà Cám, Lý Thông,… vì chúng luôn dùng thủ đoạn để hãm hại
người tốt, mong muốn có được danh lợi nhờ sự lừa lọc, lợi dụng kẻ khác,…
Thứ tư, văn học khơi dậy trong tâm hồn ta niềm tin vào sự tất thắng của
cái thiện, niềm tin vào cuộc sống,…Cô Tấm hay Thạch Sanh dù có phải trải
- qua bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu thử thách trong hành trình của mình nhưng vẫn
giành được thắng lợi cuối cùng, vẫn có được tình yêu và hạnh phúc.
Ngoài ra, chức năng giáo dục của văn học còn ở tính chiến đấu của nó. Văn
chương là vũ khí đấu tranh giai cấp. Tính chất “vũ khí” của văn chương biểu
hiện tập trung ở chỗ này. Cải tạo là phê phán cái cũ, cái xấu, cái lạc hậu, đề
xuất cái mới cái tốt cái tiến bộ cách mạng. Nếu văn chương chỉ vạch ra cái tiêu
cực không thôi thì mới là được nhiệm vụ “phá” mà chưa làm được nhiệm vụ
“xây”. Như thế có nghĩa là chưa thực hiện trọn vẹn chức năng cải tạo. Mặt
khác, không có một vụ "xây" nào mà không gắn với phê phán, phá bỏ cái cũ, cái
xấu, cái lạc hậu, cái cản trở sự phát triển đi lên. Lênin đã từng gọi “Người
mẹ” của Gorki là “quyển sách kịp thời” bởi vì chính “Người mẹ” đã có sức
mạnh cải tạo, sức mạnh của một vũ khí tinh thần và tư tưởng cho công nhân
Nga lúc bấy giờ. Người nói: “Quyển sách này là cần thiết, nhiều công nhân đã
tham gia phong trào cách mạng một cách vô ý thức, tự phát, và bây giờ họ
đọc “Người mẹ”, điều đó sẽ mang lại ích lợi lớn cho bản thân họ”.
Và quả thật, những hình tượng điển hình về những công nhân những chiến sĩ
cách mạng Nga, qua sự miêu tả của nhà sáng lập ra nền văn chương hiện thực
xã hội chủ nghĩa, đã tỏ ra là những tấm gương mà nhờ đó nhiều thế hệ chiến sĩ
đấu tranh nhằm giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức đã học tập được.
Đặc biệt, văn học biến sự giáo dục thành tự giáo dục, giúp cho con người tự
hoàn thiện nhân cách. Nhân cách con người được hình thành một cách trọn vẹn
thông qua văn học. Các hình tượng văn học đã được nhà văn cẩn thận chọn lọc
và gây xúc cảm tự nhiên trong lòng người đọc.
Ta ghét Mã Giám Sinh, Sở Khanh hay Hồ Tôn Hiến vì chúng đã thể hiện được
bộ mặt thật của mình qua những hành động như: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
hay “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”,…Nhờ sự yêu, ghét hay thương cảm
cho các nhân vật mà từ đó, nhân cách được hình thành trong người đọc một cách
tự giác, dẫn biến tu tưởng, tình cảm thoáng qua ấy thành nhận thức của người
đọc. Văn học giáo dục chính bằng sự cuốn hút, hấp dẫn của nó chứ không phải
bằng những hình thức khô khan. Tất cả những chân lý, luân lý, đạo đức, tư
tưởng, tình cảm của văn học mang lại không khô khan, trừu tượng như triết học
hay khoa học mà rất sống động và giàu hình ảnh, được người đọc cảm nhận
một cách thích thú. Khi dạy cho đứa trẻ hiểu về tình yêu thiên nhiên, yêu quê
nguon tai.lieu . vn