Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN
HỌ TÊN: NGUYỄN QUANG LỰC
LỚ P : KTPT49A
MÔN : KINH TẾ PHÁT TRIỂN
ĐỀ BÀI: phân tích tính chất kế thừa và sự tiến bộ trong quan niệm
về vai trò các yếu tố nguồn lực tác động tới tăng trưởng kinh tế của các
trường phái kinh tế cổ điển, tân cổ điển, Keynes, hiện đại .
1
- Mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất
về sự tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối liên hệ giữa
chúng.
Xét trên thời gian xuất hiện ta có các mô hình :
Mô hình tăng trưởng Cổ Điển : Y=f(K,L,R)
Mô hình tăng trưởng Keynes(Harrod-Domar) : Y=f(K,L,R).
Mô hình tăng trưởng Tân-Cổ Điển : Y=f(K,L,R,T) T- công nghệ ngoại sinh.
Mô hình tăng trưởng Hiện Đại : Y=f(K,L,R,T)
Những mô hình đại diện cho các trường phái này có sự thay đổi lớn lao,từ
quan niệm về sự vận động của nền kinh tế,vị trí của chính phủ ,đến việc xác
định những yếu tố chủ yếu tác động đến tăng trưởng kinh tế và việc lượng hoá
tác động của chúng. Mô hình tăng trưởng của Cổ Điển,Keynes đều khẳng định
vai trò của các yếu tố vật chất tác động đến tăng trưởng kinh tế là K,L,R.Trong
đó Ricardo coi R là yếu tố quan trọng nhất và là giới hạn của tăng trưởng,còn
Keynes khẳng định tiết kiệm,đầu tư làm cho vốn sản xuất gia tăng và là nguồn
gốc của tăng trưởng. Mô hình tăng trưởng của Tân-Cổ Điển và Hiện đại,Theo
họ ngoài các yếu tố vật chất K,L,R tác động đến tăng trưởng thì yếu tố tiến bộ
công nghệ trở thành yếu tố quyết định đến tốc độ tăng trưởng của thu nhập
quốc dân.
Các mô hình tăng trưởng kinh tế đều ra đời trong những hoàn cảnh khác
nhau.Chính những bối cảnh mới xuất hiện làm cho mô hình tăng trưởng kinh tế
cũ không còn khả năng áp dụng để làm nền kinh tế phát triển nữa.Đây là điều
kiện tất yếu để một mô hình tăng trưởng mới ra đời và thích ứng với hoàn cảnh
hiện tại . Bối cảnh ra đời của trường phái Cổ điển là:Trong thời kỳ này nông
nghiệp đang ở vị trí thống trị,khoa học công nghệ chưa được để ý đến.Mô hình
kinh tế cổ điển được xem xét trong một nền kinh tế không có sự điều tiết của
chính phủ,các chính sách của chính phủ không có ảnh hưởng quan trọng đối
với sự hoạt động của nền kinh tế.Nền kinh tế luôn luôn đạt được mức sản lượng
tiềm năng(Yf)dựa trên sự tự điều tiết của giá cả và tiền lương danh nghĩa.Ngoài
ra,nền kinh tế còn bị ảnh hưởng rất nhiều của quy luật lợi tức biên giảm dần
theo quy mô.
Hàm sản xuất Y=f(K,L,R)
Theo trường phái Cổ điển thì các yếu tố cơ bản của tăng trưởng là R(số lượng
và chất lượng ruộng đất),K(vốn),L(lao độn).Theo Ricardo muốn có g>0 thì phải
có K>0.Ta có:
g=f(I)
I=f(Pv) . Pv_lợi nhuận
Pv=f(W). W_tiền lương.
W=f(Pa). Pa_giá của nông sản.
Pa=f(R). => R chính là yếu tố quyết định đến tăng
trưởng và cũng là yếu tố giới hạn của tăng trưởng.
Vào những năm 30 của thế kỷ 20 khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp diễn
ra thường xuyên,nghiêm trọng.Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933
chứng tỏ học thuyết “tự điều tiết”nền kinh tế là thiếu chất xác đáng.Điều này đòi
hỏi các nhà kinh tế phải đưa ra những học thuyết mới có khả năng thích ứng với
tình hình mới dẫn đếnTrường phái Keynes-(Harrod-Domar) ra đời.
2
- Theo Harrod-Domar nền kinh tế luôn cân bằng ở dưới mức sản lượng tiềm
năng vì vậy luôn luôn tồn tại một khoảng cách suy thoái-luôn tồn tại thất
nghiệp.Muốn chấm dứt tình trạng này thì phải đẩy tổng cầu-mở rộng đầu
tư.Ngoài ra muốn thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và thất nghiệp thì nhà nước
phải thực hiện điều tiết bằng chính sách kinh tế ,vì vậy vai trò của nhà nước
được đánh giá rất cao.
Hàm sản xuất Y=f(K,L,R). Ở đây công nghệ là cố định.
Đầu tư đóng vai trò quyết định quy mô việc làm nhưng chất lượng đầu tư
phụ thuộc vào lãi xuất cho vay và hiệu xuất biên của vốn.Theo gt=
và kt=
Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học
–kỹ thuật.Hàng loạt các phát minh khoa học và hàng loạt các nguồn tài nguyên
được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất.Sự chuyển biến này đã có những
ảnh hưởng rõ rệt trong các trào lưu chính của tư tưởng kinh tế.Sự phát triển của
trào lưu này hình thành một trường phái kinh tế mới”Trường phái Tân-Cổ
điển”.Giống như bối cảnh của Cổ điển,trong điều kiện thị trường cạnh tranh(sự
tự điều tiết)khi nền kinh tế có biến động thì sự linh hoạt của giá cả và tiền công
là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí tiềm năng(Yf).Cổ điển luôn luôn
đạt được mức sản lượng tiềm năng còn Tân-Cổ điển thì chỉ đạt được tại một
thời điểm,cụ thể đó là thời điểm bắt đầu một chu kỳ kinh doanh.Trong thời kỳ
này quy luật lợi tức biên giảm dần theo quy mô vẫn chi phối mạnh mẽ.
Hàm sản xuất Y=f(K,L,R,T)
Theo Tân-Cổ điển các nhân tố cơ bản tác động đến tăng trưởng kinh tế là
K,L,R,T.Thêm yếu tố công nghệ,nhưng công nghệ ở đây là công nghệ ngoại
sinh,phải dựa vào các cú sốc công nghệ từ các nước phát triển.Họ cho rằng
chính yếu tố công nghệ là yếu tố cơ bản nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế.Bởi
vì T có ý nghĩa tác động đến việc sử dụng hiệu quả các yếu tố K,L,R,ngoài ra T
còn tạo nên yếu tố hiệu quả theo số nhân.
Dựa vào lý thuyết của Keynes.Chính phủ các nước đã sử dụng chính sách
kinh tế của Nhà nước để hạn chế mức độ lạm phát và thất nghiệp,làm tăng mức
sản lượng tiềm năng.Nhưng sau một thời gian áp dụng lý thuyết này các nước
có xu hướng quá nhấn mạnh vai trò của chính sách kinh tế ,do đó lại hạn chế
mức độ tự điều chỉnh của thị trường và xuất hiện những trở ngại mới cho quá
trình tăng trưởng.Trong bối cảnh đó,một trường phái kinh tế mới ra đời.”Kinh tế
học Hiện đại”.Các nhà kinh tế của trường phái này ủng hộ việc xây dựng một
nền kinh tế hổn hợp,cả AD và AS quyết định đến điểm cân bằng của thị trường
và đăc biệt đề cao vai trò của vốn,công nghệ.
Hàm sản xuất Y=f(K,L,R,T)
Theo kinh tế hoc Hiện đại thì sự cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết
tại mức sản lượng tiềm năng,mà thường ở dưới mức sản lượng tiềm năng,trong
điều kiện hoạt động bình thường nền kinh tế vẫn có thất nghiệp và lạm phát.
Thống nhất với cách xác định của mô hình kinh tế Tân-Cổ điển về các yếu tố
tác động đến sản xuất.Họ cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế dược xác
định bởi các yếu tố đầu vào sản xuấtc đó là L(nguồn lao động),K(vốn),R(tài
nguyên),T(công nghệ).Và vốn ,công nhệ là 2 yếu tố quyết định đến tăng trưởng
kinh tế.
3
- Xét theo thời gian ra đời,các mô hình sau luôn luôn có sự kế thừa ,hoàn
thiện và phát huy của các mô hình trước đó:
Nếu theo quan điểm của trường phái Cổ điển thì yếu tố cơ bản của tăng
trưởng kinh tế là đất đai,lao động và vốn,nhưng trong từng ngành và phù hợp
với một trình độ kỹ thuật nhất định,các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ
lệ nhất định,không thay đổi được.Ngoài tỷ lệ đó ra không còn cách lựa chọn nào
khác cho sự kết hợp giữa vốn và lao động.Còn theo mô hình Tân-Cổ điển các
nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất
định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về vốn và lao động.Trong quá trình sản xuất
có thể có nhiều cách kết hợp với nhau về các yếu tố đầu vào.Tùy thuộc vào
điều kiện của từng nước mà chúng ta có thể sử dụng kỹ thuật nhiều vốn hay
nhiều lao động.
So với mô hình Cổ điển mô hình Harrod-Domar đã hoàn thiện hơn ở chổ đã
định lượng được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng
kinh tế.Ngoài Harrod-Domar.Tân-Cổ điển cũng đã định lượng được các yếu tố
tác động đến tăng trưởng kinh tế.Cụ thể là hàm sản xuất Cobb-Douglas.
Y=T .K .L .R ( )
Sau khi biến đổi Cobb-Douglas,thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng
trưởng của các biến số.
g=t + k + l + r
Trong đó :g_tốc độ tăng trưởng của GDP
k,l,r_tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào.
t_phần dư còn lại,phản ánh tác động của khoa học –công nghệ.
_là các số lũy thừa,phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố
đầu vào.
Nếu như trong Harrod-Domar,yếu tố công nghệ là cố định ,có nghĩa là tác
động rất yếu đến tằng trưởng thì trong Tân-Cổ điển T được đánh giá cao và
trong mô hình kinh tế Hiện đại rất được qua tâm,chú ý đến.Nếu trong Tân-Cổ
điển .công nghệ chỉ là công nghệ ngoại sinh ,phụ thuộc vào các cú sốc của
nước ngoài thì trong mô hình Hiện đại ,công nghệ ngoài ra còn có các yếu tố
bên ngoài,năng suất nhân tố tổng hợp tác động đến công nghệ như cơ chế
chính sách,nghiên cứu triển khai công nghệ…..
Đối với các nhân tố cơ bản tác động đến tăng trưởng ,hoàn thiên hơn Cổ
điển ,Harrod-Domar.Tân Cổ điển chia các yếu tố thành 2 nhóm : Nhóm nhân
tố phát triển theo chiều rộng gồm K.L.R.
Nhóm nhân
tố phát triển theo chiều sâu T .
Trong Cổ điển “Sự tự điều tiết” của thị trường đóng vai trò tối cao,vai trò
của chính phủ ,nhà nước bị lãng quên thì trong Harrod-Domar lại ngược lại
Harrod-Domar quá đề cao vai trò của nhà nước, của các chính sách kinh
tế.Nghiên cứu học thuyết của Samelson(mô hình Hiện đại) ta thấy học thuyết
thể hiện ra như là sự xích lại gần giữa hai trường phái Tân –Cổ điển và
Keynes.Theo Samelson nền kinh tế vận động chịu sự điều tiết của của hai yếu
tố :Cơ chế thị trường và nhà nước.hai yếu tố này giữa vai trò ngang nhau. Ngoài
ra sản lượng cân bằng của nền kinh tế chịu sự tác động của cả AD và AS.Mô
hình tăng trưởng Hiện đại kế thừa quan điểm Tân –Cổ điển về tỷ lệ vốn và lao
4
- động-có nhiều cách kết hợp giữa vốn và lao động để tạo ra hiệu quả sản
xuất.Tiếp đó,còn kế thừa Harrod-Domar về vai trò của vốn nhưng hoàn thiện
hơn là chia vốn thành hai loại:
Vốn vật chất
Vốn nhân lực
Vốn nhân lực không tuân theo quy luật lợi tức biên giảm dần theo quy mô vì
vậy cần phải tập trung đầu tư vào giáo dục.Chính nguồn chất xám này sẽ làm
cho nền kinh tế phát triển nhanh,mạnh và bền vững.
Mặc dù những lý thuyết này không cung cấp liều thuốc thần để bảo đảm
rằng một nền kinh tế sẽ đạt được tăng trưởng nhanh chóng.Nhưng từ việc
nghiên cứu các mô hình này giúp chúng ta hiểu sâu hơn về nguồn gốc tăng
trưởng kinh tế và tạo ra khuôn khổ tri thức cho nhiều cuộc tranh luận về chính
sách tăng trưởng kinh tế
THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ VIỆT NAM
Kể từ khi bắt đầu công cuộc Đổi Mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu
đáng kể về tăng trưởng GDP và nâng cao mức sống bình quân. Tuy nhiên, gần
đây đã xuất hiện một số hiện tượng đáng lo ngại, ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế bền vững của nước ta, như chỉ số ICOR cao, chỉ số cạnh tranh giảm sút,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp… Khủng hoảng kinh tế có tác
dụng hai mặt: một mặt làm lộ rõ tất cả những yếu kém, khuyết tật và bất hợp lí
của cơ cấu kinh tế hiện tại, nhưng mặt khác lại tạo cơ hội để tái cấu trúc lại nền
kinh tế phù hợp hơn. Vì vậy, hơn bao giờ hết, việc xác định các nguồn tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam là hết sức cần thiết, nhằm tìm hiểu động lực dẫn đến
tăng trưởng ở Việt Nam trong thời gian qua và tìm ra chiến lược tăng trưởng kinh
tế trong những năm sắp tới. Các số liệu phân tích về nguồn tăng trưởng (theo
phương pháp hạch toán tăng trưởng) cho thấy từ năm 1996 đến nay, vốn có
đóng góp ngày càng lớn vào quá trình tăng trưởng kinh tế nước ta, trong khi
đóng góp cho tăng trưởng của yếu tố “tổng năng suất” có xu hướng giảm sút.
Một câu hỏi lớn là liệu nền kinh tế Việt Nam có thể tiến ngay vào quá trình tăng
trưởng kinh tế không chủ yếu phụ thuộc vào tích luỹ vốn hay không? Hoặc liệu
chúng ta có thể kết hợp được phát triển dưới dạng “lai” các mô hình dựa vào
vốn và tăng năng suất để sớm thoát ra khỏi “bẫy” tăng trưởng dựa vào vốn hay
không? Dù mô hình dựa trên các nguồn tăng trưởng của chúng ta được xác định
cụ thể như thế nào, cũng cần thấy rõ một kết luận rất cơ bản của các nhà kinh
tế là sự đóng góp của tổng năng suất nhân tố đối với tăng trưởng thu nhập thực
tế quan trọng hơn nhiều so với đóng góp của các yếu tố đầu vào. Nếu như lực
lượng chính của tăng trưởng kinh tế không phải là sự tích luỹ vốn hữu hình (như
quan điểm truyền thống) mà là tiến bộ công nghệ (được hiểu theo nghĩa rộng là
tổng năng suất), thì cho dù các nước nghèo có khả năng tiết kiệm thấp vẫn có
thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nếu có thể nhập khẩu công nghệ từ
các nền kinh tế tiên tiến. Khi đó, việc đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu và phát
triển (hỗ trợ hoạt động cải tiến ở các doanh nghiệp tư nhân, bao gồm cả nhập
khẩu công nghệ nước ngoài) sẽ mang lại hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao hơn
là việc chỉ cố gắng gia tăng lượng vốn hữu hình. Các mô hình tăng trưởng nội
sinh, đặc biệt là các mô hình xét đến vốn con người đã góp phần giải thích đáng
5
- kể sự chênh lệch về thu nhập giữa các quốc gia. Các mô hình này cho thấy
không có xu hướng các nước nghèo (ít vốn) có thể đuổi kịp các nước giàu về
mức thu nhập bình quân, cho dù có cùng tỷ lệ tiết kiệm. Nguyên nhân bắt nguồn
từ sự chênh lệch không chỉ ở lượng vốn vật chất (có thể bù đắp nhờ đầu tư và
viện trợ nước ngoài) mà quan trọng hơn là ở vốn con người. Bởi thế, ý nghĩa to
lớn của các mô hình tăng trưởng nội sinh là: tốc độ tăng trưởng dài hạn có thể
phụ thuộc vào hành động chính sách của chính phủ (đánh thuế, cung ứng cơ sở
hạ tầng, bảo hộ sở hữu trí tuệ, cung cấp các dịch vụ công liên quan đến giáo
dục, y tế…), vì các chính sách này có thể tác động tới các hoạt động sáng chế,
phát minh và tích lũy vốn con người. Câu hỏi cuối cùng là phải chăng các mô
hình tăng trưởng nội sinh là những mô hình tốt nhất cho nền kinh tế của ta? Câu
trả lời là không, bởi vì các mô hình này vẫn phụ thuộc vào một số giả định
truyền thống mà dường như không phù hợp với các nền kinh tế đang phát triển.
Chẳng hạn, các mô hình tăng trưởng nội sinh còn bỏ qua những yếu tố như sự
yếu kém về cấu trúc hạ tầng, cấu trúc thể chế ở các nước đang phát triển, mà
đây cũng là những yếu tố kìm hãm tăng trưởng, giống như mức tiết kiệm và tích
luỹ vốn con người thấp. Từ lâu người ta đã nhận ra rằng các nhân tố phi kinh tế
có mối tương tác với quá trình tăng trưởng. Tuy nhiên, trong các mô hình tân cổ
điển và tăng trưởng nội sinh, lịch sử và thể chế không có vai trò gì. Các kỹ thuật
tính toán tăng trưởng đo tầm quan trọng tương đối của mức vốn, lao động và
công nghệ trong quá trình tăng trưởng kinh tế chỉ thực hiện trong khuôn khổ một
hàm sản xuất kinh tế vĩ mô. Thế nhưng các nhà kinh tế thể chế hiện đại lập
luận rằng thể chế là cấu trúc mang tính thúc đẩy của một xã hội, do đó các luật
lệ, quy tắc…tạo nên nền tảng thể chế của một xã hội sẽ chi phối sự phân bổ
các nguồn lực của xã hội và nền kinh tế, và do vậy có ảnh hưởng lớn đến năng
suất. Dường như, việc xem xét và mô hình hoá tác động của các nhân tố phi
kinh tế nói chung, và yếu tố thể chế nói riêng, sẽ trở thành một hướng đi mới,
một bước tiến mới trong con đường tìm tòi và khám phá “các nguồn tăng trưởng
kinh tế” trong tương lai phù hợp với Việt Nam
6
nguon tai.lieu . vn