Xem mẫu
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
MẠNG MÁY TÍNH
BÀI TẬP LỚN
NGUYÊN LÝ HỆ ĐIỀU HÀNH
Giáo Viên Hướng Dẫn: Nguyễn Thị Hữu Phương
Sinh Viên Thực Hiện: Lê Minh Đạt 1121050025
Hoàng Thanh Tùng 1121050333
Vũ Thị Huyền 1121050226
Lớp: Mạng Máy Tính K56
Đề Tài: Tìm Hiểu Về Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành Android
Hà Nội – Ngày 24 Tháng 04 Năm 2013
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................................. 2
2.1) Model........................................................................................................................ 31
2.2) Thương hiệu............................................................................................................ 32
2.3) Phiên bản Android................................................................................................... 32
2.4) Độ phân giải màn hình...........................................................................................32
2.5) Các bản ROM.......................................................................................................... 33
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
1. Vũ Thị Huyền.
Tìm hiểu về:
- Sự ra đời của hệ điều hành Android.
- Giấy phép.
- Biểu tượng của hệ điều hành Android.
- Phiên bản Android 1.0
- Phiên bản Android 1.1
- Phiên bản Android 1.5: Cupcake
- Phiên bản Android 1.6: Donut
2. Hoàng Thanh Tùng.
Tìm hiểu về:
- Phiên bản Android 2.0 và 2.1 : Éclair
- Phiên bản Android 2.2 : Froyo.
- Phiên bản Android 2.3 : Gingerbread
- Phiên bản Android 3.0 : Honeycomb
- Phiên bản Android 4.0 : Ice Cream Sandwich
- Phiên bản Android 4.1 và 4.2 : Jelly Bean.
3. Lê Minh Đạt
Tìm hiểu về:
- Cấu trúc của Hệ Điều Hành Android:
+ Bootloader
+ Ngôn ngữ của Android
+ Hacking – Root
+ Kernel
- Nhược điểm của Android:
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
+ Sự kém mượt và pin yếu.
+ Sự phân mảnh của Android thể hiện qua Model, Thương hiệu,
các phiên bản Android, Độ phân giải màn hình.
- Malware
- Cách thức Google kiếm tiền với Android – một hệ điều hành mã
nguồn mở
- Kết luận.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
ANDROID NGƯỜI KHỔNG LỒ XANH
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
GIỚI THIỆU VỀ HỆ ĐIỀU HÀNH MÃ NGUỒN MỞ ANDROID.
Android là hệ điều hành trên điện thoại di động (và hiện nay là cả trên một số
thiết bị kĩ thuật số khác như máy ảnh và đầu kĩ thuật số) được phát triển chính bởi
Google và dựa trên nền tảng hệ điều hành Linux. Trước đây, Android được phát triển
bởi công ty liên hợp Android ( sau đó được Google mua lại vào năm 2005). Theo công ty
nghiên cứu thị trường NPD, thiết bị di động sử dụng hệ điều hành Android bán được
tại Mỹ trong quý II năm 2010 xếp vị trí đầu tiên với 33%, thứ 2 là BlackBerry OS với
28% và iOS ở vị trí thứ 3 với 22%. Android có một cộng đồng những nhà phát triển rất
lớn viết các ứng dụng cho hệ điều hành của mình. Hiện tại có khoảng 80,000 ứng dụng
cho Android OS và vào khoảng 100,000 ứng dụng đã được đệ trình, điều này khiến
Android trở thành hệ điều hành di động có môi trường phát triển lớn thứ 2. Các nhà phát
triển viết ứng dụng cho Android dựa trên ngôn ngữ Java. Sự ra mắt của Android vào
ngày 5 tháng 11 năm 2007 gắn với sự thành lập của liên minh thiết bị cầm tay mã nguồn
mở, bao gồm 78 công ty phần cứng, phần mềm và viễn thông nhằm mục đính tạo nên
một chuẩn mở cho điện thoại di động trong tương lai. Google công bố hầu hết các mã
nguồn của Android theo bản cấp phép Apache. Hệ điều hành Android bao gồm 12 triệu
dòng code; 3 triệu dòng XML (eXtensible Markup Language, "Ngôn ngữ Đánh Dấu Mở
rộng"), 2.8 triệu dòng mã C, 2.1 triệu mã Java và 1.75 triệu dòng mã C++.
I. HỆ ĐIỀU HÀNH MÃ NGUỒN MỞ ANDROID.
1. Sự Ra Đời.
Tháng 7 năm 2005 Google mua lại Android Inc, một công ty nhỏ được thành lập
từ năm 2003 có trụ sở ở Palo Alto, California, Mỹ. Những nhà đồng sáng lập của
Android chuyển sang làm việc tại Google gồm có Andy Rubin (đồng sáng lập công ty
Danger), Rich Minner (đồng sáng lập công ty Wildfire Communications), Nick
Sears (từng là phó chủ tịch của T-Mobile), và Chris White (trưởng nhóm thiết kế và phát
triển giao diện tại WebTV). Khi đó, có rất ít thông tin về các công việc của Android,
ngoại trừ việc họ đang phát triển phần mềm cho điện thoại di động. Điều này tạo
những tin đồn về việc Google có ý định bước vào thị trường điện thoại di động.
Tại Google, nhóm do Rubin đứng đầu đã phát triển một nền tảng thiết bị di động
dựa trên hạt nhân Linux, được họ tiếp thị đến các nhà sản xuất thiết bị cầm tay và các
nhà mạng trên những tiền đề về việc cung cấp một hệ thống mềm dẻo, có khả năng
nâng cấp mở rộng cao. Một số nguồn tin cho biết trước đó Google đã lên danh sách các
thành phần phần cứng và các đối tác phần mềm, đồng thời ra hiệu với các nhà mạng
rằng họ sẵn sàng hợp tác ở nhiều cấp độ khác nhau. Ngày càng nhiều suy đoán rằng
Google sẽ tham gia thị trường điện thoại di động xuất hiện trong tháng
12 năm 2006. Tin tức của BBC và Nhật Báo Phố Wall chú thích rằng Google muốn đưa
công nghệ tìm kiếm và các ứng dụng của họ vào điện thoại di động và họ đang nỗ lực
làm việc để thực hiện điều này. Các phương tiện truyền thông tin và online cũng sớm
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
có bài viết về những tin đồn cho rằng Google đang phát triển một thiết bị cầm tay mang
thương hiệu Google. Và lại càng có nhiều suy đoán sau bài viết về việc Google đang
định nghĩa các đặc tả công nghệ và trình diễn các mẫu thử với các nhà sản xuất điện
thoại di động và nhà mạng.
Tháng 9 năm 2007, tờ InformationWeek đăng tải một nghiên cứu
của Evalueserve cho biết Google đã nộp một số đơn xin cấp bằng sáng chế trong lĩnh
vực điện thoại di động.
Ngày 5 tháng 11 năm 2007, Liên Minh Thiết Bị Cầm Tay Mở Rộng (Open
Handset Alliance), một hiệp hội bao gồm nhiều công ty trong đó có Texas
Instruments, Tập Đoàn BroadCom, Google, HTC, Intel, LG, Tập Đoàn Marvel
Technology, Motorola, Nvidia Qualcomm, Samsung Electronics, Sprint Nextel và T-
Mobile được thành lập với mục đích phát triển các tiêu chuẩn mở cho thiết bị di
động. Cùng với sự thành lập của OHA (Liên minh thiết bị cầm tay mã nguồn mở), họ
cũng giới thiệu sản phẩm Android đầu tiên. Nó là một thiết bị di động có hệ điều hành
dựa trên nhân Linux phiên bản 2.6.(2.7)
Ngày 9 tháng 12 năm 2008 thêm 14 thành viên mới gia nhập dự án Android đ ược
công bố, gồm có ARM Holdings, Atheros Communications, Asustek Computer Inc,
Garmin Ltd, Softbank, Sony Ericsson, Toshiba Corp và Vodafone Group Plc
2. Giấy Phép.
Trừ những giai đoạn cập nhật ngắn, Android đã lưu hành với mã nguồn mở kể
từ ngày 21 tháng 10 năm 2008. Google đã mở toàn bộ mã nguồn (bao gồm cả các ngăn
xếp mang và điện thoại) dưới giấy phép Apache. Với giấy phép Apache, các nhà cung
cấp có thể thêm những mở rộng thương mại mà không cần chuyển chúng thành mã
nguồn mở.
3. Biểu Tượng.
Biểu tượng đại diện của hệ điều hành Android hiện tại là chú robot màu xanh,
vốn được biết đến với tên gọi Bugdroid, ngay từ khi ra mắt đã trở nên phổ biến và
được ưa chuộng trên thị trường di động thế giới. Tuy nhiên, chú robot xanh xinh xắn lại
không phải là biểu tượng đầu tiên của hệ điều hành này.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Người máy màu xanh lá này đã trở nên quá quen thuộc trên toàn cầu
Hình ảnh về những con robot trông có vẻ tinh nghịch với hình dáng như những
chiếc kẹo bên dưới đây chính là hình đại diện được đề cử đầu tiên dành cho hệ điều
hành Android. Chúng được sáng tạo bởi Dan Morill, một nhân viên làm việc trong bộ
phận lập trình của Google, vào năm 2007. Tuy không được lựa chọn để làm hình ảnh
đại diện chính thức, nhưng những biểu tượng vui nhộn này cũng đã tồn tại trong một
khoảng thời gian khá dài với biệt danh Dandroids.
Dandroids có vẻ "nhí nhố" hơn Bugdroid
Dandroids mặc dù mang những nét đặc trưng riêng nhưng đến sau cùng, Google
đã chọn “người máy” Bugdroid – với dáng vẻ hiện đại và trẻ trung hơn – được sáng tạo
bởi Irina Blok, làm biểu tượng chính thức cho hệ điều hành di động của họ. Bên cạnh
đó, để khẳng định thương hiệu, cách đặt tên các phiên bản hệ điều hành Android theo
các món ăn tráng miệng do Ryan PC Gibson đề xuất cũng đã đ ược Google áp d ụng. Và
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
cho đến bây giờ, Android đã và đang mang đến thêm nhiều hương vị ngọt ngào nữa như
Cupcake, Donut, Ice Cream Sandwich, Jelly Bean hay sắp tới đây sẽ là Key Lime Pie.
Các phiên bản Android được đặt tên theo các món tráng miệng
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC PHIÊN BẢN ANDROID.
Android đã có những bước đi dài kể từ khi thiết bị đầu tiên dùng hệ điều hành
này xuất hiện, chiếc HTC Dream (ở nhiều nước gọi là T-Mobile G1) . Trong quãng thời
gian ấy, người dùng đã chứng kiến sự xuất hiện của rất nhiều phiên bản Android, giúp
nó dần biến đổi thành một nền tảng di động mạnh mẽ như ngày hôm nay.
1. Điểm Khởi Đầu Của Android – Android 1.0 (Linux Kernel 2.6, 2.7)
Kỉ nguyên Android chính thức
khởi động vào ngày 22/10/2008, khi
mà chiếc điện thoại T-Mobile G1
chính thức được bán ra ở Mỹ. Ở giai
đoạn này, rất nhiều những tính năng
cơ bản cho một smartphone bị thiếu
sót, chẳng hạn như bàn phím ảo,
cảm ứng đa điểm hay khả năng mua
ứng dụng. Tuy nhiên, vai trò của
phiên bản đầu tiên này vô cùng quan
trọng. Nó đã đặt nền móng cho các
tính năng có thể xem là đặc điểm
nhận dạng của Android ngày nay.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Thanh thông báo kéo từ trên xuống: Ngay từ ngày đầu tiên trình làng, Android
đã được tích hợp một hệ thống cảnh báo vô cùng hữu dụng so với những đối thủ cạnh
tranh thời bấy giờ mặc dù nó không được tốt như Notification Bar trên các thế hệ
Android mới. Người dùng có thể nhanh chóng xem những tin nhắn đến, xem ai mới gọi
nhỡ hoặc bất cứ thứ gì mà phần mềm trên đang máy muốn người dùng biết. Tất cả
thông báo đều tập hợp trong một danh sách duy nhất. Thanh trạng thái, bao gồm đ ồng
hồ, biểu tượng pin, biểu tượng cho các kết nối cũng được tích hợp vào nơi đây, giúp
tiết kiệm tối đa không gian màn hình nhưng vẫn phục vụ đầy đủ nhu cầu thông tin cho
người sử dụng. Mãi cho đến ngày nay, Android 4.2 vẫn duy trì ý tưởng tuyệt vời này.
Màn hình chính và widget: Nếu muốn so sánh Android, iOS và Windows Phone,
điểm khác biệt lớn nhất đó là một màn hình chính. Màn hình chính của Android thật sự
rất phong phú. Có thể thay đổi hình nền (Windows Phone không làm được điều này),
đặt icon ra màn hình chính, sử dụng widget và hơn hết là thay luôn cả cái màn hình chính
nếu muốn. Độ tùy biến của màn hình chính trên Android có thể xem là cao nhất trong
các hệ điều hành di động hiện nay. Về phần widget, đây cũng là một điểm hay của
Android vì nó cho phép người dùng nhanh chóng truy cập đến một số tính năng nào đó
hoặc xem nhanh các thông tin cập nhật chi tiết một cách nhanh nhất. Widget cũng đóng
vai trò trang trí cho màn hình chính nữa. Symbian cũng có widget nhưng chưa so đ ược
với Android về mức độ phong phú và chức năng (tất nhiên là phải về sau này, còn lúc
mới ra thì chưa có nhiều).
Tích hợp chặt chẽ với Gmail: Lúc chiếc G1 ra mắt, Gmail đã hỗ trợ giao thức
POP và IMAP để dùng được với các trình gửi nhận email trên thiết bị di động, nhưng
vấn đề nằm ở chỗ không có giao thức nào được tận dụng tối đa để phục vụ những tính
năng độc đáo của Gmail (ví dụ như lưu trữ, đánh nhãn cho email). Android 1.0 ra mắt đã
khắc phục được vấn đề này và có thể nói chiếc G1 đã mang lại trải nghiệm Gmail tốt
nhất trên thị trường vào thời điểm đó.
Về mặt giao diện: Google xây dựng giao diện của Android 1.0 với sự hợp tác
của một công ty thiết kế đến từ Thụy Điển với tên gọi The Astonishing Tribe (TAT).
Từ Android 1.0 đến 2.2, có thể thấy sự xuất hiện của một widget đồng hồ quen thuộc,
tuy đơn giản nhưng khá đẹp mắt, đó chính là dấu ấn của TAT. Một thời gian sau, TAT
bị RIM mua lại để tập trung phát triển cho nền tảng BlackBerry OS cũng như BBX.
Mối quan hệ của TAT với Google Android cũng chấm dứt ở đây.
2. Android 1.1 (Ngày 9 Tháng 2 Năm 2009)
Tháng 2/2009, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba
tháng sau khi G1 được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì to lớn
bởi tính năng chính của nó là sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã cho th ấy
khả năng nâng cấp thiết bị di động qua phương pháp Over-The-Air (tức tải về và cài
đặt bản cập nhật ngay trên thiết bị, không cần kết nối với máy tính). Ở thời điểm đó,
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
rất ít hệ điều hành di động có thể làm được việc này, hầu hết đều phải nhờ đ ến một
phần mềm chuyên dụng nào đó trên PC. Trước đó, ở Mỹ có dòng máy Danger Hiptop
(được biết nhiều hơn với tên Sidekick) đã có cập nhật dạng gần giống over the air theo
từng giai đoạn, và chính Andy Rubin, người sáng lập công ty Android Inc. (sau đó
Google mua lại) cũng chính là nhà đồng sáng lập hãng Danger.
3. Android 1.5 Cupcake (Linux Kernel 2.6,27 – Ngày 30 Tháng 4 Năm 2009)
Android 1.5 có lẽ có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình tr ưởng thành c ủa
Android khi nó bổ sung cho hệ điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó cạnh
tranh với các nền tảng đối thủ khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được Google gọi
tên theo các món đồ ăn với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự alphabet. Cupcake là
một loại bánh nhỏ, hơi giống bánh bông lan và có kem bên trên. Sau này ta có thêm
Donut, Eclair (bánh su kem nhưng dài, nhân chocolate), FroYo (ya-ua đá), Gingerbread
(bánh gừng), Honeycomb (một loại bánh có hình tổ ong), Ice Cream Sandwich (bánh
sandwich kem) và mới đây nhất là Jelly Bean (một loại kẹo dẻo viên nhỏ, hình hạt đậu).
Về mặt giao diện, Android 1.5 không có nhiều điểm thay đổi so với người tiền
nhiệm của mình. Google chỉ điểm thêm vài điểm để làm giao diện trông bóng bẩy,
mượt mà hơn một tí, chẳng hạn như widget tìm kiếm có độ trong suốt nhẹ, biểu tượng
app drawer có một số hoa văn nhỏ mới, v.v. Nói chung, giao diện không phải là một
điểm nhấn của Android 1.5 mà người ta quan tâm nhiều hơn đến các tính năng mới mà
nó mang lại, chẳng hạn như:
Bàn phím ảo: Tại sao Google không cho
những bản Android đầu tiên bàn phím mềm? Đâu
phải là họ không có khả năng làm đâu? Thực chất,
mục tiêu ban đầu của Android là cạnh tranh với
BlackBerry. Vâng, thời đó BlackBerry đang rất nổi
và được nhiều người dùng quan tâm, nhất là ở Mỹ,
bởi chính bàn phím vật lí của nó. Bởi vậy mà G1 có
một bàn phím QWERTY trượt ngang. Mãi đến bản
Cupcake này mới có một chiếc điện thoại Android
thuần cảm ứng là HTC Magic được giới thiệu.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Cùng với đó, Google tích hợp vào Cupcake những "cái móc", dân lập trình gọi là
hook, để họ có thể tự do viết phần mềm bàn phím của riêng mình cho Android. Lại
thêm một điểm nữa khiến cho Android trở nên khác biệt với các hệ điều hành đối thủ
khác. Lúc Cupcake xuất hiện, bàn phím ảo mặc định rất chậm và không chính xác khi so
sánh với iOS, chính vì thế mà những hãng sản xuất phần cứng như HTC đã phát triển
riêng một biện pháp khắc phục, cũng may là có hook do Google mở ra.
Mở rộng khả năng cho widget : Android 1.0 và 1.1 có tích hợp widget, nhưng
tiềm năng của nó chưa được khai thác hết vì Google chưa đưa bộ phát triển phần mềm
cho lập trình viên. Từ Android 1.5 trở đi thì chuyện đã thay đổi, và đ ến thời đi ểm hi ện
tại, kho widget của Android đã rất phong phú, đó là chưa kể đến những ứng dụng của
bên thứ ba cũng mang sẵn trong mình widget nữa. Nhờ có khả năng này mà việc tùy
biến giao diện của Android càng được đẩy mạnh hơn nữa.
Cải tiến clipboard: Thật ra Android đã hỗ trợ việc copy và paste ngay từ những
ngày đầu tiên rồi, nhưng nó bị giới hạn lại ở textbox (là những chỗ nào chúng ta có thể
gõ chữ được) và sao chép các đường link mà thôi. Ví dụ đang đọc mail hay đang duy ệt
web thì chịu, chúng ta không cách gì sao chép được. Với Cupcake thì Google cho phép
sao chép nội dung của web, một cải tiến được đánh giá là tốt. Còn với Gmail thì phải
đến vài bản nâng cấp sau mới có được tính năng này.
Khả năng quay phim: Thật khó mà tưởng tượng được chiếc smartphone xịn lại
bán ra mà không hề có tính năng quay phim, nhưng đó là những gì mà chiếc T-Mobile G1
phải "hứng chịu" (cũng hơi giống iPhone những đời đầu). Mãi đến Android 1.5 thì
Android mới quay phim được. Nhưng cũng giống với bàn phím, trình camera mặc định
của Android không tốt nên các hãng phần cứng phải nhanh chóng thay nó với ứng dụng
của riêng mình với các chế độ quay theo cảnh, chạm để lấy nét, tùy chỉnh thông số
video.
Và còn nhiều thứ khác nữa bao gồm khả năng xóa hoặc di chuyển hàng loạt
email trong Gmail, cho phép tải ảnh, video lên YouTube, Picasa, truy cập danh bạ trong
Google Talk từ nhiều ứng dụng khác.
4. Android 1.6 Donut (Linux Kernel 2.6,29 – Ngày 30 Tháng 9 Năm 2009)
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Phiên bản bánh Donut
này, mặc dù chỉ thêm có 0.1
vào mã số của Android 1.5
nhưng nó cũng mang lại
nhiều cải tiến đáng giá. Một
vài điểm trong giao diện
được cải thiện, vài tính năng
nhỏ được thêm vào, cuối
cùng là hỗ trợ cho mạng
CDMA. Động thái này cho
phép nhiều nhà mạng hơn
có thể sử dụng với Android,
giúp cho Android có thêm
một số lượng lớn người
dùng ở Mỹ và ở cả Châu Á
nữa. Nhưng có lẽ điểm thú
vị nhất của Donut đó là hỗ
trợ các thành phần đồ họa
độc lập với độ phân giải.
Lần đầu tiên, Android có thể chạy trên nhiều độ phân giải và tỉ lệ màn hình khá nhau,
cho phép những thiết bị có nhiều độ phân giải hơn là 320 x 480. Hiện nay, chúng ta có
những chiếc smartphone Android chạy ở độ phân giải QVGA, HVGA, WVGA,
FWVGA, qHD, và 720p, HD và Full HD. Vài chiếc máy tính bảng còn đạt mức 1920 x
1080 nữa.
Tính năng Quick Search Box, được biết nhiều hơn trong thế giới điện thoại với
cái tên Universal Search, cũng là một điểm mà Android nhận được nhiều lời khen. Có
thể tìm kiếm danh bạ, ứng dụng, nhạc, tin nhắn,…, tất cả đều chỉ thao tác trong một
hộp tìm kiếm mà thôi. Trước Donut, khi nhấn nút Search trên máy Android thì chỉ có thể
tìm kiếm thông qua google.com mà thôi. Google cũng cho phép những lập trình viên tích
hợp tính năng tìm kiếm mới này vào ứng dụng của mình để mở rộng thêm khả năng của
Quick Search Box.
Android 1.6 còn có gì mới? Đó là một Android Market với thiết kế mang tông
màu xanh trắng đặc trưng của Android, có thể hiển thị các ứng dụng free và trả phí
hàng đầu. Những ứng dụng bên thứ ba cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Giao di ện
camera mới, tíhc hợp với trình xem ảnh tốt hơn, giảm thời gian chờ giữa hai lần chụp
ảnh. Nhưng cũng thường thì các nhà sản xuất cũng thay thế bằng ứng dụng của riêng
mình.
5. Android 2.0 và Android 2.1 Éclair (Linux Kernel 2.6,29 – 26/10/009)
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Đầu tháng 9 năm 2009, một năm sau khi G1 chào đời, Android 2.0 đã được ra
mắt. Thật sự không ngoa khi mô tả Android 2.1 bằng một chữ "lớn". Một cơ hội lớn
cho những nhà phát triển, một tiềm năng lớn cho Android về sau, những chiếc điện
thoại "lớn" được ra mắt và phân phối bởi các nhà mạng lớn. Eclair, tên gọi của Android
2.0, lúc mới ra mắt chỉ được dùng độc nhất cho chiếc Motorola Droid của nhà mạng
Verizon, một trong những chiếc điện thoại đã kích hoạt cho một kỉ nguyên Android lớn
mạnh như ngày hôm nay. Motorola Droid còn được biết đến với tên gọi Motorola
Milestone khi nó xuất hiện ở Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất thành công của
Motorola và cả Google khi mang đến cho người dùng những trải nghiệm cực kì tốt với
Android.
Vậy những gì làm cho Eclair quan trọng? Nó là bản nâng cấp và làm mới lớn
nhất mà Android từng có kể từ khi hệ điều hành này được giới thiệu, cả về ngoại hình
lẫn kiến trúc bên trong. Vào thời điểm Motorola Milestone ra mắt, độ phân giải cao và
lạ 854 x 480 cùng nhiều yếu tố phần cứng khác đã làm cho sản phẩm này đứng đầu thế
giới Android về cấu hình, nhưng quan trọng hơn là Android 2.0 có những tính năng
khiến cho nó dễ bán hơn, chẳng hạn như:
Hỗ trợ nhiều tài khoản người dùng: lần đầu tiên, nhiều tài khoản Google có
thể được đăng nhập trên cùng một thiết bị chạy Android. Tài khoản Microsoft Exchange
cũng được hỗ trợ trong Eclair. Người dùng có thể duyệt qua danh bạ, email của từng tài
khoản. Google giờ đây cho phép những nhà phát triển bên thứ ba tích hợp dịch vụ của
họ vào trong mục Account này, đồng thời hỗ trợ tự động đồng bộ hóa.
Quick Contact: khi chạm vào một số liên lạc nào đó, có một menu nhỏ sẽ xuất
hiện để người dùng tương tác theo nhiều cách: gửi email, gọi điện, nhắn tin và hơn thế
nữa. Miễn là nơi nào có biểu tượng contact xuất hiện là nơi đó có thể dùng Quick
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Contact. Sau này có thêm Twitter, Facebook và nhiều dịch vụ đồng bộ khác cũng tích
hợp tính năng riêng của mình vào Quick Contact.
Cải tiến bàn phím ảo: Giống với chiếc G1, Droid/Milestone có một bàn phím
QWERTY đầy đủ dạng trượt ngang nhưng Google cho phép người dùng sử dụng thêm
bàn phím ảo mà hãng đã thiết kế lại. Mặc dù tính năng cảm ứng vẫn còn một đi ều xa
vời với Android vào lúc đó (trình duyệt, bản đồ và cả các phần mềm khác không hề
dùng được tính năng hai ngón tay để phóng to, thu nhỏ,…) nhưng Eclair lại sử dụng dữ
liệu multitouch từ bàn phím để xác định điểm chạm thứ hai trong lúc người dùng gõ
nhanh. Độ chính xác của bàn phím ảo trên Android 2.0 nhờ đó đã được cải tiến đáng kể.
Trình duyệt mới: Mặc dù chưa hỗ trợ cảm ứng đa điểm nhưng trình duyệt trên
Android 2.0 cũng có nhiều điểm nâng cấp đáng khen. Google đã hỗ trợ HTML5, bao
gồm luôn khả năng phát video ở chế độ toàn màn hình. Hộp địa chỉ kết hợp với thanh
tìm kiếm (giống với trình duyệt Chrome) cũng lần đầu xuất hiện trên Android. Để bù
lại cho tính năng cảm ứng đa điểm, trình duyệt mới hỗ trợ chạm hai lần để phóng to
nội dung trên màn hình, kèm theo đó là hai nút Zoom in, Zoom out.
Giao diện mới: các biểu tượng giờ đây đã đẹp hơn, sang trọng hơn, gọn gàng
hơn nhiều so với trước. Widget cũng được thiết kế mới để tương thích với độ phân
giải cao trên Droid. Giao diện menu cũng đẹp hơn nữa.
Về phần Android 2.1, mặc dù không "lớn" như Android 2.0 vì nó chủ yếu ra mắt
để sửa lỗi và thêm hàm API để lập trình viên can thiệp sâu hơn vào hệ thống nhưng nó
đã hỗ trợ thêm vài tính năng lý thú như Live Wallpaper, chuyển giọng nói thành văn bản
và một màn hình khóa mới.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Android 2.1
cũng có rất nhiều ý
nghĩa về việc thay đổi
chiến lược của
Google. Nhận thấy
rằng các hãng phần
cứng thường thay đổi
giao diện gốc của
Android theo ý họ,
Google đã chọn HTC
để làm việc trực tiếp
và tạo ra Nexus One,
chiếc điện thoại đầu
tiên của hãng. Nexus
One mang trong mình
một bản Android 2.1
thuần khiết nhất và
không hề bị chỉnh sửa
gì cả. Không chỉ nổi
bật về mặt phần
mềm, Nexus One còn
có phần cứng mạnh
mẽ thời bấy giờ. Nó là một trong những smartphone đầu tiên chạy trên CPU Snapdragon
1GHZ của Qualcomm, đồng thời sở hữu màn hình AMOLED độ phân giải WVGA.
Thực ra, Google đã tiến hành việc này kể từ chiếc Droid với Android 2.0. Google và
Motorola đã làm việc chặt chẽ để cùng phát triển một mẫu điện thoại tốt, nhưng Eclair
trong Droid vẫn có vài sự tinh chỉnh. Và tất nhiên là Google chưa bao giờ tr ực tiếp bán
Droid cả.
6. Android 2.2 Froyo (Linux Kernel 2.6,32 Ngày 20 Tháng 5 Năm 2010)
Android 2.2 được ra mắt trong năm 2010 và mục tiêu của chương trình Nexus đã
xuất hiện rõ hơn bao giờ hết: Nexus One là chiếc điện thoại đầu tiên được nâng cấp lên
Android 2.2, sớm hơn nhiều so với tất cả các hãng khác. Giao diện màn hình chính đã
được thay đổi, từ 3 màn hình chính tăng lên thành 5 màn hình. Dãy nút kích hoạt nhanh
chế độ gọi điện, web và App Drawer cũng đã xuất hiện. Những chấm nhỏ ở góc trái,
phải bên dưới của màn hình giúp người dùng biết mình đang xem đến màn hình nào.
Google đã có nhiều cố gắng để giao diện Android được vui và đẹp hơn, dễ dùng hơn,
bắt kịp phần nào với giao diện của bên thứ ba như HTC Sense chẳng hạn.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
FroYo còn có một trình xem
ảnh mới với khả năng hiển thị hình
ảnh 3D: nghiêng máy thì dãy ảnh sẽ
nghiên theo, đồng thời nó mang trong
mình nhiều hiệu ứng chuyển động
đẹp mắt khác. Đây cũng là dấu mốc
về việc Google đã đi thuê ngoài
nhằm phát triển Android mà Gallery
trên FroYo là một ví dụ. Tính năng
trạm phát Wifi cũng xuất hiện, cách
copy, paste mới tốt hơn. Nhiều tính
năng bảo mật mới cũng xuất hiện.
Tuy nhiên, với người dùng thông
thường thì việc Android 2.2 FroYo có
hỗ trợ duyệt web với Flash là điểm
đáng quan tâm nhất. Hầu như người
ta muốn lên FroYo là để tận hưởng
được cảm giác duyệt web với Flash
đầy đủ trên thiết bị di động. Android
2.2 bổ sung thêm tính năng di chuyển
một phần ứng dụng từ bộ nhớ máy
sang thẻ nhớ, giúp tiết kiệm dung
lượng cho các điện thoại thời bấy
giờ.
7. Android 2.3 Gingerbread (Linux Kernel 2.6,33,34 – 6 Tháng 12 Năm 2010)
Khoảng nửa năm sau khi FroYo xuất hiện, Google đã trở lại với bản Android 2.3.
Google giới thiệu nó với nhiều tính năng mới, tập trung vào việc phát triển game, đa
phương tiện và phương thức truyền thông mới. Android 2.3 có tên mã là Gingerbread,
hiện bộ SDK Android 2.3 dành cho các nhà phát triển cũng đã được Google phát hành.
Android 2.3 thật ra không phải là một bản nâng cấp lớn nhưng những ảnh hướng
mà nó mang lại thì không nhỏ chút nào. Lần đầu tiên Android khoác lên mình một giao
diện đen, trông ngầu và chuyên nghiệp hơn. Các thành phần trên màn hình chính có thêm
tông màu xanh lá đậm. Bên cạnh đó, việc sử dụng màu đen còn là ý định của Google để
giúp các máy dùng màn hình AMOLED tiết kiệm pin hơn. Vài tính năng mới trên
Android 2.3:
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Hai thanh chặn khi chọn văn bản:
Hồi Android 2.2, việc chọn văn bản khi đang
soạn thảo hoặc khi đang duyệt web rất cực
khổ. Nhờ có thanh chặn này mà người dùng có
thể chọn từng kí tự một, tiện lợi hơn rất
nhiều.
Bàn phím được cải tiến: Google một lần nữa đầu tư cho bàn phím ảo, lần này
có sự thay đổi lớn về tông màu của bàn phím. Nhìn các phím đẹp hơn, đen hơn và cả kí
tự cũng được thay đổi so với hồi Android Cupcake. Nhờ có khả năng nhận biết đa điểm
trên bàn phím mà việc việc soạn thảo đã dễ chịu hơn, cho phép người dùng nhấn cùng
lúc nhiều phím để chuyển sang bàn phím dạng kí tự.
Công cụ quản lí pin và ứng dụng: vì Android cho phép các ứng dụng chạy nền
thực thụ chứ không bị ngắt lại, vấn đề pin bị người dùng phàn nàn rất nhiều, đ ặc biệt
là các phần mềm không được viết để thoát khỏi bộ nhớ sau khi đã hoàn tất công việc
của mình. Một công cụ mới đã ra mắt với biểu đồ nhằm theo dõi mức độ tiêu thụ pin
cùng việc quản lí ứng dụng đang chạy sẽ giúp đỡ người dùng phần nào.
Hỗ trợ máy ảnh trước: Lần đầu tiên một phiên bản của hệ điều hành Android
hỗ trợ việc sử dụng máy ảnh phụ phía trước của thiết bị.
Nhiều tính năng mới của Gingerbread chủ yếu nhắm đến lập trình viên hơn là
người dùng cuối, ví dụ như NFC chẳng hạn. Nhiều tháng trôi qua, NFC không có nhiều
ứng dụng thực tế ngoài việc đến một vài thành phố ở nước ngoài và dùng NFC để lấy
thông tin về địa điểm. Khi Nexus S dành cho nhà mạng Sprint, Mỹ, ra đời, Google giới
thiệu Google Wallet, dịch vụ thanh toán di động sử dụng NFC của mình. Đ ến bây giờ,
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
nhiều thứ hơn đã hỗ trợ NFC, NFC tag cũng xuất hiện ở nhiều nơi hơn. Thậm chí
người ta còn dự đoán rằng NFC sẽ thay thế được mã QR trong tương lai và Android 2.3
đã góp một phần quan trọng nhằm thúc đẩy việc sử dụng phổ biến kết nối tầm ngắn
này.
Với Gingerbread, Google muốn xâm nhập vào thị trường game di động vốn đang
bị chiếm lĩnh bởi iOS bằng việc cung cấp cho lập trình viên quyền truy cập cấp thấp
nhất, tức là gần sát nhất, đến các phần cứng về âm thanh, đồ họa, lưu trữ,… Nhờ đó,
nhiều game/ứng dụng native ra đời với tốc độ hoạt động nhanh hơn, hình ảnh, âm thanh
phong phú, chân thật và đẹp hơn nhiều.
8. Android 3.x Honeycomb (Ngày 22 Tháng 2 Năm 2011)
Honeycomb là phiên bản Android dành riêng cho máy tính bảng, và sản phẩm đầu
tiên dùng hệ điều hành này Motorola Xoom. Xoom mang trong mình một giao diện
thuần Android 3.0 và không bị chỉnh sửa gì. Mặc dù Android 3.0 không có nhiều dấu ấn
đặc biệt trên thị trường nhưng nó là nền tảng cho Android 4.0 sau này với các tính năng
như:
Sử dụng tông màu đen và xanh dương làm tông màu chủ đạo , hệ thống icon
và biểu tượng mới.
Homescreen và widget cũng được thiết kế lại. Việc đặt widget lên màn hình
cũng tiện dụng hơn nhờ có hình ảnh thu nhỏ của các homescreen trong mục widget nên
người dùng có thể chọn lựa theo ý muốn.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
- Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Không còn nút nhấn vật lí: trên các máy tính bảng Android 3.x, người ta không
còn trang bị cho chúng ba phím Back, Home và Menu (và Search nữa) riêng biệt, cả nút
cứng lẫn nút cảm ứng, mà thay vào đó nó đã được bố trí ngay trên màn hình của người
dùng. Android 3.x có khả năng ẩn hoặc hiện các nút này một cách linh hoạt tùy vào việc
người dùng đang chạy ứng dụng gì.
Cải thiện đa nhiệm: nút Recent Apps lần đầu tiên xuất hiện trên Android cho
phép người dùng duyệt qua các ứng dụng mà mình mới chạy trong thời gian gần đây,
nhờ đó việc chuyển đổi app dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn. Mỗi ứng dụng như vậy
cũng có một ảnh chụp màn hình thu nhỏ để tiện cho việc chọn lựa. Từ Gingerbread trở
về trước, việc chạy đa nhiệm phải nhờ đến việc nhấn giữ nút Home để tiết lộ bảng
các ứng dụng gần đây, bất tiện hơn nhiều.
Thanh Action Bar: một thanh chức năng được đặt bên trên mỗi ứng dụng, ở đó
lập trình viên có thể đặt các nút nhấn để điều khiển ứng dụng lên. Ngoài ra,
Honeycomb còn hỗ trợ cho việc bố cục ứng dụng theo nhiều cột để hướng đến việc hỗ
trợ máy tính bảng tốt hơn.
Sau Android 3.0, Android 3.1 và 3.2 là hai bản nâng cấp nhỏ của Honeycomb và
vẫn dùng lại cái tên này. Mục đích chủ yếu của chúng là để sửa l ỗi và thêm vài tính
năng mới như resize widget ngay trên homescreen, hỗ trợ thẻ SD,...
9. Android 4.0 Ice Cream Sandwich (Ngày 19 Tháng 10 Năm 2011)
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
nguon tai.lieu . vn